TOP 8 bài Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 14 4.4 K 3

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 14 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

SUY NGHĨ VỀ CÁI CHẾT CỦA LÃO HẠC TRONG TRUYỆN NGẮN CÙNG TÊN

Bài giảng: Lão Hạc

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 1

Lão Hạc là truyện ngắn phản ánh chân thực nhất cảnh đời cơ cực, nhiều cay đắng nhất của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Có thể nói là xã hội này đầy rẫy những bất công, đẩy người nông dân vào bế tắc, tuyệt vọng, không lối thoát. Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh Lão hạc với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nhưng cuối cùng số phận bi thảm. Cái chết của Lão Hạc cuối truyện luôn ám ảnh người đọc, bởi giá trị mà nó muốn nhắn gửi sâu xa như thế nào.

Không phải bỗng nhiên lão Hạc muốn tìm đến cái chết, bởi chẳng ai muốn chết cả. Chỉ khi túng quá, quẫn quá, và không còn con đường nào khác để đi thì cái chết là sự giải thoát nhẹ nhàng nhất. Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng được 5 đồng, thấy day dứt, thấy mình thật tệ bạc với nó quá. Lão tính đi tính lại, cuối cùng cũng tích được 30 đồng gửi ông Giáo, bao giờ con trai ông về thì nhờ ông Giáo gửi lại con trai.

Ngay từ đầu câu chuyện, Nam Cao đã giới thiệu hoàn cảnh vô cùng khó khăn, cùng cực và cô độc của Lão Hạc. Con trai thì đi cao su biền biệt chưa thấy về, lão già yếu, chỉ sống với cậu Vàng và mảnh vườn nhỏ. Lão thương con trai và mong muốn nó quay trở về đây. Tấm lòng đó của Lão thực sự đáng trân trọng và cảm phục.

Tuy nhiên cuộc sống càng ngày càng thiếu thốn, bệnh tật triền miên, lão không muốn cậy nhờ ông giáo và không muốn làm phiền đến hàng xóm nên đã xin Binh Tư ít bả chó. Lão bảo lão xin bả chó để bẫy con chó đi lạc nhưng thực ra để giải thoát bản thân mình, cũng là để tiền lại cho con, không làm gánh nặng cho bất kì ai.

Cái chết của lão Hạc để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh. Lão chết, cái chết đó giàu giá trị nhân văn, cũng như phản ánh chân thực hiện trạng xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đang rơi vào bế tắc như thế nào.

Vì bế tắc, vì nghèo đói, vì lòng tự trọng nên cái chết là sự lựa chọn cuối cùng, dù là bất đắc dĩ thì nó cũng có thể kết thúc trong êm đẹp. Xã hội Việt Nam bấy giờ cái nghèo đói tràn lan, thực dân phong kiến đã đẩy những người nông dân đến bước đường cùng như thế này.

Vốn dĩ lão Hạc là người có lòng tự trọng rất cao, nên dù khó khăn thế nào, lão cũng không muốn cậy nhờ bất cứ ai. Chính lòng tự trọng “hác dịch” đó đã buộc lão phải nghĩ đến cái chết, dù thực tâm lão vẫn muốn sống và khát sống một cách mãnh liệt. Một sự đối lập đến chua xót như vậy.

Lão chết, cái chết bộc lộ cao nhất tình yêu thương con vô bờ bến. Ông không muốn làm gánh nặng cho con sau này, ông muốn giành dụm hết tiền cho con, mình không dùng đến đồng nào. Tình cảm ấy thật vĩ đại và vượt khỏi sức tưởng tượng của con người.

Cái chết của Lão Hạc vừa phản ánh sự bế tắc của thời đại, của con người; đồng thời giải phóng chính lão hạc khi muốn mang đến những điều tốt đẹp cho đứa con của mình.

Thật vậy, truyện ngắn “Lão Hạc” kết thúc với cái chết đầy bi kịch và bế tắc của lão đã khiến người đọc suy nghĩ rất nhiều về con người, tình người, về cái đói, cái nghèo và về lòng tự trọng.

Sơ đồ tư duy

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Vài nét về tác giả Nam Cao và tác phẩm Lão Hạc.

- Dẫn dắt vấn đề.

II. Thân bài

* Tình cảnh Lão Hạc

- Một lão nông già yếu, cô đơn ⇒ tình cảnh bi đát.

- Vì nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân thiết của bản thân mình - và chọn con đường kết thúc cho mình.

* Cái chết của lão Hạc

- Lão nhờ ông giáo 2 việc:

+ Trông nom hộ mảnh vườn, khi nào con trai lão về thì giao lại cho nó.

+ Mang hết tiền dành dụm nhờ ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu lão chết đi.

- Nguyên nhân: Ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, không có lối thoát của mình.

- Mục đích: Bảo toàn tài sản cho con và không muốn phiền hà đến bà con hàng xóm.

- Vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, mắt long sòng sọc, lão tru tréo, bọt mép sùi ra.... người lão chốc chốc lại giật mạnh....vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết.

⇒ Sử dụng dày đặc và liên tiếp các từ tượng hình, tượng thanh ⇒ Làm nổi bật cái chết dữ dội, thê thảm đầy bất ngờ của lão Hạc.

⇒ Là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống; một người cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thực, thật thà, giàu lòng tự trọng.

 

* Nghệ thuật

- Nam Cao đã thể hiện tài năng nghệ thuật của mình trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, cách kể chuyện giản dị, tự nhiên chân thực, giọng điệu linh hoạt và tình huống đôc đáo.

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm.

- Liên hệ trình bày cảm nhận của bản thân về cái chết của lão Hạc.

Top 6 bài Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên hay nhất (ảnh 1)

Các bài văn mẫu khác:

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 2

Đọc xong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, hẳn không ít người còn day dứt, dằn vặt và suy nghĩ về cái chết của lão. Chưa bao giờ ta lại thấy được rõ nét như lúc này về ranh giới giữa trắng và đen, giữa thị phi và đạo đức lại mỏng manh và nhập nhằng như lúc này. Cái chết của Lão Hạc là cái chết để nói lên tính cách, nhân cách của chính lão.

Lão Hạc là một nông dân nghèo, vợ lão chết để lại cho hai cha con lão một mảnh vườn, thằng con trai đã đến tuổi lấy vợ, nhưng vì nghèo quá không đủ tiền thách cưới. Con trai lão cũng vì thế mà bỏ đi làm đồn điền cao su năm hay sáu năm nay chưa thấy về. Lão Hạc đã tìm đến cái chết. Lão chết để lại cho mọi người sự bàng hoàng, xót xa. Có thể nói, lão chết vì đã nỡ lừa một con chó không? “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Con chó đó được anh con trai lão mua về, khi anh đi làm thì để lại cho lão nuôi. Lão coi nó như một người bạn tri kỷ, một đứa con, đứa cháu tinh thần mà anh con trai để lại, khi ông nói chuyện với nó, ông gọi anh con trai là “bố cậu”, thế nên ông đặt tên cho nó là “cậu Vàng”. Có chuyện gì lão cũng kể cho cậu nghe, lão ăn gì, nó ăn nấy, có khi nó còn ăn nhiều hơn lão nữa. Vậy mà, lão quyết định bán nó. Nhưng quyết định bán cậu Vàng của lão đưa ra thật không dễ dàng chút nào. Lão đã nhắc đến chuyện này nhiều lần rồi, đến nỗi ông giáo “nghe câu ấy đã nhàm”. Thế nhưng, lần này lão làm thật. Sau khi bán cậu Vàng không bao lâu, lão gửi mảnh vườn và tiền để lo ma chay của mình cho ông giáo. Lão tìm đến cái chết. Cái chết của lão thật đau đớn và kinh hoàng. “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra. Khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão chết như để trả nợ với cậu Vàng, vì lão đã nỡ nhẫn tâm lừa nó. Lão không chọn cho mình một cái chết nhẹ nhàng hay không đau đớn, vật vã mà ngược lại. Dường như lão muốn được cậu Vàng tha thứ. Bởi với lão, cậu Vàng như một đứa con, một người bạn tri kỷ, một kỷ niệm mà anh con trai để lại. Khi vừa bán chó xong, lão sang ngay nhà ông giáo và nói “Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!”. Câu nói rất tỉnh táo, không hề có ý gì thương xót hay hối hận mà ngược lại, nó như có ý khoe khoang một việc gì đó. Vậy mà, chỉ sau đó một khoảnh khắc, Nam Cao đã tả ngay cho ta thấy “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Và chỉ chờ một giọt nước, một tác động nhỏ là mọi cảm xúc, mọi kìm nén sẽ vỡ òa ra. “Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc …” , chỉ sau một câu hỏi của ông giáo. Và sau khi bán chó đi, tâm hồn lão dường như trống rỗng. Lão chết như để trả lời cho câu trách móc của con chó mà lão tưởng tượng ra.

