TOP 19 bài Phân tích Rừng xà nu 2023 SIÊU HAY

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 12 bài văn mẫu Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành hay nhất, gồm 17 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 19 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi vào tốt nghiệp THPT môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH RỪNG XÀ NU CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH

Bài giảng: Rừng xà nu

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 1

Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn "Rừng xà nu" sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn "Rừng xà nu" nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

"Rừng xà nu" là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàng. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗ khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vét sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.

Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.

Top 19 bài Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành 2022 hay nhất (ảnh 1)

Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư. Ngày còn nhỏ Tnú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong. Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.

Truyện ngắn "Rừng xà nu" của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành (tiểu sử, các tác phẩm chính, đặc điểm sáng tác…)

- Giới thiệu khái quát tác phẩm Rừng xà nu (hoàn cảnh ra đời, tóm tắt ngắn gọn giá trị nội dung và nghệ thuật)

2. Thân bài

a) Luận điểm 1: Hình tượng rừng xà nu

- Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm

- Rừng xà nu có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên:

+ Có trong mối quan hệ hằng ngày: những bếp lửa đốt bằng cây xà nu, lửa mười đầu ngón tay Tnú tẩm bằng nhựa cây xà nu, khói xà nu làm thành bảng đen cho Tnú và Mai học chữ, dân làng Xô Man sống cùng cây xà nu, hẹn hò nhau dưới bóng cây xà nu và thậm chí chết họ cũng yên nghỉ bên cạnh cây xà nu.

+ Xuất hiện cả trong những sự kiện trọng đại: cụ Mết kể chuyện cho dân làng nghe, ngọn lửa cây xà nu chiếu sáng cho cả dân làng mài giáo đánh giặc,…

+ Ăn sâu vào suy nghĩ, tiềm thức của người dân Xô Man

=> Mối quan hệ rất đặc biệt, gắn bó khăng khít và trở thành một phần máu thịt của dân làng Xô Man

- Rừng xà nu như một sinh thể, chịu sự tàn phá dữ dội của chiến tranh: cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương, có những cây bị chặt đứt đổ ào ào như trận bão, vết thương không lành được loét mãi ra năm mười hôm thì cây chết,…

- Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe: “cạnh cây xà nu mới gục ngã đã có 4,5 cây con mọc lên”, “cây mẹ ngã đã có cây con mọc lên”, “nó vẫn sống đấy (…) Đố nó giết hết rừng xà nu này”

=> Hình ảnh biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ và sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên

- Loại cây ham ánh sáng mặt trời: “Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời tới thế (…) thơm mỡ màng”. Nó cũng giống như những con người Tây Nguyên luôn khao khát tự do và có một sức sống mãnh liệt

b) Luận điểm 2: Các thế hệ anh hùng Tây Nguyên

* Cụ Mết

- Ngoại hình: râu dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má láng bóng, ngực căng như một cây xà nu lớn

- Tính cách: cụ Mết như một cây xà nu cổ thụ, luôn yêu thương và hết mực che chở cho dân làng. Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên – quả quyết, gan dạ, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng.

* Tnú

- Tnú xuất hiện qua lời kể của cụ Mết

- Tnú là một người chiến sĩ:

+ Gan góc, gan lì, thông minh, sáng dạ: khi còn nhỏ cùng Mai vào rừng tiếp tế cho anh Quyết

+ Dũng cảm và tuyệt đối trung thành với cách mạng: bị lửa đốt mười đầu ngón tay Tnú không thèm kêu van, không khai ra, bị giặc bắt, tra tấn, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của kẻ thù nhưng anh vẫn gan góc, trung thành

+ Tính kỉ luật cao: cấp trên cho về một đêm thì Tnú về một đêm, sáng hôm sau lại đi ngay

- Tnú là người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ, con: khi chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị tra tấn “con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, “Tnú nhảy xổ ra”

- Tnú là người con của buôn làng Xô Man, luôn gắn bó và đầy tình nghĩa với dân làng: xin về thăm làng một đêm, để nước suối của làng giội lên người

=> Tnú là người con ưu tú của núi rừng Tây Nguyên, là nòng cốt của cuộc kháng chiến, biết nén đau thương của cá nhân vì lợi ích của cả cộng đồng, dân tộc

* Nhân vật Dít và bé Heng

- Dít: Là người con gái gan dạ, dũng cảm, có sức chịu đựng phi thường, biết nén đau thương để nung nấu ý chí trả thù: đem gạo vào rừng cho dân làng, giặc bắn súng dọa vẫn không khai, chị mất nhưng không khóc,…

- Bé Heng: còn nhỏ tuổi nhưng đã tham gia làm nhiệm vụ cách mạng: thông thuộc từng hố chông, từng chiến điểm để dẫn đường cho cán bộ cách mạng, cho khách đến làng. Bé Heng là thế hệ tiếp nối, kế tục cha anh để đưa cuộc chiến tới thắng lợi cuối cùng.

=> Họ là một tập thể anh hùng, là sự nối tiếp nhau qua các thê hệ, biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Tây Nguyên: giàu tình yêu thương, căm thù giặc sâu sắc, trung thành với cách mạng.

3. Kết bài

- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:

+ Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời của Tnú, sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến tự giác của dân làng Xô Man biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường trong kháng chiến chống Mĩ.

Rừng xà nu đã xây dựng được những hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: cây xà nu; những thế hệ xà nu - những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; người anh hùng Tnú.

Sơ đồ tư duy

Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành năm 2021

Các bài văn mẫu khác

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 2

Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.

Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng câu xà nu. Nhưng đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông, vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man. Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man. Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.

Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa nu không cây nào không bị thương. Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra... bầm lại đen, quện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh, những vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng. Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên. Không chỉ vậy, chúng còn có sức sống bất diệt, không gì cỏ thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mớ cảnh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.

Top 19 bài Phân tích Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành 2022 hay nhất (ảnh 2)

Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được. Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng. Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn. Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng tay thân thương của những người cùng bản làng. Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.

Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn, mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn. Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh – những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám ánh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn. Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tan sát dã màn. Từ khối thù chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.

Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – chủ động đánh giặc, muốn dành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên. Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiết huyết và quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.

Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu chuyện lồng trong chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.

Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 3

Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vố số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định. "Rừng xà nu" viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà - một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên. Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.

Video bài văn mẫu Phân tích Rừng xà nu

Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu… Mọi thứ dường như đều xoay quanh loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh "đồi xà nu" (4 lần), "rừng xà nu" (5 lần), với "hàng vạn cây" "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng". Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống. Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.

Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man. Tnú nhân vật chính của Rừng xà nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng, nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc. Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chững kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng. Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi cùa kẻ thù: "Cộng sản ở đây này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức, sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù. Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná…" chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc", răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù. Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…". Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”. Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.

Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhờ con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương. Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là "Rừng xà nu"… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện "Rừng xà nu" thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 4

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được tác giả Nguyễn Trung Thành sáng tác vào năm 1965 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, đặc biệt là ở chiến trường Tây Nguyên Mỹ đang đổ quân vào để khủng bố và giết chóc. Ra đời trong hoàn cảnh đó, tác phẩm mang ý nghĩa quan trọng như nguồn cổ vũ và động viên lớn lao dành cho con người Việt Nam, là động lực để quân và dân ta kiên cường trong chiến tranh gian khổ.

Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” tác giả đã xây dựng hai hình ảnh lớn mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc đó là hình ảnh cây xà nu và hình ảnh những con người anh hùng đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp của người dân làng Xô Man. Hình ảnh cây xà nu được xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Cây xà nu là một loài cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên, gắn bó với cuộc sống sinh hoạt của người dân làng Xô Man: lửa xà nu trong mỗi bếp, trong đống lửa nhà ưng,... cây xà nu còn chứng kiến quá trình đấu tranh của dân làng Xô Man “đuốc xà nu được thắp lên trong những đêm người dân mài vũ khí” …. Dưới tầm bắn của đại bác rừng xà nu đã ưỡn tấm thân lớn của mình ra che chở cho làng, gánh chịu đau thương để rồi “cả rừng hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Cây xà nu còn là nhân chứng trong cuộc nổi dậy của dân làng trong đêm Tnú bị tra tấn, cây xà nu đã kề vai sát cánh cùng con người chiến đấu. Cây xà nu còn mang những vẻ đẹp biểu tượng cho phẩm chất, tâm hồn và ý chí của người dân Tây Nguyên nói chung và dân làng Xô Man nói riêng. Loài cây này có sức sinh sôi nảy nở rất khoẻ, lớn rất nhanh để thay thế những cây đã ngã, vẻ đẹp ấy tượng trưng cho sức sống bất diệt của người dân làng Xô Man, bên cạnh đó xà nu lại rất ham ánh sáng mặt trời nên thường vươn cao, thẳng tắp giống như tinh thần yêu cách mạng, quý tự do của người dân làng Xô Man, từ người già đến trẻ nhỏ đều một lòng tin vào lời dạy của cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Cây xà nu thường mọc thành rừng biểu tượng cho tinh thần đoàn kết của dân làng Xô Man, trong mọi hoàn cảnh gian khổ, đau thương và mất mát các thế hệ người dân làng Xô Man luôn kề vai sát cánh bên nhau, trên dưới đồng lòng và tuyệt đối trung thành với lời của cụ Mết.

Dưới tán rừng xà nu ấy là nơi có những con người anh hùng với những phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho vẻ đẹp những con người dân làng Xô Man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung. Nổi bật nhất là hình tượng nhân vật Tnú, đời thường Tnú là một chàng trai chung thuỷ và có tình yêu sâu sắc với Mai, bên cạnh đó anh cũng yêu quê hương tha thiết, trước khi là một người anh hùng, Tnú là một người con ưu tú của làng Xô Man. Tnú nổi bật với tinh thần bất khuất gan góc, dũng cảm và trung thành với cách mạng. Khi còn nhỏ Tnú đã bộc lộ bản lĩnh cách mạng kiên cường, có đóng góp lớn cho sự nghiệp chung như tham gia phong trào nuôi giấu cán bộ trong rừng, quyết tâm học chữ để làm cán bộ giỏi, rồi làm liên lạc cho anh Quyết để đưa thư. Khi lớn lên Tnú cùng dân làng nung nấu ý chí đánh giặc bằng cách mài vũ khí giấu ở trong rừng, khi giặc khủng bố giết chóc Tnú tận mắt nhìn thấy vợ và con bị giết nhưng vẫn phải nén nỗi đau riêng, quyết không phản bội lại cách mạnh. Ngay cả khi bị giặc tra tấn “một ngón tay… răng anh đã cắn nát môi anh rồi”, bản lĩnh cách mạng giúp Tnú có sức chịu đựng phi thường.

Tnú chính là thế hệ tiếp bước con đường của cha anh, người anh hùng tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man. Bên cạnh nhân vật Tnú, cụ Mết là người có vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, là người già làng cụ luôn có tinh thần giáo dục truyền thống, dẫn dắt dân làng đi lên, cụ dạy dân làng “chúng nó có súng mình phải cầm giáo mác”, rồi cụ định hướng cho dân làng “đánh thằng Mỹ phải đánh dài”, cũng chính cụ thường xuyên kể chuyện về Tnú cho dân làng và các thế hệ con cháu nghe. Như vậy cụ Mết là người có vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của người dân làng Xô Man, cụ đã giáo dục, định hướng và dẫn dắt để dân làng đi lên, cụ Mết là biểu tượng cho sức chiến đấu kiên cường, bất khuất. Dít là người con gái đầy bản lĩnh, ngay từ nhỏ đã bộc lộ bản chất gan góc và tinh thần trung thành với cách mạng: lẻn vào rừng tiếp tế lương thực cho du kích, khi bị giặc bắt và khủng bố tinh thần Dít nhìn bọn giặc bằng ánh mắt bình thản, lạnh lùng. Khi lớn lên đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng Dít làm việc rất nghiêm túc, biết kìm nén tình cảm riêng và đặt nhiệm vụ chung lên trên hết. Dít và bé Heng giống như thế hệ cây xanh mới mọc và lớn rất nhanh, bé Heng trông nhỏ con nhưng thuộc hết những vị trí hầm chông, hố châm, biết tham gia và công cuộc chung của dân làng, tỏ ra mình là một người lính thực sự. Nhà văn đã xây dựng hệ thống nhân vật với ba thế hệ, tầng lớp cha anh (cụ Mết), tầng lớp thanh niên (Tnú), tầng lớp măng non (Dít và bé Heng), tất cả họ đều mang những phẩm chất đại diện cho phẩm chất của cộng đồng, là những con người mang tầm vóc lịch sử.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” với sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình tượng cây xà nu và những con người “anh hùng dân tộc” của làng Xô Man trong thời chiến tranh chống Mỹ. Tô đậm truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta đồng thời cổ vũ và ca ngợi thế hệ con em noi gương cha anh tiếp bước gìn giữ non sông.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 5

Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu. Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.

Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.

Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên - " Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn". Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết. Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên". Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển,  dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù "hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng". Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao. Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man. Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman. Với cụ "Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn". Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo" của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu. Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tin yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.

Đó còn là những Dít, bé Heng,... thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.

Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 6

Trong nền văn học nước nhà, thể loại văn xuôi được biết đến là một trong những thế loại đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong các tác phẩm không thể không nhắc đến bài “rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một bài sử thi đậm chất Tây Nguyên. Trong đó tác giả khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, làm cho ta cảm thấy hào hùng, sự chiến đấu của con người Tây Nguyên.

Tác giả Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông còn hoạt động chiến trường miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của tác phẩm, hình tượng “cây xà nu” là hình ảnh trung tâm trong bài văn. Xà nu được biết đến là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường bất khuất như người dân Tây Nguyên, sống trong một môi trường khắc nghiệt nhưng nó vẫn bền bỉ.

Hình ảnh cây xà nu được ví như những con người Tây Nguyên không chịu đầu hàng với số phận, với thời tiết, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ độc lập, tự do của bản mình, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những cây xà nu vươn mình bảo vệ dân làng khỏi bão táp, khỏi sự săn đuổi, giúp cán bộ cách mạng thực hiện được chiến lược của mình.

Cây xà nu gắn liền với đời sống hàng ngày với người dân Tây Nguyên, sự trưởng thành từng của các thế hệ dân làng Xô Man, đó là từ Tnú, chị Mai, cụ Mết, bé Heng, đó là những người thế hệ từ đời này sang đời khác, mỗi thế hệ đều cố gắng lớn lên, thay nhau bảo vệ ngôi nhà Tây Nguyên của mình, mà cây xà nu vẫn gắn bó, trải qua bao bom đạn với dân làng nơi đây.

Có thể nói “cây xà nu”chính là linh hồn của Tây Nguyên, nó đã lớn lên, ăn sâu trong mỗi tiềm thức con người Tây Nguyên, khi nhắc đến loài cây này, dường như ta cảm thấy sự hào hùng, cây mọc thẳng, vươn vai, cao lớn, hướng tới ánh sáng cũng như người dân Xô Man hướng tới hạnh phúc, sự độc lập dân tộc.

Trong lịch sử kháng chiến của dân làng Tây Nguyên, cây xà nu chính là người bạn chiến đấu, sát cánh cùng người dân, nó chính là biểu tượng tinh thần và ý chí quật cường, mặc dù bị thiêu rụi thì cây xà nu vẫn kiên cường bảo vệ âm ỷ dòng nhựa để cho cây non mọc lên, cũng như Tnú từ một cậu bé dần dần được cách mạng nuôi dưỡng, bảo vệ và lớn dần khi trưởng thành chiến đấu, dù bị đốt mười ngón tay những vẫn cầm súng chiến đấu.

Tác giả đã miêu tả hình tượng cây xà nu ẩn dụ, miêu tả cây bằng nghệ thuật nhân hóa như những con người Tây Nguyên, nói lên sự hi sinh, và cũng miêu tả lê cảnh bị áp bức bóc lột đến tàn bạo mà bọn thực dân đối với dân làng Xô Man, cây xà nu bị thiêu rụi, cũng chính là sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối tiếp. Hình ảnh Mai và Tnú bị tra tấn nhưng họ vẫn chịu đựng, gắng gượng đến phút cuối cùng.

Mối quan hệ giữa người dân với cây xà nu có một sợi dây gắn kết rất bền chặt, và khăng khít không ai có thể tách rời, cây xà nu chính là người bạn từ thuở ấu thơ, trải qua bao thăng trầm lịch sử với dân làng, chúng chính là hàng rào bảo vệ kiên cố, dù bị thiêu rụi vẫn cố gắng đứng lên như con người Xô Man, tuy không thể nói, không thể biểu hiện cảm xúc nhưng những cây xà nu lại làm ta cảm thấy thêm niềm tin, sức mạnh chiến đấu đến cùng.

Cứ thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau lại đứng lên nối tiếp nhau, phát huy hết sức mạnh chiến đấu, cũng như cây xà nu già chết lại trên thân cây đó có cây xà nu con mọc lên vươn vai để bảo vệ người dân Xô Man, từ thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnú và cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có sự khao khát cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp ở phía trước đang chờ đợi họ.

Trong tác phẩm rừng xà nu chắc chắn hình ảnh Tnú và cây xà nu được ví như hai hình ảnh song song nhau, có nhiều mối tương đồng, hỗ trợ lẫn nhau, làm nổi bật được ý chí và tinh thần chiến đấu của nhau, một cây xà nu to, chắc, vươn rộng vai mình bao trùm dân làng cũng như Tnú một chàng thanh niên khỏe mạnh cùng cán bộ, cùng các già làng đấu tranh đuổi bọn giặc Mỹ ra khỏi làng, để người dân có một cuộc sống êm đềm, không còn sống trong sợ hãi, hi sinh bản thân vì độc lập, tự do.

Sự khát vọng hòa bình, sự bình yên cho cả nước, những ước mong mà người dân luôn khao khát từng ngày, bằng tình yêu bao la của mình đối với Tây Nguyên, câu văn miêu tác giả dùng những tả qua hình ảnh cây xà nu, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật, sự kiên cường của từng con người Xô Man.

Và với sự quan sát một cách tinh tế, Nguyễn Trung Thành đã khiến cho người đọc cảm nhận được sự mất mát và đau thương mà người dân nơi đây phải chịu thông qua hình ảnh cây xà nu, có một trái tim đồng cảm và chua xót cho con người Tây Nguyên.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 7

Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu” sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

“Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.

Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗi khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu.

Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vết sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.

Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.

Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người.

Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư.

Ngày còn nhỏ Tnú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong.

Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.

 

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 8

Tác phẩm “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 và được in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Ngay ở nhan đề của truyện ngắn, ta có thể hình dung về những cảnh rừng xà nu xanh bạt ngàn và có sức sống mãnh liệt như những người dân của buôn làng Xô Man.

Hình ảnh rừng xà nu ở ngay phần đầu tác phẩm. Xà nu là loại cây họ thông, mọc nhiều ở khu vực Tây Nguyên. Trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành, “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Cây mọc thành khu rừng rộng lớn và trở thành loài cây đặc trưng của mảnh đất Tây Nguyên anh dũng.

Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm, rừng xà nu được tác giả miêu tả là bao quanh và che chở cho buôn làng Xô Man tránh khỏi những trận đại bác của quân địch. Nhưng vì sự khốc liệt của chiến tranh, cả cánh rừng hàng vạn cây xà nu đều bị thương, thậm chí “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.

Người dân nơi đây yêu rừng xà nu vì đây là loài cây gắn bó với dân làng, là người bạn đồng hành từ khi họ sinh ra, lớn lên, già đi và đến khi về với đất mẹ. Dưới tán cây xà nu là những nét đẹp văn hóa của những buổi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tây Nguyên và còn là nơi hò hẹn của trai gái trong buôn làng.

Và hơn thế, xà nu còn là đồng đội của dân làng, khi ngọn đuốc xà nu sáng rực trong đêm cùng dân làng nổi dậy chống kẻ thù. Khói xà nu thì xông bảng nứa đen kịt để anh Quyết dùng làm công cụ dạy Tnú và Mai học bài. Rồi lửa xà nu còn soi sáng “xác mười tên lính giặc ngổn ngang” chứng minh cho sự kiên cường, anh dũng của buôn làng Xô Man.

Bên cạnh ý nghĩa tả thực, cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận và phẩm chất cao đẹp của những người con Tây Nguyên. Hình ảnh rừng xà nu chịu bao trận đại bác của địch gợi những đau thương mà nhân dân phải gánh chịu.

Nhưng khâm phục thay, bom đạn của kẻ thù không thể ngăn được sự sinh sôi, sự lớn mạnh của cây xà nu. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Và dù có chịu nhiều tổn thương, những lứa cây mới sẽ nhanh chóng mọc lên và “đạn đại bác không giết nổi chúng”.

Bởi vậy, trong suốt cuộc chiến, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Hình ảnh “anh hùng” ấy của rừng xà nu là biểu tượng cho sức mạnh quật cường, bất diệt cho những thế người con Tây Nguyên. Là thế hệ trước ngã xuống sẽ có thế hệ sau tiếp nối. Xà nu còn là loài cây ham ánh mặt trời, như Tnú và dân làng Xô Man luôn hướng mình theo ánh sáng của cách mạng.

Qua việc phân tích rừng xà nu, đặc biệt là hình ảnh rừng xà nu có thể thấy, đây là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Rừng xà nu có khi được nhìn từ xa, có khi được miêu tả rất gần. Xà nu không chỉ là một hình ảnh thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng, tượng trưng cho khí chất, cho dáng dấp của những con người anh hùng Tây Nguyên.

Mặc dù rừng xà nu là hình ảnh đầu tiên được nhắc đến và cũng là hình ảnh biểu tượng được tác giả dùng để đặt nhan đề tác phẩm, nhưng thực chất con người Tây Nguyên là những nhân vật mà Nguyễn Trung Thành muốn khắc họa hơn cả. Và tiêu biểu cho những con người ấy là Tnú, người chiến sĩ trẻ kiên cường, bất khuất.

Ngay từ khi còn nhỏ, Tnú đã vào rừng nuôi cán bộ. Khi Tnú học chữ thua Mai, Tnú lấy đá tự đập vào đầu. Nhưng được anh Quyết khuyên “Tnú phải làm cán bộ thay anh”, Tnú đã quyết tâm học chữ. Khi đi liên lạc, Tnú “xé rừng mà đi”, “lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Tnú cũng là người nhanh trí, khi bị giặc bắt thì liền nuốt thư vào bụng.

Khi Tnú lớn lên, anh cùng dân làng mài vũ khí để chiến đấu. Khi thằng Dục biết được tin này, nó tìm cách bắt Tnú. Anh bị tra tấn bằng cách quấn giẻ đã tẩm dầu xà nu lên hai bàn tay rồi đốt. Tnú không thể cứu được mẹ con Mai và còn chứng kiến mẹ con chết trước mắt mình. Nỗi đau mất vợ và đứa con chưa còn chưa chào đời cùng nỗi đau bị tra tấn đã biến thành nỗi căm hờn, uất hận trong Tnú.

Lúc này, dù đau đớn Tnú không kêu lên một tiếng, mà chỉ trợn mắt nhìn thằng Dục. Sự căm thù, tinh thần kiên cường khiến anh “không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa”, mà anh nghe lửa như đang cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. “Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Phân tích rừng xà nu có thể thấy, Tnú không chỉ là người mang phẩm chất anh hùng mà còn là người sâu nặng nghĩa tình. Tnú cũng là người chồng, người cha yêu thương vợ con.