Nhưng tất cả không chỉ có vậy, lão chết vì tình thương mà lão dành cho con trai quá lớn lao, không gì có thể thay thể được. Và lão chết cũng là để cho xã hội đương thời lúc đó thấy được cách họ đã dồn ép những người nông dân lao động nghèo đến đói cùng đói cực như thế nào. Anh con trai lão yêu một cô gái và muốn cưới làm vợ, nhưng nhà gái lại thách cao quá, lão không đủ tiền để trả. Vậy là anh đòi bán mảnh vườn mà mẹ anh đã “thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi” mới mua được, nhưng lão không đồng ý. Lão hết lời khuyên ngăn, cuối cùng thì anh con trai cũng ưng thuận nghe theo. Bởi quá nghèo khổ, anh con trai quyết tâm đi làm ở đồn điền cao su mong thoát khỏi cuộc sống cùng cực, tủi nhục lúc bấy giờ. Lão ở nhà cùng với cậu Vàng. Với tình yêu bao la dành cho con trai, lão tự làm thuê để kiếm ăn qua ngày, còn tiền hoa lợi của mảnh vườn thì để ra, gom góp cho anh con trai để anh có tiền cưới vợ, hoặc có vốn làm ăn. Nhưng thật là, người tính không bằng trời tính. “Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tôi chỉ ốm có một trận đấy thôi. Một trận đúng hai tháng, mười tám ngày, ông giáo ạ!” Bao nhiêu tiền của tích góp bấy lâu của ông đội nón ra đi theo tiền thuốc men, tiền ăn uống. Lão đau lòng, xót ruột lắm. Lão lại lo cho anh con trai của lão, lão sợ làm gánh nặng cho con mình. “Tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao? …” Lão luôn đặt con trai ở vị trí trên cùng, quan trọng nhất, luôn tìm mọi cách để tốt cho con mà không quan tâm, không suy nghĩ gì cho mình hết. Lão trăn trở, suy nghĩ và lão quyết định. Lão gửi nhờ ông giáo trông hộ mảnh vườn, bao giờ con trai lão về thì giao lại cho nó, lão còn hai mươi lăm đồng bạc với năm đồng bán chó nữa là tròn ba mươi đồng, lão vét sạch, gửi ông giáo để phòng lo ma chay cho mình không lại phiền đến bà con hàng xóm. Từ đó “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món nấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc”. Lão sống như thế nào cũng được, chỉ cần lão không làm phiền đến ai, không làm gánh nặng cho con trai mình là lão vui rồi. Tấm lòng của người cha là vậy đó, tất cả những gì tốt đẹp nhất đều dành hết cho con cái của mình. Tới cùng cực, lão không cầm cự nổi nữa, lão tìm đến cái chết như để giải thoát cho mình, giải thoát cho anh con trai và cũng là giải thoát cho cái xã hội nghèo nàn đương thời mà lão đang sống. Lão tính toán tất cả, làm tất cả mọi việc chỉ để cho con trai lão có cuộc sống tốt hơn.

Gấp trang sách lại ta thấy Lão Hạc là một người nông dân lao động nghèo khổ gần bùn nhưng lại chẳng hôi tanh mùi bùn, mà ngược lại, lão lại là một người cha hết mực, hết lòng vì con cái. Là một người nhân hậu, thương yêu loài vật, đó là cậu Vàng. Cái chết của lão chính là tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh thức những ai đang lầm đường, lạc lối, không được vì cái ăn, cái hư danh trước mắt mà bán đi linh hồn, nhân cách, phẩm giá của mình.

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 3

Sau khi đọc xong những tác phẩm của Nam Cao, người đọc dường như vẫn cảm thấy xót xa và day dứt khôn nguôi trước số phận của những con người khốn khổ như bà cái Tý trong Một bữa no, anh Đĩ Chuột trong Nghèo, anh Phúc trong Điếu văn...Song có lẽ ám ảnh hơn cả là cái chết dữ dội của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

Mặc dù gần 7 thập kỷ đã trôi qua, nhưng cái chết ấy vẫn đủ sức làm quặn thắt bao tấm lòng người đọc. Vì sao vậy? Phải chăng vì Nam Cao tuy chưa dắt Lão Hạc vượt qua thảm cảnh bi đát của đời mình nhưng ông đã để ở đấy trọn vẹn một tấm lòng. Chính vì vậy mà ông để cho nhân vật của mình chọn một cái chết khác thường khi xét cả ba phương diện: nguyên nhân sâu xa của cái chết, phương cách chết và ý nghĩa của cái chết.

Thứ nhất là nguyên nhân cái chết. Một câu chuyện cười kể rằng: Có lão phu nọ vào rừng kiếm củi, trời nắng to, lão mệt mỏi và kiệt sức chẳng đủ sức để đỡ bó củi lên vai lão, lão buồn bã nói:

- Khổ thế này thì thà chết còn hơn.

Vừa dứt lời thì thần chết hiện lên hỏi:

- Ông lão! Ông vừa nói gì?

Ông lão hốt hoảng và ấp úng trả lời:

- Không! tôi chẳng nói gì cả. Tôi chỉ nói: giá như có ai đỡ bó củi lên vai thì hay biết mấy.

Câu chuyện thật đơn giản, ngắn ngủi và kết thúc bằng một tiếng cười bật lên từ phía người đọc. Nhưng có lẽ cái thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc thì chẳng giản đơn chút nào, đó là vấn đề tình yêu cuộc sống. Con người dường như càng già thì càng quý sự sống, hay nói cách khác là khi cận kề bên cái chết thì bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy mãnh liệt và yêu sự sống hơn bao giờ hết.

Vậy thì tại sao Lão Hạc lại tìm đến cái chết? “Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Còn tí việc nhẹ nào họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão, hoa màu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một tý gì để bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó, mỗi ngày 3 hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói dắt...”

Lão quyết định bán “Cậu Vàng”. Bán đi người bạn thân thiết nhất, bán đi kỷ vật cuối cùng của con trai lão- lão đau đớn, dằn vặt và lương tâm lão dày vò khôn nguôi. Rồi lão mang 25 đồng bạc lão dành dụm được cộng với 5 đồng bán chó, với mảnh vườn 3 sào sang gửi ông Giáo. Thế rồi từ hôm đó: “Tôi thấy Lão Hạc chỉ toàn ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì ăn món nấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì lão ăn rau má với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai bữa ốc. Tôi nói chuyện lão với vợ tôi. Thị gạt phắt đi.

- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ, lão làm lão khổ, chứ ai làm lão khổ”.

Vâng! Có lẽ lão làm lão khổ thật. Bởi vì nếu lão là người cha tầm thường, à không! phải nói là người cha bình thường chứ, thì lão sẽ chưa chết, thậm chí sẽ còn sống lâu hơn nữa là đằng khác. 30 đồng bạc cộng với mảnh vườn 3 sào, sẽ là một khoản kha khá lão có thể sống được. Nhưng lão đã không làm như thế. Mảnh vườn là tài sản duy nhất vợ lão hồi còn sống phải thắt lưng buộc bụng mới tậu được. Nó là tài sản duy nhất vợ chồng lão dành cho con. Bởi vậy mảnh vườn ấy gắn với danh dự, bổn phận của kẻ làm chồng, làm cha. Còn món tiền 30 đồng bạc ấy sẽ được dùng phòng khi lão chết có tiền ma chay. Lòng tự trọng không cho phép lão làm phiền đến mọi người. Cho nên món tiền ấy mang ý nghĩa danh dự của kẻ làm người, lão không thể tiêu vào đó. Cuối cùng lão chọn cái chết để tự giải thoát.

Vậy, từ diễn biến trên ta thấy nguyên nhân cái chết của Lão Hạc là do tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão đến bước đường cùng: Lão phải chết, đó cũng là số phận cơ cực đáng thương của những người nông dân nghèo sống trong thời kỳ đen tối trước cách mạng tháng Tám. Song nguyên nhân sâu xa của cái chết, không chỉ là do tình cảnh đói khổ, túng quẫn mà là do xuất phát từ lòng thương con âm thầm, sâu nặng xuất phát từ đức hy sinh cao cả của người cha. Một người cha dám đánh đổi cả sự sống của mình để dành dụm số tiền ít ỏi cho tương lai của con.

Thì ra, ẩn đằng sau vẻ già nua, khắc khổ tội nghiệp ấy là cả một trái tim lớn lao nồng hậu, âm thầm nhưng tha thiết, bền bỉ luôn cháy lên ngọn lửa của tình phụ tử thiêng liêng. Thì ra đức hy sinh không chỉ là “độc quyền” của người phụ nữ mà nhiều khi, sự hy sinh ấy ở nam giới, sâu sắc hơn rất nhiều. Thì ra, đôi khi ở những con người bình thường lại chứa đựng những phẩm chất phi thường. Chao ôi! Nếu có “Hậu Lão Hạc” thì anh con trai lão sẽ trở về, sẽ lấy vợ, sinh con, lão sẽ được sống những ngày cuối đời thật thanh thản hạnh phúc. Lão sẽ được phụng dưỡng chăm sóc, lòng hiếu thảo của con cháu sẽ sưởi ấm đời lão, sẽ xoá nhoà tất cả những vết thương đau.

Nhưng! Ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Hễ ai đọc Lão Hạc thì chẳng dễ gì quên được cái chết kinh hoàng của Lão: “Lão vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến 2 tiếng đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi và Binh Tư hiểu”.

Không! Không chỉ có ông Giáo và Binh Tư hiểu mà tất cả mọi người đều hiểu, đều đau đớn trước cái chết kinh hoàng ấy. Phương cách chết của lão là chết bằng bả chó, chết do trúng độc bả chó. Chúng ta vẫn tự hỏi ngàn lần rằng vì sao Lão Hạc không chọn một cái chết êm dịu hơn, nhẹ nhàng hơn, lặng lẽ hơn. Lý giải điều này, sách giáo viên Ngữ văn 8(Tập 1- trang 39, xuất bản tháng 5/2004) viết rằng: “Ông lão nhân hậu, trung thực này chưa từng lừa một ai, lần đầu tiên trong đời lão phải lừa là lừa “cậu vàng” “người bạn thân thiết của mình. Lão đã lừa để “cậu vàng” phải chết thì giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu một con chó bị lừa”.

Nếu hiểu như vậy, thì chỉ là lớp nghĩa đầu. Bởi vì lão chết bằng bả chó là xuất phát từ dụng ý nghệ thuật của tác giả, khẳng định một điều rằng: Ông không muốn trốn tránh sự thật của cuộc sống, cũng không muốn tìm lối giải thoát có tính chất chủ quan, dễ dãi. Thời bấy giờ nhà văn Nguyễn Công Hoan nói rằng: “Tự lực văn đoàn nhìn khói mái nhà của người nông dân, còn tôi, tôi nhìn vào dạ dày của họ”. Vũ Trọng Phụng thì gọi việc lảng tránh những vấn đề cuộc sống là chạy xa sự thực bằng những từ điêu trá của văn chương “... như vậy là giả dối là tự lừa mình và di họa cho đời”.

Top 6 bài Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên hay nhất (ảnh 2)

Còn Nam Cao lặng lẽ khẳng định “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối nghệ thuật là những tiếng đau khổ toát ra từ những kiếp lầm than”. Và bằng cái chết của Lão Hạc, ta thấy Nam Cao đã chứng minh được điều đó. Nam Cao để cho Lão Hạc chết bằng bả chó tức là ông đã tôn trọng cái logic của sự thật cuộc đời. Vì chỉ có cái chết dữ dội ấy mới đủ sức tố cáo xã hội đương thời lúc ấy đã đẩy con người bất hạnh đến cùng đường tuyệt lộ, khiến họ phải chết một cách thê thảm đớn đau.

Ngoài ra Nam Cao muốn đề cập vấn đề nhân phẩm: dù phải trả giá đắt đến mấy, con người cũng phải giữ cho được phẩm chất của mình. Và Lão Hạc đã làm được điều đó. Dù túng quẫn nhưng lão không theo gót Binh Tư... Nhân tính đã chiến thắng bản năng, lòng tự trọng vẫn đủ sức giữ chân con người trước bờ vực của sự tha hoá. Lão thà chết chứ không làm điều sằng bậy. Đó là nét đẹp trong quan điểm đạo đức của nhân dân ta “chết vinh còn hơn sống nhục”.

Lão quằn quại nằm xuống nhưng nhân cách của lão còn mãi trong lòng độc giả. Đó cũng chính là ý nghĩa của cái chết Lão Hạc. Cái chết ấy khép lại câu chuyện và có rất nhiều người cho rằng, cái chết này ẩn chứa đâu đó hình bóng bi kịch: Đó là bi kịch của sự đói nghèo, bi kịch của tình phụ tử, bi kịch của phẩm giá làm người. Chính cái chết này góp phần làm rõ hơn quan điểm có phần cực đoan của Nam Cao: “Hạnh phúc là một tấm chăn hẹp người này kéo thì người kia hở”.

Nhưng xét một cách toàn diện thì cái chết ấy chưa hẳn là bi quan vì nó nói lên được niềm tin sâu sắc vào phẩm chất tốt đẹp ở người nông dân của tác giả. “Không! cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn. Mà nếu đáng buồn thì đáng buồn theo một nghĩa khác”.

Lão Hạc là một người nông dân chân lấm tay bùn chưa từng đọc sách thánh hiền, chưa từng được tham dự một lớp học nào về cách làm người, về tình phụ tử song cả cuộc đời lam lũ, lương thiện và trong sáng thanh cao của lão, cả cái chết kinh hoàng của lão - là minh chứng đầy đủ cảm động về nhân cách làm người, về tình cha con thiêng liêng sâu nặng.

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 4

Nam Cao là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học hiện thực của nước ta những năm trước và sau cách mạng tháng Tám. Trong mỗi tác phẩm của mình Nam Cao đều thể hiện sự trăn trở của mình với những số phận con người nghèo khổ, bị xã hội bần cùng, bức bách tới chân tường không lối thoát.

Tác phẩm “Lão Hạc” thể hiện sự bần cùng, không lối thoát phải tìm tới cái chết cay đắng tủi nhục của một người nông dân chân chất, hiền lành thật thà. Nhưng lại có những phẩm chất vô cùng tốt đẹp , đáng quý. Thông qua tác phẩm “Lão Hạc” Nam Cao muốn tố cáo tội ác của chế độ phong kiến đã tàn ác bóc lột người nông dân tới tận cùng, khiến họ không còn lối thoát phải tìm tới cái chết.

Trong tác phẩm này Nam Cao đã xây dựng thành công hình ảnh lão Hạc với những phẩm chất cao quý, thương yêu con trai của mình ,hiền lành, phúc hậu, có lòng tự trọng hơn người. Hình ảnh cái chết của lão Hạc ở cuối truyện ngắn khiến người đọc vừa đau xót, xúc động vừa trào dâng sự căm phẫn bởi chế độ xưa quá tàn ác, đã khiến cho một ông lão nghèo khó, hiền lành phải tự mình tìm tới cái chết trong tức tưởi để bảo toàn được những gì mình đang có.

Chính chế độ phong kiến, những tên địa chủ cường hào ác bá đã đẩy lão Hạc tới cái chết. Chỉ có cái chết mới khiến lão thanh thản, chỉ có cái chết lão mới có thể giữ được mảnh đất hương hỏa là tài sản duy nhất lão có, để trao tới tay con trai lão. Hình ảnh lão Hạc một người đàn ông già nua khắc khổ, bị góa vợ từ khi còn trẻ, cuộc sống nghèo khó chung. Cả làng nghèo khổ không riêng gì lão, nhưng hoàn cảnh lão có chút đặc biệt hơn đôi chút.

Lão không có người thân bên cạnh, lão mất vợ đã lâu có một người con trai nhưng xin đi đồn điền cao su từ lâu. Nên lão chỉ sống có một mình cùng với con chó mà con trai lão đã mua và để lại nhà trước khi đi xa. Con chó là người bạn, người tâm giao tri kỷ duy nhất của lão. Ngày ngày lão ăn gì nó ăn nấy, lão thương nó như con trai mình vậy.

Ngày ngày lão chăm sóc con chó nói chuyện, tâm sự với nó như lão đang nói chuyện tâm sự với con trai mình vậy. Lão vẫn thầm mong con trai mình sẽ về, và lão sẽ để lại mảnh vườn này để sau này con trai lão về có lấy vợ còn có chỗ mà sinh sống. Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước lâm nguy, nạn đói hoành hành, nhiều lúc lão phải ăn củ mài, củ chuối cho qua bữa. Sống cơ cực lay lắt như ngọn đèn trước gió, không biết sẽ tắt lúc nào.

Nhưng điều đó cũng không làm cho lão nghĩ tới cái chết, lão vẫn cố gắng cầm cự, chống chọi lại với những khó khăn trong cuộc sống. Nhưng chỉ tới khi lão Bá Kiến nhăm nhe muốn cướp mảnh vườn của nhà lão, thì lão thật sự hoang mang. Lão luôn muốn để dành mảnh vườn cho con trai mình, nhưng lão Bá Kiến suốt ngày gạ mua rồi không được. Lão Bá Kiến mưu toan cài bẫy để cướp lấy mảnh vườn của lão. Chúng đang âm mưu để cho lão vào tù, nếu lão không muốn vào tù thì phải gán nợ mảnh vườn làm cứu cánh.

Lão Hạc là người thông minh, nên đã linh cảm thấy điều chẳng lành đang chờ đợi mình phía trước, để bảo toàn mảnh vườn tài sản duy nhất của con lão thì lão buộc lòng đi trước một bước. Chỉ có khi lão chết thì bọn Bá Kiến mới buông tha cho cuộc sống của lão được yên ổn, thanh thản. Nghĩ vậy lão quyết định bán con chó đi, người bạn duy nhất, người tâm giao tri kỷ đi. Rồi sau đó lão đi sang nhà Binh Tư xin bả chó. Thấy lão xin bả chó Binh Tư ngạc nhiên lắm tưởng lão bần cùng sinh đạo tặc, không còn giữ được phẩm chất cao quý của mình nữa.