Bên cạnh nhân vật Tnú, truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành còn khắc họa thành công các nhân vật khác như cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, Heng… Qua các nhân vật này, tác giả đã làm nổi bật những thế hệ anh hùng nối tiếp nhau một lòng yêu nước, một lòng đi theo lý tưởng của Đảng.

Anh Quyết là cán bộ cách mạng, người dạy chữ cho Mai và Tnú. Và anh cũng là người có vai trò nhen “lửa yêu nước” “lửa đấu tranh” cho người dân Tây Nguyên. Anh như người khai sáng, người giáo dục tinh thần cách mạng cho những người trẻ. Bằng tấm lòng, bằng tình yêu nước anh đã khơi gợi ở Tnú tinh thần chiến đấu vì lí tưởng cách mạng, tin theo Đảng và bác Hồ.

Và bài phân tích rừng xà nu sẽ không trọn vẹn nếu ta không nhắc đến cụ Mết. Cụ là già làng, là người anh hùng thuộc thế hệ trước, là người lãnh đạo buôn làng nổi dậy chiến đấu.

Cụ cũng là người kể chuyện cho các thế hệ thanh niên trong lòng về cuộc đời người anh hùng Tnú. Cụ cũng được trao cho sứ mệnh truyền đạt và khẳng định con đường cách mạng mà nhân dân ta phải đi, đó là” “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nghĩa là chúng ta không thể chịu áp bức mãi được, chúng ta phải đứng dậy, phải cầm giáo đấu tranh cho chính nghĩa.

Những thế hệ sau của cụ Mết, của Tnú là Dít và Heng, chúng sẽ là người nối tiếp con được của thế hệ đi trước. Sau này Dít lớn lên và trở thành chính trị viên xã đội, bí thư chi bộ. Nhưng ngay từ khi còn nhỏ, Dít đã thật gan dạ nhờ vào sự giáo dục về lí tưởng cách mạng của thế hệ đi trước. Dù chỉ là một cô bé, Dít đã rất bản lĩnh mà không run sợ trước súng đạn của quân địch.

Còn cậu bé Heng, ngày mà Tnú ra đi, “nó mới chỉ đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy”, nhưng khi Tnú về thăm làng, Heng đã trở thành một người lính kiên cường.

Heng có thể dẫn Tnú đi qua những con đường “chằng chịt hầm chông, hố chông, cứ mười phút lại gặp một giàn thò chuẩn bị sẵn, cần thò căng như dây ná, đánh một phát chắc chắn gãy đôi ống quyển, lưỡi thò từng đôi, từng đôi gác lên giàn, sắc lạnh”. Và dù vẫn còn là một đứa trẻ, cậu bé đã thật dũng cảm, là mảnh ghép không thể thiếu của một tập thể anh hùng trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ.

Qua phân tích tác phẩm Rừng xà nu có thể thấy, tác phẩm thấm đẫm chất sử thi hùng tráng. Điều này thể hiện ngay từ chủ đề tác phẩm, đến nhân vật, giọng điệu. Thông qua tác phẩm “Rừng xà nu”, tác giả đã tái hiện một không khí hào hùng một thời chống Mỹ của buôn làng Xô Man nói riêng và cả dân tộc ta nói chung.

Như đã phân tích xuyên suốt tác phẩm, ta có thể thấy điểm nổi bật của “Rừng xà nu” không chỉ là hình ảnh rừng xà nu ở phần đầu mà còn ở tuyến nhân vật là những người anh hùng, kiên cường, bất khuất giữa Tây Nguyên đại ngàn.

Đọc và chiêm nghiệm Rừng xà nu, ta như đang hát một khúc ca chiến đầu hào sảng, được hòa mình vào khí thế đấu tranh của những người dân buôn làng Xô Man chân chất và anh dũng. Đồng thời, kết cấu của tác phẩm được xây dựng theo hình thức truyền lồng trong truyện thực đã mang lại sự hấp dẫn cho tác phẩm của Nguyễn Trung Thành.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 9

Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ở vào một bước ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”; hàng chục vạn quân viễn chinh Mĩ ồ ạt đổ vào miền Nam, lực lượng cách mạng phải đương đầu với những thách thức to lớn, nhưng vẫn kiên trì mục tiêu và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Nguyễn Trung thành lúc ấy đang hoạt động báo chí trong lực lượng quân giải phóng miền Trung Trung Bộ đã kịp thời viết bài tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, được xem như một bài hịch của thời đánh đế quốc Mĩ.

Tiếp đó, theo yêu cầu của tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, bằng vốn hiểu biết và tình cảm sâu nặng với Tây Nguyên, nhà văn đã viết rất nhanh truyện Rừng xà nu cùng với tư tưởng cơ bản là khẳng định con đường duy nhất để giải phóng của nhân dân miền Nam là đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, dung bạo lực cách mạng để chống lại sự tàn bạo của kẻ thù.

Rừng xà nu là truyện về cuộc “đồng khởi” của làng Xô Man ở Tây Nguyên, cũng là câu chuyện bi tráng về cuộc đời của Tnú. Hai câu chuyện ấy lồng vào nhau mà truyện về Tnú diễn ra trên nền cảnh lịch sử là cuộc “đồng khởi” của làng.

Tư tưởng chủ đề của truyện đã được phát ngôn qua lời của cụ Mết, ở đoạn cao trào của xung đột giữa nhân dân làng Xô Man với kẻ thù, qua lời của một già làng; tư tưởng ấy được ghi khắc như một chân lí lịch sử: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!…”.

Cố nhiên, giá trị tác phẩm không phải chỉ ở sự minh hoạ tư tưởng ấy, những tư tưởng ấy là điểm quy tụ mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả và soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

Truyện Rừng xù nu mang đậm chất sử thi. Chất sử thi toát lên từ chủ để, cốt truyện đến nhân vật và cả hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm. Hãy chú ý đến cách trần thuật của truyện : Câu chuyện về lịch sử cuộc nổi dậy của một làng và cuộc đời của Tnú được kể lại trong một đêm, cái đêm anh về thăm làng, qua lời của cụ Mết.

Chuyện được kể qua lời của một già làng, bên bếp lửa bập bùng suốt đêm, cho cả dân làng nghe : giọng kể trang trọng như truyền cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử bi thương và anh hùng của cộng đồng : Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống… “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe !…”.

Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới cách kể khan (trường ca) của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, các bài khan được kể như hát suốt nhiều đêm, những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng (như các trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri,…).

Trong Rừng xà nu, câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại, nhưng đã được kể như là một câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng sử thi, với thái độ “chiêm ngưỡng” qua một “khoảng cách sử thi” những con người và sự kiện được kể lại.

Truyện ngắn này đã xây dựng cả một hệ thống nhân vật, thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ cách mạng của làng Xô Man ở Tây Nguyên : Cụ Mết là gạch nối giữa lịch sử và hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp ; anh Quyết là cán bộ cách mạng, người đã “gieo mầm” cách mạng trong đồng bào Tây Nguyên ; rồi Tnú, Mai và tiếp đó là Dít, cả thằng bé Heng – các thế hệ nhân dân Tây Nguyên tiếp nối cuộc chiến đấu, càng sau càng trưởng thành mau lẹ.

Nhân vật trung tâm – Tnú – được tác giả tập trung khắc hoạ cả tính cách và số phận. Cuộc đời và số phận của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. Ở Tnú, nhiêu chi tiết được miêu tả nhằm làm nổi bật những nét tính cách đẹp đẽ và được bộc lộ ngay từ lúc còn là một cậu bé : gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực, gắn bó và trung thành với cách mạng, tình thương yêu vợ con và dân làng, quê hương.

Câu chuyện tình của Tnú và Mai lúc còn nhỏ thì hồn nhiên và thơ mộng, ở tuổi trưởng thành thật đẹp và thắm thiết nghĩa tình, nhưng rồi thành vô cùng bi thương bởi sự tàn bạo tột cùng của kẻ thù, ngay giữa lúc hai người đang ngập tràn hạnh phúc. Nhưng có lẽ ở nhân vật Tnú, hình ảnh đôi bàn tay gây được ấn tượng sâu sắc và đậm nét hơn cả.

Qua bàn tay mà hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật. Bàn tay Tnú lúc còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa : bàn tay cầm phấn viết cái chữ do anh Quyết dạy cho, bàn tay dám cầm đá đập vào đầu mình “Cộng sản ở đây này !” khi giặc tra hỏi, khi Tnú thoát ngục Kom Tum trở về, gặp Mai ở đầu làng, Mai cầm đôi bàn tay ấy mà giàn giụa nước mắt.

Với đôi bàn tay không, Tnú xông ra giữa bọn giặc, quật ngã tên lính to béo đang nện những cây gậy sắt lên mẹ con Mai. Nhưng với hai bàn tay trắng, Tnú đã không cứu nổi vợ con anh. Hai bàn tay Tnú, mười ngón bị bọn giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi đốt. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.

Ngọn lửa từ mười đầu ngón tay – nơi thần kinh bén nhạy nhất – đã thiêu đốt cả gan ruột, cả hệ thần kinh của Tnú : “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.

Mười ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xô Man: trong ánh đuốc lửa xà nu, cụ Mết cùng đám thanh niên với giáo mác trong tay xông ra giết sạch cả tiểu đội lính địch, khởi đầu cho cuộc chiến đấu vũ trang giải phóng của làng.

Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Đốt ngón tay cháy cụt không thể mọc lại. Bàn tay mười ngón cháy cụt còn đó như chứng tích căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, nó nhắc nhở anh và cả làng Xô Man về tội ác man rợ của kẻ thù.

Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo, cầm súng được. Và Tnú đã lên đường, cầm súng đi tìm những thằng Dục để đòi trả món nợ máu… Đến cuối truyện, bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện trong một cảnh được miêu tả tỉ mỉ như quay cận cảnh của điện ảnh. Nhưng lần này nó ở trong một tư thế, một tương quan hoàn toàn khác với kẻ thù.

Bằng đôi bàn tay cụt mười đốt ngón tay ấy, Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó, trong ánh đèn pin soi vào mặt nó cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đang siết vào cổ họng những thằng Dục (với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục).

Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn này là hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn.

Mở đầu và kết thúc truyện đều là hình ảnh cánh rừng xà nu: “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” (câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc giả sau khi câu chuyện đã khép lại).

Nhưng xà nu không chỉ có mật trong đoạn mở đầu và đoạn kết, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: ngọn lửa xà nu cháy bập bùng trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp cả dân làng; khói xà nu đen nhẻm trên thân mình lũ trẻ; khói xà nu còn làm cho tấm bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ,…

Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và cả dân làng đi rừng sâu lấy giáo, mác, dụ, rựa đà giấu kĩ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy; đêm đêm cả làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu; rồi ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính bị giết nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn giữa sân nhà ưng của làng.

Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên. Chúng ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là Rừng xà nu. Tác giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ chức các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Có thể nói hình tượng xà nu là một mô típ chủ đạo trong tác phẩm, không tìm được hình tượng này, tác giả cũng không thể viết được truyện ngắn Rừng xà nu. Nguyên Ngọc kể lại :

“Bắt đầu như thế nào ? Không, quả thực bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu. Hồi tháng 5 – 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi. Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình, là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.

Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó […], Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy […] Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra dưới ngòi bút tôi ! .

Vì nhớ Nguyễn Thi chăng? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. Vì bấy giờ, bước vào cuộc giáp mặt trực tiếp với Mĩ rồi đây, cả cuộc đời mình – mà tôi đã cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ dưới rừng xà nu Tây Thừa Thiên – chợt sống dậy chăng ? Hay vì cái không khí “Hịch tướng sĩ” đánh đế quốc Mĩ hừng hực bấy giờ rất tráng ca, rất “xà nu” chăng ?,… Tôi không nhớ và biết rõ.