Nên hắn còn đùa nếu ông kiếm được gì nhớ chia cho hắn với nhé. Lão Hạc chỉ cười buồn bảo hắn trưa mai qua nhà lão uống rượu, ăn thịt chó. Rồi lão qua nhà thầy giáo, người hàng xóm thân thiết cũng là người lão vô cùng kính trọng bởi nhân cách sống đúng mực của thầy giáo . Lão qua nhờ anh giáo giữ hộ giấy tờ mảnh đất khi nào con trai lão về thì đưa lại cho nó. Và lão còn gửi anh giáo một ít tiền phòng khi lão ốm đau qua đời thì làm ma chay giúp lão.

Một người đàn ông lo lắng chu toàn, và có lòng tự trọng cao độ. Lão biết trong thời buổi này không nên làm phiền hàng xóm về tiền bạc bởi ai cũng nghèo khổ cả. Chính vì vậy, lão chết đi rồi còn gửi tiền trước nhờ người làm ma chay cho mình. Trưa hôm sau, Binh Tư sang nhà thầy giáo gọi thầy giáo sang nhà lão Hạc uống rượu thịt chó, tới nơi thì thấy lão Hạc đang quằn quại trong cơn đau. Lão đã ăn bả chó tự tử, một cái chết đau đớn.

Chính cái chết của lão Hạc là sự minh chứng cho những bế tắc của thời đại. Đồng thời giải phóng chính bản thân lão ra khỏi những khó khăn. Lão chết đi vì mong ước muốn để dành những gì tốt đẹp nhất cho người con trai duy nhất của mình. Một tình cảm của người cha thương con vô bờ bến, bao la bát ngát.

Truyện ngắn “Lão Hạc” kết thúc với bi kịch là cái chết của nhân vật chính, nhưng lại gợi mở trong lòng người vô cùng nhiều cảm xúc, nghẹn ngào, cho số phận của một người nông dân chân chất, hiền lành, có lòng tự trọng cao quý.

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 5

Văn học hiện thực phê phán là một dòng văn học với những cảnh đời trớ trêu, cay đắng, bất hạnh. Văn học về những con người bị áo cơm ghì sát đất, phải sống tha hoá, sống kiếp sống mòn, của những cảnh đời bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát,… Nước mắt và cái chết có thể coi là những mô típ quen thuộc của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Mô típ ấy ám ảnh nhiều trong sáng tác của nhà văn Nam Cao: Chí Phèo chết trên vũng máu của chính mình ngay trong khi khát vọng trở về với cuộc đời bị dập tắt; Lang Rận, Mụ Lợi tự tử trong sự ghẻ lạnh, đàm tiếu của người làng ; và cái Tí chết vì một bữa no duy nhất của cuộc đời,… Có lẽ trong những cái chết ấy thì khó quên nhất chính là cái chết của Lão Hạc – một lão nông nghèo khổ, bất hạnh trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.

Ta hãy đọc lại những dòng văn Nam Cao tả lại cái chết của lão Hạc : “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy”.

Những dòng văn này trước hết làm tôi giật mình về một cái chết thật dữ dội và kinh hoàng. Đây không phải là một cái chết bình thường. Đó là cái chết của người do bị trúng độc bả chó. Bất giác tồi có cảm tưởng như không phải cách chết của một con người bình thường mà là cách chết như của một con chó. Lão Hạc trong cái chết của mình vô cùng đau đớn, vô cùng vật vã, cùng cực về thể xác. cả đời đã khổ, đến khi nhắm mắt xuôi tay, lão đâu có hề được bình yên về với đất mẹ.

Cái chết của lão Hạc thật bất ngờ – bất ngờ với tất cả, cả Binh Tư và người láng giềng thân thiết là ông giáo; cả mọi người trong làng. Sự bất ngờ của cái chết càng làm cho câu chuyện thêm căng thẳng, thêm xúc động. Mâu thuẫn bế tắc được đẩy lên đến đỉnh điểm và kết thúc một cách bi đát và tất yếu. Lão Hạc không thể tìm con đường nào khác để tiếp tục sống mà không ăn vào tiền của con, hoặc bán mảnh vườn. Lão đành chọn cái chết, dành tự chấp nhận đau khổ để nuôi hi vọng cho người con trai. Với một tính cách như lão Hạc thì cái chết là một tất yếu, cách chết mà lão chọn cũng là một tất yếu.

Người đọc bao thế hệ trước cái chết của lão Hạc đều xúc động nghẹn ngào khi phát hiện ra những ý nghĩa sâu sắc ẩn sau cái chết đầy đau đớn về thể xác kia của lão. Lão không chọn cách chết nào khác mà chết như cách chết của một con chó ăn phải bả, bởi với lão đến tận lúc chết, ám ảnh về cậu Vàng, về việc mình đã trót lừa một con chó vẫn day dứt lương tâm lão. Lão đã chọn một cách giải thoát đáng sợ nhưng lại như một cách để tạ lỗi cùng cậu Vàng. Lão Hạc yêu thương con chó như con trai nhưng lại nỡ lừa bán nó đổ cho thằng Mục giết thịt, thì lão cũng phải tự trừng phạt mình, tự chịu hình phạt như một con chó chết vì ăn phải bả. Lão Hạc chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm về thể xác nhưng chắc chắn lão lại thanh thản về tâm hồn vì đã hoàn thành nốt công việc cuối cùng với đứa con trai vẫn “bặt vô âm tín” với hàng xóm láng giềng về tang ma của mình. Lão chết để giữ phần ấm cho con, để giữ lại hi vọng cho người con duy nhất đang ở nơi xa của mình. Cái chết của lão là biểu hiện cao nhất của tình phụ tử thiêng liêng, của đức hi sinh cao cả.

Cái chết của lão Hạc một mặt góp phần bộc lộ tính cách và số phận của lão Hạc, cũng là một điển hình sắc nét của số phận và tính cách của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám : nghèo khổ, bế tắc, nhưng giàu lòng yêu thương và đức hi sinh cao cả, mặt khác, cái chết của lão Hạc cũng có ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy những con người lương thiện vào bước đường cùng, phải chấp nhận cái chết như cách duy nhất kết thúc cuộc đời nhiều đau khổ. Cái chết của lão cũng giúp những người xung quanh lão hiểu con người lão hơn, quý trọng và thương tiếc lão hơn.

Kết thúc câu chuyện bằng cái chết của nhân vật chính, Nam Cao đã tôn trọng cái lô gích của sự thật cuộc đời, đồng thời làm tăng sức ám ảnh, hấp dẫn và khiến người đọc cảm động hơn. Cái chết của lão Hạc tuy mang đậm màu sắc bi thảm nhưng nó cũng khiến người đọc ấm lòng hơn bởi nó mang lại cho họ niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người trước hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc đời. Đó cũng chính là giá trị nhân văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong thiên truyện ngắn này.

Suy nghĩ về cái chết của Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên – mẫu 6

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam trước và sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Tác phẩm của ông đều gắn liền với số phận, hình ảnh của người nông dân khốn khổ. Tác phẩm "Lão Hạc" là một tác phẩm hay thể hiện cái nhìn nhân văn nhân đạo của tác giả Nam Cao dành cho nhân vật của mình, những người nông dân nghèo khổ, bần cùng của xã hội phong kiến.

Khi đọc xong truyện ngắn này nhiều người không khỏi bị ám ảnh bởi cái chết đau đớn, nhiều ám ảnh của nhân vật chính. Những suy nghĩ của ông lão đã khiến nhiều người đọc phải bật khóc cảm thương cho một người cha yêu con, sống đạo đức chuẩn mực không bị cái xấu, cái ác làm hoen ố đi danh dự và nhân phẩm của mình. Lão Hạc là người nông dân nghèo, dưới đáy xã hội lão "góa" vợ sớm có người con trai thì bị bắt đi làm tại đồn điền cao su của giặc. Một nơi nổi tiếng tàn ác "Cao su đi dễ khó về. Khi đi trai tráng khi về bủng beo"

Lão có một mảnh vườn là của nả, hương hỏa bao năm cha ông để lại là tài sản duy nhất mà lão có thể để dành cho con trai mình khi tới tuổi lập gia đình có chỗ nương thân. Lão không có gì nữa ngoài con chó, người bạn thân tri kỷ chia sẻ mọi vui buồn với lão. Lão coi con chó như con trai mình vậy đặt tên cho nó là cậu "Vàng".

Lão sống hiền lành không làm hại ai nhưng những kẻ có tiền có quyền trong cái xã hội ấy không cho lão được sống yên phận nghèo của mình. Khi gia đình Bá Kiến suốt ngày nhăn nhe muốn chiếm mảnh vườn của lão. Một tài sản lão quý hơn cả tính mạng mình. Năm lần bảy lượt chúng tìm cách gạ gẫm không được chúng bèn bày mưu hãm hại lão để có thể chiếm được mảnh vườn.

Không còn cách nào khác lão nghĩ tới cái chết. Chỉ có cái chết mới giải thoát lão khỏi cuộc sống cô độc, nghèo đói, khốn khổ này. Chỉ có cái chết mới giúp hắn giữ được mảnh đất tổ tiên hương hỏa này cho con trai lão. Nghĩ thế hắn bèn tìm cách hành động. Trước tiên lão phải bán con Vàng người bạn thân thiết của mình đi, bởi khi lão chết rồi thì ai chăm sóc nó, rồi nó cũng sẽ chết đói hoặc bị bọn bắt trộm chó làm thịt mà thôi.

Lão bán con Vàng như bán đi một phần linh hồn của mình vậy, lão đau đớn vô cùng.Rồi lão đi sang Binh Tư xin bả chó. Binh Tư là một tay chuyên trộm cắp vặt trong làng, và thường xuyên bắt trộm chó nhà khác bán lấy tiền nên trong nhà hắn lúc nào cũng sẵn thứ này. Khi thấy Lão Hạc sang xin bả cho Binh Tư tưởng mình có thêm đồng nghiệp làm nghề thất đức như mình nên cười ha hả còn chọc lão có vụ gì ngon thì chia cho hắn với. Nhưng hắn đâu ngờ rằng Lão Hạc sang xin bả chó cho chính mình.

Trước khi chết lão cũng lo lắng rất chu toàn. Lão sang nhà thầy giáo Thứ rồi nhờ thầy giữ hộ giấy tờ nhà, gửi tiền để nếu chẳng may lão có mệnh hệ nào thì lấy tiền đó lo ma chay, mua quan tài, bởi lão biết trong cảnh cả nước nghèo khổ, đói kém làm phiền hàng xóm cũng là cái tội. Lão cũng không muốn sau khi mình chết đi rồi không được chôn cất tử tế.

Một người nông dân ít học hành nhưng lại vô cùng nhiều văn hóa, lão ứng xử chuẩn mực, lương thiện, đạo đức hơn rất nhiều kẻ tưởng có học có chức có quyền trong xã hội mà vô đạo đức, bất lương. Rồi lão về nhà tự mình ăn bả chó để tìm tới cái chết. Một cái chết đau đớn, khiến cho người đọc cảm thấy nghẹn ngào theo từng trang viết.

Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa nhân vật Lão Hạc vô cùng thánh thiện, thanh bạch, một người nông dân nghèo nhưng lương thiện tử tế, một người cha thương con vô bờ bến.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 1

Truyện Lão Hạc được miêu tả và kể lại bằng những tâm sự của nhân vật chính và xung quanh nhân vật chính. Đó là tâm sự của Lão Hạc về con chó, về người con trai của lão, về kiếp người, về cái chết, về mảnh vườn. Đó là tâm sự của ông giáo, của vợ ông giáo, của Binh Tư về thân phận lão Hạc. Có đoạn Nam Cao tả ngoại hình nhân vật bằng những từ tượng hình rất ấn tượng, đó cũng là một gương mặt mang nỗi đau của cõi lòng quặn thắt: (cười như mếu, mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra…). Đây là một tâm sự đau nhất của một tâm hồn trong trẻo, chân thật: "Thì ra tôi già bằng này tuổi rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”.

Sự xuất hiện của các nhân vật khác trong truyện đều không được miêu tả ngoại hình, mỗi người chỉ hiện diện bằng một tâm sự về lão Hạc và bằng một tâm sự của nhà văn về thân phận họ. Có tâm sự hoài nghi, miệt thị của Binh Tư “làm nghề ăn trộm nên vốn không ưa lão hạc bởi vì lão lương thiện quá”. Có tâm sự của người con trai lão Hạc, rất thương cha nhưng phải bỏ làng ra đi và mang trong lòng một niềm u uất.

Nhân vật ông giáo trong truyện là một mạch tâm sự có biến động, từ “dửng dưng” đến “ái ngại” “muốn ôm choàng lấy lão mà oà lên khóc” đến kính trọng.

Bàng hoàng: “Hỡi ôi lão Hạc… con người đáng kính ấy”. Sau cùng là thái độ vững tin thầm lặng, bền bỉ, sáng ngời vào nhân cách của lão Hạc. Lão Hạc kết thúc đời mình trong khung cảnh “nhốn nháo”, “chẳng ai hiểu” của dư luận, nhưng câu chuyện lại truyền đi một thông điệp cuối cùng, thông thiết, son sắt như một lời thề: “Lão Hạc ơi! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt… Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn”.

Cốt truyện lão Hạc thể hiện trực tiếp tấm lòng của nhà văn về con người, một quan niệm nghệ thuật được thể hiện thành một mạch tâm sự rung động của các mạch tâm sự, để hiện ra một tâm thế của người nông dân.

Lão Hạc là chân dung của một tâm hồn lão nông Việt Nam “đáng kính”, nói theo ngôn ngữ của nhân vật ông giáo trong truyện. Phần đáng kính ấy là cõi lòng của lão, một khối tâm sự nhức nhối bởi sự vò xé, xô đẩy không nguôi giữa một bên là cảnh đời túng quẩn, với một bên là cõi lòng lão Hạc đôn hậu, trong sáng.

Cảm hứng nổi bật của Nam Cao trong truyện ngắn lão Hạc là khẳng định mãnh liệt về tình thương, niềm tin đối với con người. Lão Hạc tin vào đứa con của mình, lão tin vào con trai lão sẽ trở về.

Có lần lão nói một cách rất ấn tượng làm người nghe phải run lên: “Nếu kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!…” Lão hồn nhiên và trung thực, tự trọng, đến mức trong trẻo: “tôi già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó”. Và ngay cả khi chết lão cũng tính toán kĩ bằng ý thức trung thực và tự trọng.

Đặc sắc của Nam Cao trong việc diễn đạt về người nông dân lao khổ là ở chỗ đó. Đây là một “dụng công” nghệ thuật của nhà văn. Con chó gắn với kỉ niệm đau buồn và dục vọng hạnh phúc của lão Hạc về đứa con, gắn với nỗi ân hận cao thượng về đức tính trung thực, về triết lý chua chát quanh kiếp người.

Truyện ngắn Lão Hạc, cao vút một niềm tin sâu sắc của Nam Cao vào con người.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 2

"Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng nói đến những cuộc đời lương thiện.

Cuộc đời của lão Hạc là một chuỗi những đau khổ và bất hạnh. Một kiếp đời chua chát và đắng cay. Vợ lão mất sớm, một mình lão “gà trống nuôi con”. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn vì chưa làm tròn bổn phận của người cha. Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời, lão phải sống trong cô độc, thui thủi một mình. Lão bầu bạn với con chó vàng - kỷ vật của người con để lại. Lão yêu nó, coi nó như người thân. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão. Lão phải bán "cậu Vàng" đi vì không thể lo mỗi ngày 3 hào gạo cho cả nó và lão. Sau trận bão, lão không thể kiếm ra tiền mà "tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu". Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn, day dứt mãi vì đã trót lừa một con chó.

Lão coi cậu Vàng như người bạn, như đứa con, như con cháu trong nhà mà đối xử hết mực yêu thương Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự Thỉnh thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm Cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu Lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với đứa cháu bé về bố nó. Chính vì tình yêu thương ấy mà khi bán cậu Vàng thì trong lão diễn ra một sự dằn vặt đau khổ, day dứt: Lão kể lại cho ông giáo việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn, đến nỗi ông giáo thương lão quá “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”. Khi nhắc đến việc cậu Vàng bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không còn nén nỗi đau đớn cứ dội lên: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra... Lão hu hu khóc”. Lão Hạc đau đớn đến không phải chỉ vì quá thương con chó, mà còn vì lão không thể tha thứ cho mình vì đã nỡ lừa con chó trung thành của lão. Sau khi bán chó, lão sắp xếp cho chính cuộc đời mình sau đó: Lão gửi nhờ mảnh vườn cho ông giáo trông coi đến khi nào con trai lão về thì nó có cái để làm vườn. Lão sợ khi lão mất rồi nhiều người lại dòm ngó Lão đem số tiền bán chó và nhịn ăn có được mang sang nhà ông giáo để nhờ vả ma chay cho mình. Suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện cũng vì thương con lão. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không nhờ người khác. Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có ý thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người “đói cho sạch, rách cho thơm”, “chết vinh hơn sống nhục”, là con người coi trọng nhân phẩm hơn cả cuộc sống. Tình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đấy lão vào con đường chết, tìm một lối thoát cuối cùng. Đủ thấy số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ sở những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám bấy giờ.

Những trang viết về tấm lòng trong sạch, lương thiện của người nông dân và số phận bi thảm của họ là những trang viết thấm đượm tấm lòng nhân đạo thống thiết của nhà văn với con người và niềm thiện cảm sâu sắc của nhà văn với người nông dân. Với một “Lão Hạc” xuất sắc đến vô cùng, Nam Cao đã khẳng định được tên tuổi của mình. Ông đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và ghi lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 3

Nhà văn Nam Cao xứng đáng là một nhà văn hiện thực tài ba trong nền văn học Việt Nam ta. Có biết bao nhiêu nhà văn nói về nỗi khổ của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp, cũng có biết bao nhiêu số phận con người nông dân khổ sở vì sưu cao thuế nặng như Chị Dậu thế nhưng Nam Cao vẫn góp vào nền văn học nước nhà một số phận người nông dân nghèo không có người thân chỉ có mỗi con chó làm bầu làm bạn. Đó chính là Lão Hạc. Đặc biệt trong truyện ấn tượng nhất đoạn diễn biến tâm trạng Lão Hạc khi bán con chó Vàng.