Nhưng vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, dã có không gian ba chiều. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí, và không gian ấy”.

Chính vì xà nu mang ý nghĩa một biểu tượng nên sự miêu tả về loài cây ở đây luôn luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống và số phận cùng phẩm cách của con người – dân làng Xô Man. Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”.

Cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc : “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Nhưng xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi : “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu.

Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai; Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình, thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, rồi những bé Heng thế hệ tiếp theo của Dít, cũng đang lớn lên tiếp bước các lớp cha anh.

Thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người cũng còn được thể hiện ngay khi miêu tả nước, tác giả thường dùng cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn” ; vết thương trên lưng Tnú do dao giặc chém thì “ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu”.

Thủ pháp nghệ thuật “ứng chiếu” này trong miêu tả tạo nên một sự chuyển hoá, hoà nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một bản hợp ca đầy chất thơ hào hùng, tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự do.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 10

Mỗi nhà văn, dường như đều có một vùng quê sáng tác. Đối với Nguyên Ngọc, Tây Nguyên hùng vĩ núi non. Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng chính là vùng đất mà ông gắn bó, trăn trở trong sáng tác của mình. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông bám trụ ở Tây Nguyên để rồi viết nên tiểu thuyết Đất nước đứng lên.

Những năm đánh Mĩ, Nguyên Ngọc lại trở về với vùng gian khổ này từ đầu những năm sáu mươi, ngay sau những ngày đồng khởi cách mạng miền Nam. Cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi lòng cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.

Rừng xu nu chỉ là một truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực của nó là lớn lao. Đó là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường.

Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà nu quanh làng Xô Man của người Strá. Một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó.

“Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình. Ở những vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại. và đặc quệnh thành từng cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang ngực lại bị đại bác chặt đứt làm đôi, năm mười hôm thì cây chết.

Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng. Chúng vươn rất nhanh, thay thế những cày đã ngã. Cứ thể hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”.

Nguyên Ngọc miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ.

Bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.

Tái hiện chân thực cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.

Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Cậu bé Tnú đến với cách mạng ngay từ những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.

Ngày Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống ở đời qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Dũng cảm, mưu trí, lanh lợi là phẩm chất tốt đẹp của Tnú, “nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả đường nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xẻ rừng mà đi, lọt tất cả vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”.

Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn em về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: Cộng sản ở đây này”. Đó không phải là câu trả lời mà là một lời thách thức, dũng cảm ! Với lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.

Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… ” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó.

Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh. Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Dác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con.

Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù.

Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh…

Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn. Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắk Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là thằng Dục cả”.

Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.

Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dit “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ.

Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách lượt từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.

Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”.

Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.

Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng của người Strá.

Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man. Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quắc thước như xưa… ngực cũng như một tấm xà nu lớn… tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.

Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên!

Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.

Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.

Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”.

Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.

Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tưởng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ.

Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.

Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tố chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.

Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.

Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh tụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.

Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.

Trên những trang viết của mình, Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ.

Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Rừng xà nu là chuyện của con người nhưng qua đó ta thấy số phận của một dân tộc. Từ câu chuyện của Tnú và của làng Xô Man, tác già nói tới sự trưởng thành của cách mạng miền Nam trong những ngày trước và sau đồng khởi. Đọc Rừng xà nu hôm nay, vẫn thấy âm vang cái hào hùng của một thời chống Mĩ, một thời có những con người đẹp như cụ Mết, như Tnú, như Dít, như Mai.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 11

Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành chấp bút vào năm 1965 khi đế quốc Mĩ xâm lược miền Nam nước ta. Tác phẩm là câu chuyện về mảnh đất anh hùng, con người Tây Nguyên anh hùng. Vả nổi bật nhất trong tập thể anh hùng đó ta không thể không nhắc đến nhân vật Tnú.

Tnú là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những vẻ đẹp phẩm chất và tính cách của con người Tây Nguyên. Ở nhân vật này vừa có những nét chung nhưng đồng thời lại có những đường nét hết sức khu biệt, tạo nên một chân dung anh hùng hoàn hảo. Nhân vật Tnú được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những nét độc đáo, giàu tình chất sử thi.

Tính sử thi đó được biểu hiện rõ nhất trong cuộc đời anh. Cuộc đời anh nhìn qua tưởng đó là cuộc đời riêng nhưng kì thực lại là đại diện cho số phận của cộng đồng. Cuộc đời Tnú gắn với những sự kiện lớn của cộng đời, từ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất và số phận nhân dân Tây Nguyên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Vẻ đẹp đầu tiên có thể nhận thấy ở nhân vật này chính là sự kiên cường, gan góc, dũng cảm. Điều này là bản chất, ăn sâu trong cốt cách của Tnú. Ngay từ tấm bé bản chất này của anh đã dần dần được bộc lộ. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng Tnú đã dũng cảm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Hàng ngày chuyển thư liên lạc. Trong quá trình đi liên lạc, Tnú thường “xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt” bởi những con đường đó mới an toàn, tin tức mới không bị kẻ thù bắt được.

Tnú và Mai cùng học với nhau, nhưng Tnú học chữ chậm, cảm thấy vô cùng tức giận với bản thân, đã lấy đá đập vào đầu đến nỗi chảy mà ròng ròng. Ngay cả khi bị giặc bắt, giặc tra tấn, sự kiên cường đó vẫn không hề thuyên giảm, anh quyết không khai, mà chỉ vào bụng mình mà nói “cộng sản ở đây”. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng khí chất kiên trung, dũng cảm của con người ấy đã được bộc lộ từ khi còn rất nhỏ.

Những biến cố trong cuộc sống, dần dà lớn lớn, sự dũng cảm trong Tnú cũng ngày càng được biểu lộ rõ hơn. Khi vợ con bị tra tấn, hành hạ, lòng Tnú đau như cắt, và đến giây phút cuối cùng không thể nhẫn nhịn được nữa, Tnú đã đi ra để cứu hai mẹ con. Tay của Tnú bị đốt cháy bùng bùng, nhưng anh không hề cảm thấy đau đớn, không hề kêu than. Ấy chính là sự gan dạ, dũng cảm và kiên cường của Tnú.

Không chỉ vậy, anh cũng là người hết sức kỉ luật. Thời gian nghỉ phép ít ỏi, chỉ có một ngày, nhưng anh vẫn hết sức thu xếp công việc trở về thăm bản làng, thăm mọi người. Và sáng sớm ngày hôm sau Tnú từ biệt mọi người lên đường. Anh là người tôn trọng kỉ luật của đơn vị, chấp hành kỷ luật của buôn làng. Ý chí kiên cường, hết lòng hi sinh vì sự nghiệp lớn đã giúp anh chiến thắng sự mềm yếu trong lòng, để hướng đến một sự nghiệp lớn hơn.

Ngoài ra, Tnú còn là người biết vượt lên những đau khổ, bi kịch của cá nhân để sống một cuộc đời tốt đẹp, có ý nghĩa hơn. Trong cuộc đời Tnú đau đớn nhất không phải là giây phút không học được chữ, đập đầu vào đá, cũng không phải là giây phút bị giặc bắt và truy hỏi. Mà đau đớn nhất là khi thấy vợ con mình bị hành hạ mà bất lực không thể làm gì khác.

Nhìn cảnh Mai vì che chắn cho đứa con mà không biết bao lần phải chịu đòn roi của kẻ thù, có lẽ long Tnú đau thắt lại và nhất là khi đứa con bé bỏng, vô tội của anh bị đánh, chết ngất đi. Đến lúc này nỗi đau đớn, sự căm thù đã dồn nén bấy lâu bùng phát dữ dội.

Không chỉ vợ con, mà chính anh cũng là nạn nhân của những đòn tra tấn dã man đó. Chúng quấn dẻ và nhựa vào mười đầu ngón tay anh, đốt cháy như một ngọn đuốc. Nhưng dù bị đốt cháy, dù gia đình li tán nhưng Tnú vẫn kiên cường vượt qua mọi mất mát, thương tổn. Dùng khả năng của bản thân đi bộ đội, để giết giặc trả thù cho bản thân, cho gia đình, lớn hơn là cho những người bỏ mạng dưới sự độc ác của kẻ thù. Nếu không phải là người có nghị lực, bản lĩnh thì có lẽ đã suy sụp mà không sống nổi.

Ngoài ra anh còn là một con người giàu tình nghĩa. Những ngày còn nhỏ, anh hết lòng với cách mạng, gắn bó và nghe lời anh Quyết. Anh chăm chỉ học hành cũng chỉ bởi một câu anh Quyết nói “không học chữ làm sao làm được cán bộ giỏi”. Chỉ với câu nói đó thôi nhưng đã truyền bao sức mạnh cho anh.

Khi nhìn vợ con bị ành hạ, dù không cứu được nhưng Tnú vẫn anh dũng xông ra, để đánh giặc, đây chính là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc. Không chỉ vậy, anh là một đứa trẻ mồ côi, được dân làng nuôi lớn, bởi vậy ngày nghỉ phép tuy ngắn ngủi nhưng Tnú vẫn tranh thủ về thăm buôn làng, thăm mọi người.

Tnú là kết tinh nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Nhân vật được xây dựng trên khung nền sử thi kì vĩ. Bởi vậy nhân vật cũng chính là đại diện cho số phận của cộng đồng. Tuy mang nhưng bản thân Tnú vẫn có những nét khu biệt, chính điều đó đã đem lại sự mới mẻ cho hình tượng và sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 12

Bài phân tích hình ảnh rừng xà nu lớp 12 sẽ giúp các em học sinh ôn tập tác phẩm và chuẩn bị tốt cho kỳ thi sắp tới.

Truyện “Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ mà cụ thể là hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên.

Nhà văn đã chọn một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.

Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu. Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, gần hai mươi lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu.

Hình tượng cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng, nó nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất. Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (bốn lần), “rừng xà nu” (năm lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.

“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc… Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa úa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”.

Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt của dân làng. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.

Nhưng hình tượng cây xà nu cũng tượng trưng cho sức sống dẻo dai, mãnh liệt của dân làng Xô Man, của con người Tây Nguyên. “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Chúng phóng lên rất nhanh để đón lấy ánh sáng…”

“Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê”. Rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho con người. “Đặt trong hệ thống chủ đề, trong mạch truyện, những cây xà nu này mang tính biểu tượng cho những Tnú, Mai, Dít, bé Heng… thế hệ trẻ của làng Xô Man bất khuất, gắn bó với cách mạng”.

Chỉ đơn giản một chi tiết này, thấy cây xà nu giống người biết mấy! Nhưng cũng có những cây vượt lên đựơc đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng”.

Hình ảnh đó giống Tnú biết bao, Tnú bị bọn giặc chém nhiều nhát sau lưng, trên tấm lưng chưa rộng bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại đó ứa một vệt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quện, tím thẫm như “nhựa xà nu”. Nhưng sau khi ở tù vượt ngục trở về, những vết thương đã lành lặn, Tnú khoẻ mạnh, cường tráng, rồi trở thành một chiến sĩ kiên cường.

Cái chết của những cây xà nu giống cái chết của mẹ con Mai . “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng; vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”.

Và đây, Dít giống một cây xà nu non lao thẳng lên trời bất khuất. Dít nhỏ như lanh lẹ, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra từng cho cụ Mết và thanh niên. Chúng bắt đựơc con bé. Chúng để con bé đứng ở giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một.

Không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, váy nó rách tượt từng mảng. Nó khóc thét lên, nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó nó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng.

Hình ảnh những cây xà nu vững chắc, không chịu ngã trước giông bão, bom đạn của kẻ thù “ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho làng” gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh cụ Mết, con người tiêu biểu cho sức sống quật khởi của làng Xô Man, người nuôi giữ ngọn lửa khát vọng tự do, gắn bó với Đảng.

Chính cụ Mết cũng đã nói với Tnú: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta…” Cụ còn nói với dân làng: “Nghe rõ chưa các con, rõ chưa Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại với con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.