Lão Hạc là một người nông dân cao tuổi thế nhưng lại cô độc chỉ có một mình. Vợ ông thì đã mất có một đứa con trai thì vì quá nghèo không có đủ tiền cho con cưới vợ cho nên anh con trai thất tình chán đời bỏ vào nam làm đồn điền cao su rồi biệt vô âm tín luôn. Sống cô độc một mình chỉ có những chuyện lớn hay những khúc mắc trong lòng thì ông lão lại sang nhà ông giáo. Tuy vậy người làm bạn với ông thường xuyên thì chỉ có con chó mà ông gọi nó bằng cái tên thân thiết là cậu Vàng. Ông cứ sống như thế và nuôi hi vọng con trai mình sẽ trở về. Thế rồi cuộc sống và những dồn ép của xã hội không cho ông có được cậu vàng bên cạnh nữa. Ông quyết định bán nó đi, nhưng khi bán nó đi thì lương tâm ông day dứt và trong đầu ông luôn xuất hiện những hình ảnh của cậu Vàng.

Trước khi có ý định bán cậu Vàng ông nhìn nó cũng đủ thấy nó sợ ông sẽ bán nó đi. Nó khôn lắm biết chủ không có gì ăn nên khi ông cho nó ăn cái gì thì nó đều ăn và quẫy đuôi như cảm ơn. Thế nhưng đến ông cũng không ngờ ông phải bán nó đi. Cuộc sống đã dồn lão phải bán nó và nhận lấy cái chết về mình. Ông từng hứa với nó là không bán nó nhưng bây giờ ông lại làm sai lời hứa của mình chính vì thế mà ông thấy day dứt. Không những thế cậu vàng còn là một người bạn với ông mất đi người bạn ấy thì ông làm gì con ai mà bầu bạn nữa.

Lão Hạc chạy sang nhà ông giáo mà khóc lóc chửi bản thân mình. Nhà văn Nam Cao như thấu hiểu được cảm giác đó cho nên đã viết rất xúc động đoạn văn miêu tả tâm lý Lão Hạc khóc mếu khi bán cậu Vàng. “cố làm ra vui vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đồi mắt lão ầng ậng nước”, mặt lão đột nhiên co rúm lại.Những vết nhăn xô nhau lại với nhau,ép cho nước mắt chảy ra…lão mếu như con nít.Lão hu hu khóc”.Bộ dạng lão Hạc trông thật là tội nghiệp.Những giọt nước mắt khó khăn tưởng như không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời của lão đã rơi chỉ vì thấy mình có lỗi với chú chó Vàng.Lão khóc như đứa con nít giận dỗi vì bị ai đe nẹt và quát mắng”. Như vậy có thể nói ông Lão yêu thương con chó của mình lắm. Đối với ông thì cậu Vàng giống như một con người chứ không phải là một con chó nữa.

Vậy là ông đã mất đi người bạn duy nhất ấy. Ông còn văng những câu chửi thề để chửi chính bản thân mình “ khốn nạn... Ông giáo ơi… nó có biết gì đâu”. Điều đó cho thấy ông Lão đang rất ân hận và day dứt vì việc làm của mình. Ông là một người có lòng tự trọng và ông thấy việc ông nói dối một con chó là không nên. Nhìn thấy ánh mắt của cậu Vàng khi bị bán ông lão như có cảm giác nó trong ánh mắt nó nhìn ông không còn yêu quý như xưa mà như là đang oán hận trách móc: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử tôi thế này à”.

Từ đau đớn thương cậu Vàng đến day dứt lương tâm Lão Hạc chuyển đến sự chua chát trong cuộc đời của mình. Ông nói để hóa kiếp cho con chó ấy nhưng qua đó ta thấy được kiếp người trong xã hội ấy chẳng khác nào kiếp chó. Và dù sao thì cũng phải chết.

Qua đây, ta thấy được tâm trạng của Lão Hạc khi bán cậu Vàng. Đối với chúng ta nhiều khi bán đi một con chó cũng thấy rất bình thường nhưng đối với người dân ấy chỉ có một mình với con chó ấy thì lại rất buồn. Qua đó, ta cũng thấy được phẩm chất đáng quý của người nông dân. Đó là tự trọng giàu lòng thương yêu.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 4

Nam Cao, tượng đài văn chương hiện thực trước Cách mạng, một trong những cây bút tiêu biểu nhất thế kỷ 20 với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Xuôi theo dòng chảy văn học đương thời, những tác phẩm mang giá trị nhân đạo, phản ánh hiện thực cao như "Tắt đèn", "Chí Phèo", "Lão Hạc" ra đời năm 1943 đã vạch trần một cách khéo léo hiện trạng xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, một xã hội tàn ác, chà đạp con người đến cùng cực. Trong đó, diễn biến tâm trạng nhân vật Lão Hạc trước và sau khi bán chó được đánh giá là chi tiết đắt giá và gây ám ảnh cho người đọc.

Lão Hạc là một nông dân già nua, nghèo đói, sớm góa vợ, con trai đi đồn điền cao su. Lão có một con chó là kỉ vật người con trai để lại trước khi đi, gọi là cậu Vàng. Lão chăm cậu Vàng như chăm con, thương nó như chính con đẻ của mình. Vì đói nghèo đến cùng cực, lão buộc phải bán cậu Vàng đi, nhưng lương tâm và tình thương con mãnh liệt đã khiến lão chọn con đường tự tử bằng bả chó. Đối với nhiều người hay ngay cả ông giáo trong làng - nhân vật "tôi" trong truyện, việc bán một con chó là một điều hết sức bình thường. Nhưng với lão Hạc, bán cậu Vàng chính là bán đi mối liên kết duy nhất giữa ông và con trai mình. Chính vì thế mà tâm trạng lão mới day dứt, khổ sở, dằn vặt. Một con vật lão thương yêu là thế, đến khi lâm vào đường cùng, lão trăn trở mãi không biết có nên bán hay không. Diễn biến tâm trạng lão Hạc xung quanh việc bán chó có cao trào, có giải quyết, khiến người đọc vừa thương cảm cho số phận nghèo đói của lão, vừa phẫn nộ trước xã hội thực dân nửa phong kiến tàn độc, thối tha.

Trước khi bán cậu Vàng, lão Hạc đối xử với nó như con, nên đứng trước sự lựa chọn bán hay không bán, lão không thể dứt khoát đưa ra quyết định của mình. Năm lần bảy lượt lão thủ thỉ với ông giáo:" Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ!". Đến mức nhân vật ông giáo phải cảm thấy "đã nhàm rồi" vì nghĩ rằng lão nói "để có đấy thôi". Xét cho cùng, chẳng qua cũng chỉ là con chó, việc bán nó đi có gì khó khăn đến vậy. Qua lời tâm sự của lão, nhân vật "tôi" mới hiểu được rằng, con chó ấy do người con trai để lại trước khi bỏ đi đồn điền cao su, bặt âm vô tín mấy năm. Đến đây, người đọc mới ngộ ra rằng, phải chăng với lão, cậu Vàng chính là cậu cháu trai, là đứa trẻ mà lão cho "ăn cơm trong một cái bát", lão ăn gì cũng chia cho nó", "chửi yêu nó", "nói với nó như nói với một đứa cháu bé". Không ngờ rằng cũng đến cái ngày, lão phải chọn cách bán nó vì không thể nuôi nổi do quá nghèo. Tâm trạng vừa chua xót, vừa dằn vặt, chẳng biết bán hay nuôi. Bán thì không cam lòng, mà nuôi thì không nổi vì chẳng có tiền.

Diễn biến tâm trạng lão Hạc sau khi bán chó khiến người đọc cảm thấy đắng cay và thương tâm. Lão tìm đến ông giáo, chạy sang nhà ông báo: "Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!", "cố làm ra vui vẻ" nhưng trông "lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước". "mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô nhau lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra...lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc". Bộ dạng thảm thương đến nhói lòng, sự hối hận, dằn vặt hóa thành những giọt nước mắt chảy trên gương mặt của lão nông tuổi đã xế chiều. Lão cảm thấy bản thân có lỗi với cậu Vàng vì "trót lừa một con chó". Nấc nghẹn trong hàng nước mắt, lão kể với ông giáo khi cậu Vàng bị bắt, tự chửi rủa, trách móc bản thân mình: "Khốn nạn... Ông giáo ơi! Nó có biết gì đâu!", "Nó thấy tôi gọi về thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng", "Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng: "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này?". Câu trách móc của cậu Vàng hay chính lão Hạc tự trách móc chính mình. Lão thương con chó, đối với nó như con để rồi cuối cùng, chính lão lại là người bán nó cho bọn buôn thịt. Lòng tự trọng và tính cách thiện lương khiến lão Hạc không thể ngưng hối hận. Trong đầu lão bây giờ chỉ quẩn quanh hình ảnh cậu Vàng với ánh mắt trách móc vì lão đã lừa nó. Tâm trạng cùng quẫn đau khổ, như người ta phải cắn răng bán đi chính đứa con đẻ của mình.