Và khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ, nguyên nhân trực tiếp chính là do ngọn lửa xà nu cháy trên mười đầu ngón tay Tnú. Cả làng Xô Man bị kích động, những ngọn đuốc xà nu bùng cháy khắp rừng “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…”

Viết về Tây Nguyên, Nguyễn Trung Thành muốn gắn chặt đất nước với con người. Viết về anh hùng Đinh Núp, tác giả gọi tên tiểu thuyết của mình là “Đất nước đứng lên”. Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 13

Những năm tháng hoạt động ở Tây Nguyên đã cho Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành vốn hiểu biết sâu sắc về vùng đất này. Đọc các trang viết của từ Đất nước đứng lên, Rẻo cao đến Rừng xà nu, ta có cảm giác ông là người con của núi rừng Tây Nguyên. Nếu trong Đất nước đứng lên ông chọn anh hùng Núp và dân làng Kông Hoa làm tâm điểm cho câu chuyện thì đến Rừng xà nu ông cũng chọn một địa chỉ xác định: Dân làng Xô man – xứ sở của những cây xà nu làm bối cảnh cho câu chuyện.

Cây xà nu và dân làng Xô man như hình với bóng, gắn bó mật thiết. Người Xô man sinh ra dưới bóng xà nu, lớn lên, làm lụng, hò hẹn dưới bóng xà nu, đến lúc qua đời cũng nằm dưới bóng cây thân thuộc ấy. Có thể nói hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành chính là biểu tượng của con người Xô man.

Nếu chúng ta thống kê đầy đủ thì hình ảnh Xà Nu với những biến thể của đã xuất hiện trong câu chuyện này không dưới hai mươi lần. Với số lần hiện như vậy, hình tượng này đã thấm sâu vào nội dung câu chuyện, thâm nhập đan xen vào đời sống của các nhân vật trong truyện.

Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì cây Xà Nu mới chỉ là một hình ảnh chứ chưa phải là biểu tượng. Muốn biến một hình ảnh thành một biểu tượng, nhà văn cần phải mô tả theo lối tượng trưng hóa. Và Nguyễn Trung Thành đã hoàn thành công việc một cách hoàn hảo.

Nguyễn Trung Thành đã sử dụng rộng rãi thủ pháp nhân cách hóa. Nghĩa là ông đã mô tả cây xà nu như con người. Chúng ta thấy ở đây những “thân hình Xà Nu”, “nhựa Xà Nu như những cục máu lớn”, “rừng xà nu ưỡn tấm ngực của mình ra che chở cho làng”… Nhờ đó mà rừng Xà Nu cũng hiện ra như một nhân vật của câu chuyện.

Thực ra lối viết này không phải hoàn toàn mới mẻ. Điều đáng nói hơn là ở chỗ Nguyễn Trung Thành đã biến rừng Xà Nu thành một hệ thống hình ảnh, được mô tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật. Rừng Xà Nu hiện ra với ba lứa cây chính: lứa những cây già, lứa những cây trẻ và lứa những cây non.

Chúng lại hiện ra với những cảnh ngộ và thân phận tương ứng với con người: có những cây bị phạt ngang thân mình, có những cây mình đầy thương tích, nhưng không bom đạn nào có thể làm cho nó gục ngã, lại có những cây non mới mọc ra nhưng đã đâm lên khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê. Ba lứa cây Xà Nu, ba loại thân phận Xà Nu tương ứng với ba thế hệ người Xô Man được mô tả trong câu chuyện.

Trước hết, đó là thế hệ những người già như cụ Mết. Cụ Mết tiêu biểu cho những người già, những người từng trải có sức sống bền bỉ dẻo dai như chính Tây Nguyên kiên cường gan góc. Tiếp theo cụ Mết là thế hệ thanh niên mà tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít. Họ là những con người cường tráng, vạm vỡ mang trong mình sức sống mạnh mẽ của làng. Tuổi trẻ của họ đang được thử thách, tôi luyện, dạn dày trong đấu tranh và bom đạn.

Nhưng, vượt lên tất cả, họ vẫn kiên cường trụ vững như những cây xà nu, những con chim đại bàng đã đủ lông mao, lông vũ bay thẳng lên bầu trời. Và cuối cùng là thế hệ thiếu niên như thằng bé Heng. Những đứa trẻ này vừa mới sinh ra mà đã cứng cỏi, gan góc, đã tạc mình theo hình ảnh của thế hệ cha anh. Ba thế hệ người Xô Man được mô tả rất tự nhiên tạo nên một hình tượng tập thể, thành một khối đoàn kết, gắn bó, trụ vững từ nghìn đời nay.

Nếu ở Rừng Xà nu người ta thấy sức sống của Xà Nu là bất diệt, dòng nhựa Xà Nu được truyền lại nguyên vẹn từ những cây cổ thụ đến những cây non, thì ở những con người Xô Man người ta cũng thấy dòng máu Tây Nguyên cũng được truyền lại trọn vẹn từ lồng ngực những thế hệ già sang trái tim những thế hệ trẻ. Nó giúp cho tác giả Nguyễn Trung Thành khẳng định một chân lý: sức sống của Tây Nguyên là bất diệt Và chân lý ấy đã trở thành triết lý của bản thân câu chuyện này.

Nguyễn Trung Thành đã gửi gắm điều đó vào lời nói của cụ Mết. Phải, chi có cụ Mết, chỉ có cây Xà Nu cổ thụ ấy mới có toàn quyền để phát ngôn cho sức mạnh của Xà Nu: “Không cây nào mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết được hết rừng Xà Nu này”.

Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất tề đứng lên khởi nghĩa, thì cũng được Nguyễn Trung Thành mô tả như sự nổi giận của rừng già, như sự nổi dậy của những cánh rừng Xà Nu: “Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…”.

Để biến hình tượng Xà Nu thành một biểu tượng nghệ thuật trọn vẹn. Nguyễn Trung Thành còn sử dụng một kết câu rất hợp lí, đó là kết cấu vòng tròn mang tính luân hồi. Câu chuyện mở ra bằng hình ảnh rừng Xà Nu được đặc tả khá kỹ lưỡng và sắc nét.

Cuối cùng Nguyễn Trung Thành lại cũng dùng hình ảnh rừng Xà Nu để khép lại câu chuyện. Đây là lối kết câu vừa đóng vừa mở, nó khép lại câu chuyện này để mở ra một câu chuyện khác. Khiến cho người đọc có cảm tưởng rằng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô Man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

Người Tây Nguyên hôm nay đang viết tiếp bản anh hùng ca muôn thuở của mình. Kỳ tích anh hùng của Tnú chỉ là sự tiếp tục của những gì mà Đăm San và Xing Nhã đã làm thuở xưa. Và nó hứa hẹn rằng những kỳ tích anh hùng ấy còn được viết tiếp bởi những anh hùng trong thế hệ mới của Dít và Heng.

Mặt khác người ta thấy với lối kết cấu này, câu chuyện con mở ra cả trong không gian. Sức mạnh quật cường của con người không chỉ bó hẹp ở làng Xô Man mà còn mở rộng ra cả Tây Nguyên, mở rộng ra mãi ra mãi như là sức mạnh của cả dân tộc này: Đứng ở đồi xà nu cạnh con nước lớn, nhìn “đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.

Hình tượng cây xà nu trong tác phẩm của Nguyễn Trung Thành vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là một sáng tạo độc đáo của nhà văn – cây xà nu chính là sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên và cũng là một hình tượng nghệ thuật bất lử trong văn học kháng chiến chống Mỹ.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 14

Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông viết rất hay, sâu sắc và chân thực về con người và mảnh đất Tây Nguyên hung vĩ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn TRung Thành khi ca ngợi về Tây Nguyên đậm chất sử thi. Đặc biệt tác giả đã xây dựng thành công hình tượng cây xà nu mang đậm bản chất, chí khí cho con người sống trên mảnh đất này.

Xuyên suốt tác phẩm “Rừng xà nu” là hình ảnh cây xà nu, có thể xem đây là hình tượng trung tâm, làm nền và cũng là nguồn cảm hứng bất tận để tác giả có thể miêu tả thành công từng nhân vật. Xà nu là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dao, kiên cường và bất khuất. Nhắc đến rừng xà nu, người ta sẽ liên tưởng đến những con người Tây Nguyên bất khuất, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ độc lập.

Hình ảnh cây xà nu được tác giả lấy để đặt tên cho nhan đề, mở đầu câu chuyện và kết thúc cũng là hình ảnh xà nu bạt ngàn. KHông phải ngẫu nhiên mà tác giả lại lấy hình tượng này, đó hẳn là dụng ý của chính tác giả. Vừa thể hiện sự hung vĩ của thiên nhiên Tây Nguyên, vừa khẳng định ý chí quật cường của con người mảnh đất Tây Nguyên.

Trước hết, cây xà nu chính là một biểu tượng của núi rừng Tây Nguyên, gắn liền với cuộc sống của Tây Nguyên. Cây xà nu gắn liền với đời sống của dân làng Xô man, sự trưởng thành của từng thế hệ người Tây Nguyên đều gắn liền với hình ảnh cao quý này.

Đó là Tnu, chị Mai, cụ Mết, bé Heng. Những con người đó, để bảo vệ lây dân làng, bảo vệ Tây Nguyên đã phải đánh đổi và hi sinh rất nhiều. Xà nu là loại cây mọc thẳng, vươn ra ánh sang, cũng giống như con người Tây Nguyên vẫn luôn hướng về phía trước, dù là khó khan, thử thách như thế nào. Dường như xà nu chính là linh hồn của Tây Nguyên, nó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người.

Không những thế cây xà nu còn tham gia đánh dấu nhiều sự kiện lịch sử của dân làng Xô man. Ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho dân làng tây nguyên, mười ngón tay của Tnu bị đốt cũng được tẩm nhựa của xà nu. Cây xà nu ăn sâu vào trong tâm niệm của mỗi con người, biểu tượng cho tinh thần và ý chí quật cường của người Tây Nguyên. Cây xà nu vẫn được nhắc đi nhắc lại trong mỗi câu chuyện “không có gì mạnh bằng cây xà nu”, mặc dù bị thiêu rụi bao nhiêu thì cây xà nu vẫn kiên cường vượt qua bão giông.

Xà nu là hình ảnh ẩn dụ cho con người Tây Nguyên. Hình ảnh cả rừng xà nu bị nã đạn, chat rụi cũng giống như hình ảnh dân làng Xô man bị áp bức, bóc lột đến tàn bạo. Sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối tiếp, không chịu nguôi. Mặc dù bị đạn phá hủy nhưng cây xà nu vẫn kiên cường, chịu đựng; giống như hình ảnh Mai, Tnu mặc dù bị tra tấn nhưng bằng sức sống bền bỉ vẫn có thê gắng gượng và chiến đấu đến cùng.

Xà nu và những người dân Tây Nguyên dường như có mối giao hòa với nhau, gắn bó khăng khít không rời. Đây cũng chính là dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng có sức nặng như thế này. Con người Tây Nguyên có khát vọng hòa bình, muốn cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tác giả đã gửi gắm khát khao ấy qua hình tượng xà nu bạt ngàn, trải dài đến vô tận.

Xà nu là loại cây sinh trưởng tốt, sức bền bỉ, dẻo dai. Con người Tây Nguyên có bao nhiêu thế hệ đã ngã xuống, những thế hệ khác lại nối tiếp, phát huy tinh thần chiến đấu. Những thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnu và cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có những khát khao cháy bỏng về tương lai tương lai.

Chắc chắn người đọc sẽ chú ý đến hình ảnh nhân vật Tnu. Cây xà nu và Tnu là hai hình ảnh song song, đi liền nhau để hỗ trợ cho nhau, làm nổi bật nhau. Đặc điểm tiêu biểu của xà nu cũng chính là những đặc điểm của nhân vật Tnu mà không hề lẫn lộn với ai.

Nguyễn Trung Thành bằng tình yêu Tây Nguyên, quan sát tinh tế đã khắc họa thành công hình ảnh cây xà nu có sức ám ảnh đối với người đọc từ đầu tác phẩm đến cuối tác phẩm. Xà nu khiến cho mọi người có cái nhìn ngưỡng mộ đố với mảnh đất và con người tây nguyên.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 15

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Chẳng biết từ bao giờ, mảnh đất xứ người đã trở thành quê hương thứ hai của bao người xa quê. Quang Dũng đã từng lưu luyến với mảnh đất Tây Bắc với những con người nồng hậu, Tố Hữu cũng vấn vương trước cuộc chia tay lưu luyến với người dân Việt Bắc. Và đến với Nguyễn Trung Thành, ta lại thấy một cảm giác gắn bó máu thịt của ông với mảnh đất Tây Nguyên anh hùng.

Đọc “Rừng xà nu”, ta không chỉ thấy tình cảm sâu đậm của ông với con người Tây Nguyên mà còn thấy sự gắn bó và tình yêu của ông với núi rừng. Có lẽ cũng vì lẽ ấy mà chi tiết mở đầu tác phẩm “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” như một bức tranh thu nhỏ cứ vấn vương mãi trong lòng người đọc.

Nguyễn Trung Thành sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam. Những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên để rồi từ đó, những tác phẩm có tiếng vang ra đời như tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”, tập truyện và kí “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.

“Rừng xà nu” được viết năm 1965, là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyên Ngọc viết trong những năm tháng chống đế quốc Mĩ. Tác phẩm là câu chuyện về con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng bên cạnh đó là hình ảnh những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận mà hai chi tiết trên đã góp phần thể hiện rõ điều đó.

Trước hết ta cần hiểu “chi tiết” là những tiểu tiết có trong tác phẩm thể hiện tư tưởng của truyện. Chi tiết cũng có thể là những yếu tố nhỏ của tác phẩm nhưng thể hiện được tính cách của nhân vật, bản chất của vấn đề.

Chi tiết có thể xuất hiện trong thơ hoặc văn xuôi bao gồm chi tiết miêu tả thiên nhiên, miêu tả không gian, chi tiết miêu tả tính cách, diễn biến nội tâm của nhân vật… góp phần quan trọng thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chi tiết mở đầu trong tác phẩm “Rừng xà nu” có nội dung là miêu tả vẻ đẹp bất tận của cánh rừng xà nu.

Mở đầu tác phẩm là bức tranh miêu tả cánh rừng xà nu giữa mưa bom bão đạn vẫn có sức sống kiên cường mạnh mẽ “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nguyễn Trung Thành đã nói về sức sống ấy bằng một chi tiết có sức khái quát cao “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.”

Trong bức tranh ấy có cả cái đau thương của “những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”, có cả “những cây vừa lớn ngang tầm ngực người đã bị đại bác chặt đứt làm đôi”. Nhưng ở đó lại có cả những cây với “những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng” và những cây mới mọc “ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”.

Những đồi xà nu nối tiếp chạy đến chân trời ấy mở ra một khoảng không gian rộng lớn với những cánh rừng xà nu cứ liên tiếp nhau trải dài. Trong thực tế cây xà nu có sức sống mãnh liệt và thường mọc thành rừng nên với Nguyễn Trung Thành, cho dù bom đạn có dội xuống, có tàn phá thì những cây xà nu ấy cứ mãi vươn lên, có sức sống dẻo dai, mãnh liệt.

Chi tiết rừng xà nu được đặt ở đầu và cuối tác phẩm tạo nên một kết cấu chặt chẽ, đầu cuối tương ứng. Kiểu kết cấu này ta cũng đã từng bắt gặp trong “Chí Phèo” của Nam Cao. Nếu như trong “Chí Phèo” hình ảnh về một lò gạch bỏ hoang gợi ra nhiều ám ảnh day dứt người đọc về sự quẩn quanh bế tắc của người nông dân thì hai chi tiết trong tác phẩm “Rừng xà nu” lại mang đầy sức gợi mở.

Đầu tác phẩm rừng xà nu gợi ra câu chuyện của cuộc đời, con người trong chiến đấu, kết thúc tác phẩm rừng xà nu kết lại câu chuyện nhưng là kết lại đau thương và mở ra khung cảnh mới- khung cảnh ngập tràn sắc xanh của sức sống bất diệt.

Hình tượng rừng xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm góp phần khắc họa hình tượng rừng xà nu xuyên suốt tác phẩm. Trước hết nó mang nét đặc trưng của con người Tây Nguyên, gắn bó với đời sống của dân làng, nó có mặt trong mọi sinh hoạt hàng ngày, có mặt trong công cuộc chiến đấu.

Đó còn là hình ảnh biểu tượng cho những đau thương mất mát cũng như sức sống kiên cường của con người Tây Nguyên. Chi tiết cuối của tác phẩm đã mang ý nghĩa khái quát sâu xa hơn, như một khúc vĩ thanh ca ngợi vẻ đẹp bất tận, sức sống bất diệt của cả thiên nhiên và con người giống như:

“Một cây đổ cả rừng cây lại mọc
Người với người đã mấy vạn mùa xuân.”
Nguyễn Trung Thành.

Một ý nghĩa khác mà chi tiết mang lại trong tác phẩm là không khí Tây Nguyên đậm đà. Hình ảnh cây xà nu ấy đã mang lại nét đặc trưng riêng cho mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nói đến mỗi vùng đất, ta thường nghĩ ngay đến những nét riêng. Những người dân ở Phú Thọ người ta thường tự hào về cây cọ “xòe ô che nắng” ở quê mình, người dân Bến Tre thì tự hào bởi những trái dừa mát lịm thì với người dân Tây Nguyên, bên cạnh cây Kơnia, người ta còn nhắc đến những cánh rừng xà nu xanh tốt.

Cây xà nu mang đậm phong vị Tây Nguyên nó cứ hiện lên trên trang văn của Nguyễn Trung Thành ngày càng rõ nét, chân thực như mang chính hơi thở của mảnh đất này.

Như vậy, mở đầu là hình ảnh cây xà nu trong bom đạn nhưng bạt ngàn màu xanh bất diệt đã gửi đến cho người đọc một ấn tượng sâu đậm về khung cảnh rừng xà nu bạt ngàn bất tận. Hơn mười lần hình ảnh cây xà nu được nhắc đến trong tác phẩm đủ để minh chứng mối quan hệ mật thiết giữa rừng xà nu và cuộc sống con người. Phải chăng tình cảm mà tác giả gửi gắm qua hình ảnh cây xà nu cũng chính là niềm tự hào về vẻ đẹp thiên nhiên và con người Tây Nguyên?

Viết về cánh rừng xà nu nói chung với hai chi tiết này nói riêng, Nguyễn Trung thành đã sử dụng bút pháp của khuynh hướng sử thi. Nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trên mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nó gợi ra vẻ đẹp của những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận.

“Rừng xà nu” là một thiên truyện mang ý nghĩa của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng, của con người và truyền thống văn hóa Tây Nguyên.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý: Người cầm bút có biệt tài, có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc với một vài diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại. Phải chăng Nguyễn Trung Thành cũng đã tìm thấy cái khoảnh khắc ý nghĩa ấy khi ông miêu tả những cánh rừng xà nu cứ mãi nối tiếp nhau chạy đến chân trời.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 16

Nguyễn Trung Thành là bút danh của nhà văn Nguyên Ngọc trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Truyện Rừng xà nu của ông viết vào năm 1965, là một truyện ngắn xuất sắc.

Truyện kể về cuộc “đồng khởi” của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Cụ Mết, một già làng, một thủ lĩnh quân sự đã lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo, mác, dụ, rựa… quật khởi đứng lén đánh lũ ác ôn, tay sai của đế quốc Mĩ để giải phóng buôn làng và núi rừng thiêng liêng. Họ đã chiến đấu vì sự sống còn, vì chân lí cách mạng ngời chói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.

Ngoài những nhân vật cho ta nhiều ấn tượng như cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, bé Heng, anh Quyết,… thì hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn được tác giả khắc họa và ngợi ca như một dũng sĩ oai hùng.

Ngày ấy… cách mạng miền Nam đang trải qua những năm dài đen tối, đầy thử thách khó khăn. Lũ giặc kéo tới, lùng sục, phục kích, không đêm nào chó và súng của chúng không sủa vang cả rừng. Buôn làng bị bao vây, dân làng bị kìm kẹp và khủng bố dã man. Đầu rơi máu chảy, tang tóc và đau thương: giặc treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng; chúng giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng!

Cùng chung số phận, chung chịu đau thương với dân làng Xô Man là rừng xà nu nằm trong tầm đại bác của giặc. Chúng bắn ngày, bắn đêm, bắn vào lúc sáng sớm và xế chiều, hoặc lúc đứng bóng và sẩm tối, hoặc lúc nửa đêm và trở gà gáy. Tang tóc bao trùm rừng xà nu.

Hàng vạn cây “không cây nào không bị thương”. Đạn giặc chặt đứt ngang thân mình, “cây xà nu đổ ào ào như một trận bão”: nhựa cây đọng lại, tụ lại “bầm lại đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”. Rừng xà nu chịu bao tổn thất nặng nề như con người. Biết bao cây non trúng đạn giặc, vết thương “cứ loét mãi ra” sau năm, mười hôm thì cây chết!

Gần 20 lần, nhà văn nói đến rừng xà nu, đồi xà nu, cây xà nu, cành xà nu, ngọn và lá xà nu, nhựa xà nu, khói và lửa đuốc xà nu,… mỗi lẩn xuất hiện, cây xà nu mang một dáng vẻ kì lạ, tất cả đều mang ý nghĩa tượng trưng cho khí phách anh hùng và sức sổng mãnh liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất!

Người Strá đã hiên ngang trong lửa đạn, người trước ngã, người sau tiến lên. Rừng xà nu cũng vậy, cạnh một cây bị bắn ngã gục đã có bốn, năm cây mọc lên, sinh sôi này nở “ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Nếu như cây Kơnia có bóng cây tỏa rợp nương rẫy và lòng người biểu tượng cho sự thủy chung tình nghĩa, thì cây xà nu là một loại cây “ham ánh sáng mặt trời”, hương cây nhựa cây “bay ra thơm mỡ màng”.

Ba lần Nguyễn Trung Thành tạo nên những hình ảnh so sánh độc đáo, kì vĩ ca ngợi tầm vóc cây xà nu: lúc thi ngọn cây như một mũi tên lao thẳng lên bầu trời, lúc thì những cây con xà nu mới nhú khỏi mặt đất “nhọn hoắt như những mũi lê”, lúc thì rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Rõ ràng hình tượng cây xà nu mang tầm vóc và khí phách của một dũng sĩ đích thực trong máu lửa.

Hình tượng rừng xà nu đem đến cho ta nhiều liên tưởng sâu sắc về thế trận chiến tranh nhân dân, về người người lớp lớp, về biểu tượng “một rừng cây, một rừng người”, về sự hi sinh và đóng góp xương máu cùa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong kháng chiến.

Chính vì thế mà trong lúc gặp lại Tnú, cụ Mết đã hào hùng khẳng định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức: “Mày có đi qua chỗ rưng xà nu gần con nước lớn không?” Nó vẫn sống đấy, không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!”.

Nét đặc sắc của truyện ngắn Rừng xà nu là nghệ thuật tả cảnh, tả người rất độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, không chỉ là cảnh tượng chiến trường bi tráng, mà còn là biểu tượng cho chí khí anh hùng của đồng bào Tây Nguyên, của nhân dân miền Nam anh hùng. Cụ Mết chẳng khác nào dũng sĩ trong sử thi “Bài ca chàng Đam San!” Là một già làng 60 tuổi, quắc thước, râu dài tới ngực mắt sáng, vết sẹo của chiến tích sáng bóng, cụ Mết ở trần “ngực căng như một cây xà nu lớn”.

Nếu như nhà thơ Thu Bồn lấy cánh chim chơ-rao. một nhà thơ khuyết danh đã lấy cây Kơnia làm biểu tượng cho lòng dân và sức mạnh quật khởi của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ thì nhà văn Nguyễn Trung Thành đã thành công khắc họa vẻ đẹp tráng lệ của rừng xà nu để nói lên khí phách anh hùng của dân làng Xô Man, của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam.

Hơi hướng Tây Nguyên, màu sắc thần kì, không khí thiêng liêng, phong vị những sinh hoạt truyền thống của núi rừng và con người Tây Nguyên được thể hiện một cách hào hùng qua hình tượng rừng xà nu vậy.

Truyện Rừng xà nu là một thành công lớn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh. Cảnh vật và con người được chiếu sáng dưới ngọn lửa thiêng liêng thần kì. Nó đã giúp người đọc sống lại một thời kì lịch sử vô cùng đau thương và oanh liệt của dân tộc.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 17

Khi nhắc đến cuộc sống và chiến đấu của người dân Nam bộ, người đọc không thể nhắc đến nhà văn Nguyễn Thi với các tác phẩm: Mẹ vắng nhà, Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình. Khi nhắc đến cuộc sống người dân Tây Bắc, người đọc lại không thể không nhắc đến nhà văn Tô Hoài với Vợ chồng A Phủ. Còn khi nhắc đến đồng bào Tây Nguyên thì ta càng phải nhớ tới nhà văn Nguyễn Trung Thành với Đất nước đứng lên và Rừng xà nu.

Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc đời cách mạng của Tnú, của cả buôn làng Xô Man. Câu chuyện có tên là Rừng xà nu bởi đây là loài cây đặc trưng của xứ này. Những cánh rừng xà nu xanh ngút ngàn trải dài suốt tầm mắt là hình ảnh trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm. Những cây xà nu được tác giả miêu tả từ cụ thể chi tiết cho đến toàn cảnh. Nó hiện lên với đầy đủ dáng dấp tính cách và ý chí kiên cường.

Đạn địch không thể đốn ngã những cây xà nu cũng như chiến tranh không thể phá hủy được nó. Những cây xà nu vẫn vươn lên xanh tốt, cây này ngã xuống những cây mới lại mọc lên, nhựa xà nu chảy như những dòng máu nóng trong một cơ thể sục sôi tinh thần dân tộc. Rừng xà nu được miêu tả cụ thể, mang đầy dáng dấp sử thi và càng làm nổi bật tính cách, số phận của những người con buôn làng Xô Man.

Những người ấy là Tnú, là Mai, cụ Mết, là Dít là bé Heng. Mỗi một nhân vật lại có những phẩm chất tính cách riêng nhưng đều hội chung lại là những con người dũng cảm, quật cường, có một tình yêu vô bờ bến đối với đất nước, với cách mạng. Tnú là một chàng trai gan dạ, lì lợm, hội tụ những phẩm chất của một người anh hùng cách mạng. Anh được giác ngộ cách mạng ngay từ nhỏ, được nuôi dưỡng bằng tình cảm với cách mạng và sự căm thù đối với quân địch.

Từ bé Tnú đã là một chú bé giao liên dũng cảm, nuôi giấu cán bộ trong rừng, luôn xông xáo làm những nhiệm vụ nguy hiểm, khi bị giặt bắt và tra tấn thì một chút cũng không khai, trái lại còn thẳng thừng thừa nhận, cách mạng đã ăn sâu vào trong con người mình.

Tnú cũng là một người yêu thương gia đình yêu thương bản làng sâu sắc. Chứng kiến vợ con bị sát hại, tra tấn anh xông tới tay không đối với địch, ánh mắt anh hằn lên vẻ căm thù, anh chịu đựng tra tấn, bị giặc đốt hai bàn tay mà quyết không khuất phục. Anh cũng gắn bó với người dân trong làng, luôn về thăm hỏi mọi người mỗi khi được nghỉ phép.

Mai, Dít là những người con gái cũng can đảm không kém Tnú. Họ giống như chị Chiến trong Những đứa con trong gia đình, sớm giác ngộ cách mạng và đi theo cách mạng. Dù là phận gái yếu đuối nhưng sự thật tinh thần và hành động của họ lại quả cảm hơn bất kỳ ai.

Mai cùng Tnú nuôi giấu cán bộ trong rừng, bị giặc tra tấn, sát hại mà quyết không khai nửa lời, Dít dù còn bé nhưng đã lì lợm, đứng trong làn đạn của giặc mà vẫn im re, mắt nhìn trâng tráo không khai một câu. Họ là thế hệ người phụ nữ mà “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” đáng ngợi ca của dân tộc.

Cụ Mết là người tuổi cao, nhiều trải nghiệm nhất, cụ nhìn thấu mọi việc bằng con mắt của một người dày dạn, một người trải qua nhiều thăng trầm đã trở nên vững vàng và bình ổn. Cụ là ngọn cờ đầu, là người chỉ huy của cả buôn làng. Cụ đứng lên kêu gọi dân làng xông tới khi chứng kiến Tnú bị tra tấn, cụ lãnh đạo người dân trong làng chiến đấu, cụ kể chuyện cho những thế hệ sau của buôn làng nghe những câu chuyện về cuộc đời Tnú. Cụ Mết chính là người giữ lửa cách mạng cho những thế hệ khác nhau của buôn làng Xô Man.

Mỗi một con người trong Rừng xà nu lại có những tính cách và số phận khác nhau nhưng họ lại vô cùng đoàn kết, rất yêu thương nhau và cùng chung nhau mối thù giặc Mỹ.

Rừng xà nu được nhận xét là câu chuyện của một đời được kể trong một đêm. Cuộc đời ấy là cuộc đời của Tnú, một con người mà từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên đều cống hiến mình cho cách mạng, anh là đại diện cho dân làng, là sự tiếp nối, phát huy đầy bản lĩnh của thế hệ trước và là tấm gương sáng chói cho những thế hệ sau. Con người Tnú là đại diện cho những thế hệ anh hùng kiên cường dũng mãnh trong kháng chiến.

Câu chuyện của anh là đại diện cho một thế hệ trẻ mà đầy hoài bão ước mơ và sức sống, dám hết mình vì lý tưởng của cách mạng. Đó cũng chính là ý nghĩa sử thi mà các nhân vật, hay chính rừng xà nu mang lại.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 18

Nguyễn Trung Thành, một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam. Ông sáng tác trên nhiều mảng, truyện ngắn, kí,… ở mảng nào cũng có những tác phẩm xuất sắc. Nhắc đến ông ta không thể không nhắc đến truyện Rừng xà nu, một tác phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, in đậm dấu ấn phong cách của ông.

Mở đầu tác phẩm, cũng như xuyên suốt câu chuyện này là hình tượng cây xà nu. Những đồi xà nu, nối tiếp nhau đến tận chân trời, mở ra một không gian mênh mông, vô tận đầy sức sống, bạt ngàn, mạnh mẽ. Bằng hình tượng cây xà nu, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp đặc trưng, kỳ thú của mảnh đất Tây Nguyên. Đồng thời cây xà nu cũng chính là biểu tượng cho dân làng Xô Man.

Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng, trong đời sống hàng ngày cho đến cả những sự kiện trọng đại. Kẻ thù tra tấn dữ dội Tnú, bằng cách tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay của anh, xà nu đã trở thành vật dụng bị kẻ thù lợi dụng để hủy hoại dân Xô Man.

Nhưng cây xà nu còn cho thấy sự thay đổi của dân làng Xô Man, từ chỗ không dám cầm vũ khí đến dám cầm vũ khí đứng lên chống lại quân giặc. Và trong đêm Tnú về thăm làng: đuốc xà nu dẫn người dân làng Xô Man trên khắp nẻo đường dồn về tập trung tại nhà Ưng, họ cầm ngọn lửa của mình để ném vào đống lửa giữa nhà, mọi người quây quần quanh đống lửa lớn để nghe cụ Mết kể về cuộc đời của anh Tnú.

Không chỉ vậy, hình ảnh cây xà nu còn là biểu tượng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên. Hình ảnh cả cánh rừng xà nu đầy thương tích, mỗi ngày giặc bắn đại bác hai lần, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho làng, hàng ngàn cây xa nu không cây nào không bị thương.

Có những cây chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, ở chỗ vết thương nhựa ứa ra… bầm lại đen, quyện thành cục máu lớn. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi,… Hình ảnh cây xà nu bị thương cũng chính là biểu tượng cho những đau thương mất mát mà dân làng Xô Man phải gánh chịu. Dân làng đem cả tính mạng mình nuôi giấu cán bộ, chịu bao hi sinh, nhưng vẫn đồng lòng bảo vệ cách mạng.

Và rừng xà nu chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất cho phẩm chất tốt đẹp của dân làng Xô Man. Không có loài cây nào khao khát ánh sáng như xà nu, chúng có sức vươn lên mạnh mẽ, giống như sức sống tiềm tàng của người dân Tây Nguyên.

Không chỉ vậy, chúng còn có sức sống bất diệt, không gì có thể tiêu diệt được. Xây dựng hình tượng cây xà nu tác giả đã gián tiếp nói lên những phẩm chất anh hùng, cốt cách đẹp đẽ của con người Tây Nguyên, đồng thời cũng hé mở cánh cửa bước vào thế giới và khám phá con người nơi đây.

Nổi bật nhất trong tác phẩm là nhân vật Tnú hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của con người Tây Nguyên. Ngay từ bé, Tnú đã tỏ ra là một cậu bé hết sức dũng cảm, cậu nuôi giấu cán bộ, sẵn sàng cầm đá đập vào đầu khi không học được. Khi làm nhiệm vụ cậu không đi đường bằng phẳng mà tìm những con đường rừng, lội qua thác mạnh, để địch không bắt được.

Khi trưởng thành, đã là một chiến sĩ cách mạng, sự gan góc, dũng cảm càng được bộc lộ rõ hơn. Bị bắt giam, Tnú vượt ngục trở về, khi vợ con bị đe dọa tính mạng, Tnú sẵn sàng xông vào cứu vợ con. Và dù bị giặc tra tấn, Tnú không hề van xin, mà chịu đựng đau đớn cho đến cùng.

Không chỉ vậy, Tnú còn là một người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã có tình yêu và niềm tin với cách mạng, cậu nuôi giấu cán bộ và mang trong mình mong muốn được trở thành chiến sĩ cách mạng để giải phóng bản làng. Tính kỉ luật của Tnú còn được thể hiện rõ trong việc tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, được nghỉ phép cậu chỉ về thăm làng đúng một đêm, sau đó ra đi ngay, dù trong lòng còn biết bao lưu luyến, bịn rịn.

Nhưng bên trong một con người có vẻ bề ngoài sắt đá, có tính kỉ luật cao như vậy là lại người có trái tim yêu thương nồng nàn. Tình yêu đó được thể hiện trước hết là với buôn làng, Tnú lớn lên trong sự săn sóc của dân làng, bởi vậy Tnú coi mọi người như người thân của mình. Cũng chính vì vậy, dù thời gian nghỉ phép vô cùng ngắn ngủi Tnú vẫn háo hức trở về, xúc động khi được gặp lại mọi người và được ở trong vòng tay thân thương của những người cùng bản làng.