Xót thương cho cậu Vàng, lão Hạc chuyển sang xót thương cho chính số phận nghiệt ngã của bản thân. Nghe những lời an ủi của ông giáo, lão chỉ biết "chua chát" bảo:" - Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...". Cái suy nghĩ của một người già, một người đã gần đất xa trời nhuộm màu đau thương. Lão nghĩ về kiếp người, nghĩ về cậu Vàng, tự khuyên bảo lòng mình rằng đã hóa kiếp cho một con chó để nó được đầu thai làm người. Nhưng rồi lão nhìn lại kiếp người của mình, một kiếp người đơn côi, nghèo khổ, cô độc, một kiếp sống mòn trong xã hội đổ nát, hèn hạ. Sự chiêm nghiệm ở đây khiến độc giả buồn bã, thương cảm cho lão Hạc và cho cả những người dân nghèo vô tội phải oằn mình chịu đựng cái ách một cổ hai tròng, bị bóc lột đến tận xương tủy bởi sưu cao thuế nặng.

Diễn biến tâm trạng lão Hạc xung quanh việc bán chó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng về tình người, về tình thương yêu, về tấm lòng lương thiện, đáng quý. Miêu tả chi tiết xuôi theo mạch cảm xúc nhân vật, tác giả để bản thân nhân vật tự bộc lộ tính cách, qua đó gợi nhắc đến những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời phê phán hiện thực tàn ác đã đẩy con người đến bước đường cùng.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 5

Vợ lão Hạc chết sớm. Con lão lại phẫn chí mà bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ còn có cậu Vàng. Lão quý con chó như một người đàn bà hiếm hoi quý đứa con cầu tự. Nhưng rồi hoàn cảnh buộc lão phải bán cậu Vàng. Con chó mất đi, người nông dân khổ sở bất hạnh tột cùng kia đã đau đớn và day dứt chẳng khác nào mất đi một phần cơ thể của chính mình.

Câu chuyện xảy ra sau khi lão ốm một trận kéo dài hai tháng mười tám ngày. Trận ốm làm lão yếu đi ghê lắm! Lão không thể đi làm thuê được. Rồi lại bão, hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo thì mỗi ngày một kém. Lão đành phải dứt ruột bán cậu Vàng.

Câu chuyện tưởng như cũng chẳng có gì ghê gớm lắm. Bán một con chó đâu phải chuyện động trời động biển gì. Với người khác, câu chuyện ắt sẽ rất bình thường nhưng với lão Hạc thì không. Bởi con chó đối với lão không chỉ là một gia tài mà nó còn là một kỉ niệm, là tình thương của cha con lão. Mà với lão lúc ấy chắc chẳng có gì quan trọng hơn đứa con trai. Cậu Vàng là một kỉ vật. Chính bởi thế nên khi bán chó xong, Lão Hạc day dứt lắm. Lão muốn tìm ai để chia sẻ. Lão vội nghĩ ra và sang ngay nhà ông giáo. Gặp ông giáo “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước”. Ngày con lão bỏ đi chưa chắc gì lão khóc vậy mà bây giờ lão đang “ép” những giọt nước mắt khó khăn của một ông lão đã đến tuổi gần đất xa trời. Có như vậy ta mới thấy lão là người tình nghĩa. Và quan trọng hơn sau những giọt nước mắt kia ta tủi thân cho lão, một con người “chẳng bao giờ có quyền giữ cho mình một cái gì”.

Và rồi sau cái vẻ mặt khổ sở kia, lão nức nở như con nít. Lão ngồi đó mà tưởng tượng ra đầy đủ và trọn vẹn cái cảnh thằng Mục và thằng Xiên bắt chó. Lúc ấy cậu Vàng nhìn lão như kêu xin rồi như oán giận. Lão kể cho ông giáo nghe tỉ mỉ và sống động như cậu Vàng là một con người thực vậy. Câu trách của cậu Vàng mà lão nghĩ ra nghe mới chua xót làm sao: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế nào mà lão đối xử với tôi như thế này à?”. Với lão Hạc, lừa bán một con chó có khác chi đã đánh mất cả một đời lương thiện: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Có thể nói đoạn kể chuyện của lão Hạc đã chứng tỏ sự gắn bó sâu nặng của lão với kỉ vật đứa con trai. Đồng thời cũng thể hiện cái bản chất lương thiện của một lão nông dân khốn khổ.

Rồi nỗi niềm day dứt của lão cũng nguôi đi khi nghe những lời an ủi chân thành của người hàng xóm. Nhưng chính lúc này sự day dứt của lão lại kết thành một chân lí chua chát và xót đau hơn: “Kiếp con chó là kiếp khổ như tôi chẳng hạn!”. Ôi! Cái suy nghĩ của lão sao mà đớn đau đến vậy. Quả thực cái kiếp người của lão có hơn gì cái kiếp của cậu Vàng đâu. Chẳng biết Nam Cao vô tình hay hữu ý mà câu nói của lão Hạc ở đây lại vận đúng vào cái chết của lão sau này đến vậy.

Có thể nói, việc bán chó chỉ là một cái cớ hữu hình để nhà văn cho nhân vật của mình bày tỏ suy nghĩ về kiếp người và về cuộc sống. Tất nhiên chỉ cần bám sát tâm trạng của lão Hạc khi bán cho người ta có thể đánh giá trọn vẹn về cái bản chất tốt đẹp của nhân vật này. Một con người đến làm ác với con vật còn không sao làm nổi thì không có lý gì lại sống xấu xa, ác độc với mọi người.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 6

Lão Hạc sống cô đơn từ cái ngày cậu con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Vợ lão đã chết từ lâu, giờ thằng con lão lại sinh ra thế, lão đành ngậm ngùi trầm lặng sống cùng con chó Vàng, kỷ vật duy nhất mà đứa con để lại trước khi đi. Ấy vậy mà cái niềm an ủi duy nhất ấy, lão cũng không có quyền giữ. Mất con chó, lão nông khốn khổ này đã đau đớn day dứt không khác gì mất đi một người thân.

Lão Hạc quý con Vàng lắm. Chẳng gì nó cũng là một kỷ vật. Vợ lão mất đi, tất cả những yêu thương lão dồn cả cho cậu con trai. Nhưng nhà lão nghèo quá, không đủ tiền cưới vợ, con lão bỏ đi. Cậu Vàng lúc này có khác gì cậu con trai quý tử của lão. Lão chăm chút nó chu đáo lắm. Lão ăn gì cũng cho nó ăn theo. Cậu Vàng lớn nhanh và cũng rất trung thành với chủ. Nhưng rồi những trận ốm dai dẳng khiến lão tiêu hết cả chỗ tiền bòn. Lão đành bán chó. Chuyện tưởng chỉ đơn giản như người ta bán đi một con vật nào đó trong nhà. Nhưng với lão Hạc, chuyện bán con chó to tát lắm.

Hôm bán chó xong lão Hạc sang nhà ông giáo báo tin. Lão “cố làm ra vui vẻ nhưng trông lão cười như mếu và đồi mắt lão ầng ậng nước”. Lão đau xót thật. Nỗi đau của lão khiến ông giáo còn cảm thấy “không xót xa năm quyển sách như trước kia nữa”. Ông giáo chẳng biết nói sao, hỏi cho có câu chuyện “thế nó cho bắt à?”, không ngờ nó gợi đúng nỗi đau đang chỉ chực dâng lên và cứ thế là “mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô nhau lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra…lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Bộ dạng lão Hạc trông thật là tội nghiệp. Những giọt nước mắt khó khăn tưởng như không thể có ở cái tuổi gần đất xa trời của lão đã rơi chỉ vì thấy mình có lỗi với chú chó Vàng. Lão khóc như đứa con nít giận dỗi vì bị ai đe nẹt và quát mắng.

Ông giáo bùi ngùi ngồi nghe lão kể. Lão kể chuyện bán chó mà thực chất là để tự xỉ vả mình. Lão nói “Khốn nạn…Ông giáo ơi!...nó có biết gì đâu”. Một câu chửi thề, một lời tự trách, con chó được lão Hạc coi như một đứa con mà mình chẳng khác gì một ông già chuyên lừa lọc. Lão Hạc tưởng tượng trong ánh mắt của con Vàng lúc đó bị trói chặt cả bốn chân là một lời trách móc nặng nề “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối xử tôi thế này à”. Lời tự vấn chứng tỏ lão Hạc dằn vặt lắm.

Thế rồi lão Hạc cũng nguôi dần nhờ sự động viên của ông giáo. Thôi thì đằng nào nó cũng chết rồi. Lão chua chát bảo “Kiếp con chó là kiếp khổ, thì ta hóa kiếp cho nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút…Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Câu nói của lão Hạc chua xót biết bao. Chẳng gì cái kiếp người của lão đã sung sướng hơn kiếp chó. Cuộc đời lão cũng nhục nhã đủ điều con Vàng đã yên phận nó. Còn lão, lão vẫn phải sống “kiếp người” mà nào có ra gì. Và rồi nay, cái chết của lão đâu có nhẹ hơn cái chết của cậu Vàng.