Trái tim yêu thương đó càng được thể hiện rõ hơn với vợ con của anh. Khi Mai sinh con, anh không thể đi mua vải được anh đã xé đôi tấm đồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Và trong khoảnh khắc, nhìn thấy vợ con bị tra tấn dã man, không thể xông vào cứu, Tnú đau đớn đến tột cùng. Nhưng cuối cùng tình yêu thương vợ con vượt lên trên tất cả, tình cảm đã lấn át lí trí, Tnú đã lao vào cứu vợ con dù biết chắc mình có thể sẽ phải hi sinh. Bởi anh hiểu rằng, khi ấy vợ con cần anh biết nhường nào.

Tình yêu thương càng nồng nàn thì lòng căm thù giặc càng sục sôi, sâu sắc. Tnú mang trong mình ba mối thú lớn: mối thù đầu tiên là với bản thân, sau lần bị giặc tra tấn, mỗi ngón tay đều cụt một đốt, lòng căm thù giặc trong Tnú càng trở nên sâu sắc hơn.

Nhưng mối thù của bản thân vẫn không bằng mối thù của gia đình, vợ con anh – những người mà anh yêu thương nhất đã bị giặc tra tấn dã man và chết, điều đó sẽ ám ảnh trong tâm can anh đến hết cuộc đời, khiến cho lòng căm thù giặc càng sục sôi hơn. Và cuối cùng là mối thù chung với dân làng, dân làng bị tàn sát dã man. Từ khối thù chung và riêng ấy đã thức tỉnh tinh thần chiến đấu trong Tnú.

Hình tượng nhân vật Tnú là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người dân Tây Nguyên, làm sáng tỏ chân lí thời đại: “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” – chủ động đánh giặc, muốn giành được độc lập chỉ có con đường duy nhất là đấu tranh vũ trang. Không chỉ vậy Tnú còn tiêu biểu cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Ngoài hình tượng nhân vật Tnú, tác phẩm còn nổi bật với tập thể anh hùng làng Xô Man. Mỗi người là một chiến sĩ, mang trong mình niềm tin với Đảng, với cách mạng và lòng trung thành với cách mạng. Nhưng bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi người lại có những nét đẹp riêng. Trước hết là nhân vật cụ Mết, cụ là hiện thân của vẻ đẹp núi rừng và con người Tây Nguyên.

Cụ Mết là người chỉ huy trực tiếp cuộc kháng chiến của dân làng Xô Man, cụ lãnh đạo nhân dân, xây dựng làng Xô Man thành làng kháng chiến để đấu tranh lâu dài với giặc Mĩ. Không chỉ vậy, cụ còn giáo dục lòng yêu nước ở thế hệ sau, truyền nhiệt huyết và quyết tâm giết giặc cho thế hệ trẻ. Dít và Heng có thể coi là thế hệ trẻ tiêu biểu của làng Xô Man. Dít mang trong mình sự gai góc, quyết đoán, sẽ là thế hệ tiếp bước cha ông xuất sắc.

Tác phẩm mang tính sử thi Tây Nguyên đậm nét. Nghệ thuật xây dựng hình tượng đặc sắc, mỗi nhân vật có số phận và tính cách riêng, nhưng ở họ đều ngời sáng lòng yêu nước và dũng cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn : tác giả sử dụng kết cấu truyện lồng trong chuyện: câu chuyện cuộc đời anh Tnú và chuyện của dân làng Xô Man. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất Tây Nguyên, đem lại dấu ấn riêng cho tác phẩm.

Tác phẩm là bài ca ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên hùng vĩ, anh hùng. Không chỉ vậy Rừng xà nu còn là khúc tráng ca ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất anh hùng, bất khuất của người dân Tây Nguyên. Kết hợp với ngôn ngữ và lối kể chuyện hấp dẫn đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Phân tích Rừng xà nu – mẫu 19

Nguyễn Trung Thành là nhà văn sinh ra ở vùng đất Thăng Bình, Quảng Nam, tên khai sinh của ông là Nguyên Ngọc. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước lầm than khi phải trải qua hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc, hơn ai hết, ông trân quý và khâm phục những con người hy sinh hết mình cho cách mạng, cho Tổ quốc thân yêu.

Đặc biệt đối với vùng đất Tây Nguyên anh dũng cùng những con người bộc trực, dũng cảm, kiên trung một lòng gắn bó cách mạng được ông ưu ái và dành nhiều niềm thương yêu. Bởi vậy mà bao nhiêu cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên anh hùng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận để ông viết nên tác phẩm Rừng xà nu đầy thành công, trở thành một kiệt tác gắn bó với tên tuổi của mình.

Rừng xà nu được viết vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt. Tác phẩm được in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng, trích trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Đây là bài ca ca ngợi bản lĩnh, ý chí sắt đá, bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên.

Rừng xà nu quanh làng Xô man được tác giả giới thiệu trong đoạn đầu tác phẩm đầy độc đáo. Một rừng cây luôn “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, bị súng đạn bắn phá liên tục, sự hủy diệt vô cùng tàn bạo của quân giặc trước sức sống của thiên nhiên – ” Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Một cảnh tượng đầy đau thương hiện ra trước mắt, bao nhiêu cây xà nu không cây nào là không bị trúng đạn, cây nào cũng bị vết thương loang lổ, loét mãi ra rồi chết.

Đạn đại bác hung tàn, không nhân nhượng trước vẻ đẹp kiêu hùng thiên nhiên, cây vừa lớn đã bị chặt làm đôi rồi đổ ào. Song, rừng xà nu ấy vẫn không chịu khuất phục, những cây cường tráng nhanh chóng tự chữa lành vết thương. Chúng vẫn tiếp tục sức sống mạnh mẽ của mình để dang rộng vòng tay mà che chở cho ngôi làng thân yêu. Cây nọ tiếp cây kia vẫn sinh sôi nảy nở, sự sống vẫn đâm chồi trước sự tàn phá của quân thù “cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên”.

Cây xà nu tự mình đứng lên, trường tồn và phát triển, dũng cảm hiên ngang trước bom đạn kẻ thù “hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Hình ảnh rừng xà nu hiện lên thật đẹp, thật đáng tự hào biết bao.

Cây xà nu chính là biểu trưng cho vùng đất Tây Nguyên, là đại diện tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, là hình ảnh ẩn dụ cho cốt cách, sức sống của đồng bào Tây Nguyên từ trước đến nay. Trong đau thương vẫn ánh dũng kiên cường, trong áp bức vẫn tràn trề hy vọng, vẫn mang ý chí đấu tranh, nguyện theo gương cách mạng, là sự sống bất diệt của buôn làng Xô man.

Sau hình ảnh xà nu, tác giả tiếp tục tái hiện chân thực cuộc sống và chiến đấu của người dân nơi đây. Họ là những thế hệ giàu lòng yêu nước, có niềm tin lớn lao vào cách mạng, là những gương anh hùng sáng chói với non sông, Tổ quốc. Đó là một Cụ Mết đại diện cho những thế hệ anh hùng đi trước đầy kinh nghiệm, bản lĩnh và giàu lòng yêu nước, luôn hướng cho dân làng những bước đi đúng đắn trong chiến đấu. Là một người nhìn xa, thấu hiểu dân làng, là một chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của làng Xôman.

Với cụ “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Chân lý “Chúng nó dùng súng, mình phải cầm giáo” của cụ như một lời tuyên ngôn trong cuộc chiến của dân tộc. Đó còn là một Tnú với những phẩm chất anh hùng. Khi còn nhỏ, anh sớm đã giác ngộ cách mạng, phấn đấu để trở thành những người như anh Quyết lãnh đạo cách mạng. Một cậu bé gan góc và đầy dũng cảm, giữa bao chiến trận đầy súng đạn của giặc, cậu bé giao liên vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Khi bị bắt, Tnú vẫn một lòng trung thành dù bị tra tấn đầy ác độc, nhưng vẫn nhất quyết giữ bí mật. Sau khi vượt ngục, những tưởng được hạnh phúc bên vợ con thì giặc tiến vào diệt phong trào nổi dậy, một lần nữa Tnú phải chịu đau thương trước sự tra tấn và khổ đau khi vợ con bị giết mà không làm gì được. Càng trong đau thương, phẩm chất anh hùng càng ngời sáng trong Tnú, càng trong áp bức càng kiên cường đứng lên trả mối thù lớn cho vợ con, cho chính mình và cho dân làng Xô man yêu dấu.

Tiếng thét căm hờn là tiếng căm phẫn, xé lòng giữa cuộc chiến, là tiếng hiệu triệu người người đứng lên giết chết quân thù, bè lũ cướp nước. Bàn tay bị đốt mười ngón nhưng không thiêu rụi được ý chí của người con Tây Nguyên. Cuối cùng, Tnú cũng đã giết chết được thằng Dục, kẻ đã thẳng tay giết người thân của anh, trả mối thù sâu nặng bấy lâu. Tnú tiêu biểu cho thế hệ thanh niên trưởng thành trong cách mạng, tình yêu và đem hết sức mình phục vụ quân giải phóng.

Đó còn là những Dít, bé Heng,… thế hệ tiếp nối bao chiến công cha anh để cùng nhau chung sức đưa thắng lợi đi đến cuối cùng. Thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, ngày càng trưởng thành, kiên cường chiến đấu xứng đáng với hi sinh của cha anh. Dường như, trong cuộc chiến khốc liệt, con người Tây Nguyên càng khẳng định được chính mình. Trong lầm than, đen tối, họ lại càng kiên dũng, ngời sáng tuyệt vời.

Rừng xà nu và nhân dân làng Xô man như hai mà một, đều chịu nhiều đau thương, đều vươn mình mạnh mẽ. Đó là sức sống bất diệt, là tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng.

Bằng sự kết hợp tài tình giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Trung Thành không chỉ ngợi ca vẻ đẹp trong nhân cách của người con Tây Nguyên mà qua đó còn đặt ra một vấn đề mang tính thời đại: Để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ tự do cho đất nước trước nhất phải cầm vũ khí đứng lên.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Trung Thành (bút danh khác là Nguyên Ngọc) tên khai sinh là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

- Ông có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

+ Năm 1950 vào bộ đội làm phóng viên báo Quân đội nhân dân Liên khu V. Những năm tháng lăn lội trong cuộc kháng chiến chống Pháp giúp tác giả am hiểu sâu sắc về mảnh đất Tây Nguyên.

+ Đến năm 1962, ông tình nguyện trở về chiến trường miền Nam, hoạt động ở Quảng Nam và Tây Nguyên.

- Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học dân tộc: Đất nước đứng lên, Rẻo cao (1961), tập truyện và kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969) và tiểu thuyết Đất Quảng (1971-1974)

- Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ ông tiếp tục cống hiến cho phong trào văn nghệ của nhà nước. Ông từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ.

2. Tác phẩm

1. Xuất xứ

Truyện ngắn Rừng xà nu được viết năm 1965, được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc đây là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trung Thành trong những năm tháng kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

2. Bố cục

- Có thể chia tác phẩm thành 3 phần:

+ Phần I: Từ đầu đến những đồi xà nu nối tiếp nhau đến chân trời  => Đoạn văn miêu tả vị trí và đặc điểm của cánh rừng xà nu.

+ Phần II : Từ  ba năm đi lực lượng đến hà... được!=> Sau ba năm tham gia bộ đội Tnu được trở về thăm làng trong sự chào đón hân hoan của những người dân trong làng.

+ Phần III: Đoạn còn lại => Trong đêm Tnú trở về Cụ Mết đã kể lại câu chuyện về cuộc đời đầy đau khổ nhưng anh dũng của Tnú, đồng thời cũng là kể về quá trình chiến đấu chống đế quốc Mĩ của người dân làng Xô Man.

3. Ý nghĩa nhan đề 

Nhan đề “Rừng xà nu” vừa mang ý nghĩa hiện thực , vừa mang ý nghĩa biểu tượng: ... + Ý nghĩa biểu tượng: Qua sức sống mãnh liệt của cây xà nu, rừng xà nu, nhà văn nói đến nỗi