Tình yêu của lão Hạc đối với cậu Vàng không đơn giản là thứ tình yêu dành cho con vật. Cậu Vàng là kỷ niệm, là nơi duy nhất để lão Hạc hàng ngày tâm sự chuyện mình. Nói chuyện với cậu, lão có cảm giác như đang được gần cậu con trai yêu quý. Chính điều này khiến ta dễ dàng hiểu được tại sao lão Hạc lại dằn vặt và đau đớn khi bán chó đi. Đoạn truyện tuy ngắn nhưng đã gợi ra những phẩm chất vô cùng tốt đẹp của lão nông dân, một con người luôn sống vị tha và thương yêu rất mực.

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 7

Nam Cao là một nhà văn có biệt tài miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Các nhân vật của ông hiện lên trong tác phẩm với tất cả những nét tâm trạng rất thực của con người. Tâm trạng của lão Hạc sau khi bán cậu Vàng trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao giúp ta hiểu hơn về phẩm chất và tính cách của lão, và thấy rõ nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.

Trong thiên truyện ngắn này, nhân vật cậu Vàng có mối quan hệ đặc biệt với nhân vật chính lão Hạc. Nó không chỉ đơn thuần là con vật nuôi trong nhà mà nó còn là một người bạn chia sẻ niềm vui nỗi buồn với ông lão trong cảnh sống một thân một mình. Quan trọng hơn, với lão Hạc, cậu Vàng giống như một người cháu, là sợi dây duy nhất nối lão với người con trai bất hạnh ở nơi xa. Chính vì vậy, ta nhận ra tình cảm đặc biệt mà ông lão dành cho cậu Vàng. “Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự” ; “Lão cho nó ăn cơm trong một cái bát như một nhà giàu” ; “Lão ăn gì cũng chia cho nó cùng ăn” ; “Rồi lão chửi yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó”,… Những tháng ngày xa con, lão sống trong tình yêu thương và niềm hi vọng về con trai. Niềm động viên để lão đỡ cô đơn là cậu Vàng. Nhưng cuộc sống nghèo khổ, đã từng cướp đi của lão đứa con trai duy nhất giờ đây lại cướp nốt cậu Vàng của lão. Lão buộc phải bán cậu Vàng bởi : “Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được ?” ; “Bây giờ tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó”.

Trước khi bán cậu Vàng, ta thấy tâm trạng của lão Hạc cũng đầy những đắn đo : “Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ !”. Sự đắn đo ấy xuất phát từ tình yêu thương với con chó mà thực ra là một người bạn đặc biệt của lão. Bởi trong lòng lão không muốn phải rời xa cậu Vàng. Lão đã tâm sự với ông giáo hết lí lẽ vì sao lão lại bán cậu Vàng. Như vậy, trong lão cũng đầy những sự khổ tâm, dằn vặt trước quyết định của mình.

Tâm trạng đó được đẩy lên đến đỉnh điểm sau khi lão bán cậu Vàng. Người đọc không khỏi xúc động khi Nam Cao tả lại cảnh lão Hạc sang nhà ông giáo kể lại việc lão bán con chó. Nam Cao đã sử dụng hàng loạt từ ngữ, hình ảnh để diễn tả thái độ, tâm trạng của lão Hạc sau khi đã buộc lòng phải bán cậu Vàng. “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Tác giả đã lột tả được sự đau đớn, hối hận, xót xa, thương tiếc của ông lão dành cho cậu Vàng… Tất cả đang trào dâng và chỉ chực vỡ oà khi có người hỏi đến. Đối với một người bình thường thì việc bán con chó mình nuôi để người ta giết thịt chỉ là một việc làm hết sức bình thường, nhưng với lão Hạc – một người nông dân giàu tình thương và đôn hậu thì đó là một vết thương lòng đau đớn tự mình gây nên. Lão khóc – những giọt nước mắt của một con người mà cả đời đã quá nhiều đau khổ. Cuộc đời của lão Hạc là dòng nước mắt chảy dài của những nỗi đau bất lực. Nước mắt lão đã cạn kiệt, cho nên khi khóc, “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”. Không biết đây là cái tài miêu tả của Nam Cao hay là cái tình của nhà văn đối với sự tủi cực của kiếp người đã hoá thành cái tài ấy ?

Cái hay trong nghệ thuật miêu tả tâm lí lão Hạc của nhà văn Nam Cao là ở chỗ nhà văn đã thể hiện chân thật, cụ thể và chính xác, tuần tự diễn biến tâm trạng đau đớn cứ dâng lên như không thể kìm nén nổi của lão, tất cả đều rất phù hợp với tâm lí, hình dáng và cách biểu hiện của những người già. Tất cả từ đầu, từng nét, từng nét, để dẫn tới xung đột đỉnh điểm của tâm trạng và cuối cùng oà vỡ ra thành tiếng khóc hu hu như con nít. Từ tâm trạng đau khổ tột cùng khi phải xa cậu Vàng, thái độ của lão Hạc chuyển sang day dứt, ân hận, xót xa. Lão trách mình đã có tội với con Vàng, là kẻ phản bội, bất nhân đã lừa một con chó. Lão tưởng tượng cậu Vàng trách mình : “A ! Lão già tệ lắm ! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à ?”. Lão tưởng tượng ra lời cậu Vàng trách lão mà thực chất là lão đang trách mình, đang tự sỉ vả mình khi đã bán cậu Vàng. Sự ân hận này là biểu hiện rất cao của ý thức. Với lão, cậu Vàng không phải là một con vật nuôi bình thường mà giống như một con người cụ thể đã yêu thương và gắn bó với lão. Sự ân hận này là biểu hiện cao của tình yêu thương tha thiết đối với cậu Vàng.

Theo đà câu chuyện giãi bày, thái độ lão Hạc chuyển sang chua chát, ngậm ngùi. Những câu nói : “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút… kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn !” ; “kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng ?” đượm màu triết lí dân gian dung dị của những người nông dân nghèo khổ, thất học nhưng đã bao năm tháng trải nghiệm và suy ngẫm về số phận con người qua số phận của chính bản thân mình. Những câu nói thể hiện nỗi buồn, sự bất lực của họ trước hiện thực và tương lai không một màu hi vọng.

Như vậy tâm trạng của lão Hạc sau khi bán cậu Vàng là tâm trạng đau khổ tột cùng, ân hận, oán trách bản thân và kết đặc lại là một sự ngậm ngùi, chua xót cho kiếp sống khốn khổ của phận người. Từ chi tiết bán con Vàng, lão Hạc đã phải sống những giây phui đau khổ như khi phải dứt ruột chia tay thằng con trai. Nam Cao như đang dừng ống kính máy quay của mình để quay cận cảnh, phát hiện ra chiều sâu trong đời sống nội tâm của nhân vật. Qua đó người đọc càng thấy được những nét nhân cách rất Người, rất đáng trọng của một lão nông nghèo khổ nhưng bất hạnh.

Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao sẽ mãi khắc sâu trong tâm trí người đọc hình ảnh một ông già nghèo khổ đang vuốt ve, cưng nựng cậu Vàng như một người cháu nhỏ. Người đọc mãi day dứt với hình ảnh một ông già khóc “hu hu” như một đứa trẻ vì thấy mình đã trót lừa một con chó. Câu chuyện về lão Hạc và cậu Vàng còn đó như một niềm ám ảnh khôn nguôi…

Phân tích diễn biến tâm trạng của Lão Hạc khi bán Cậu Vàng – mẫu 8

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…

Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Cao...) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch" khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “"con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn di. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiêm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Ngô Tất Tố (1893- 1954)

- Quê quán: làng Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội)

- Cuộc đời và sự ngiệp sáng tác

   + Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo và viết cho tờ An Nam tạp chí.

   + Sau gần ba năm ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố trở ra Hà Nội. Ông tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài cho các báo: An Nam tạp chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần báo…

   + Những tác phẩm tiêu biểu: Lều chõng, Việc làng, Đề Thám…

- Phong cách sáng tác: Ông là nhà văn xuất sắc của trào lưu văn học trước Cách mạng, thơ ông mang đậm dấu ấn hiện thực, ông thường viết cuộc sống ngừi nông dân trong xã hội phong kiến, ở đó luôn có sự bế tắc không lối thoát

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Đoạn trích Tức nước vỡ bờ trích từ chương XVIII của tiểu thuyết Tắt đèn- tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố

2. Tóm tắt

   Chỉ vì đóng thiếu một suất sưu cho người em trai đã mất mà anh Dậu bị bọn cai lệ bắt trói, bị đánh đập đến ngất đi như một xác chết rồi được khiêng về nhà. Sáng sớm hôm sau, khi anh Dậu còn đang cố húp bát cháo thì tên cai lệ và người nhà lí trưởng sấn sổ định bắt trói anh. Chị Dậu đã hết lời van xin nhưng bọn chúng nhất quyết không buông tha, còn chửi mắng và bịch và ngực chị. Tức nước vỡ bờ, chị vùng lên đánh ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

3. Giá trị nội dung

- Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng khốn khổ, bế tắc, khiến họ phải liều mạng cự lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ

4. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật tạo tình huống truyện có tính kịch

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: miêu tả nhân vật chân thật, sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí.

- Đoạn trích tiêu biểu cho ngòi bút hiện thực, ngôn ngữ kể chuyện vô cùng linh hoạt.

Tài liệu có 14 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống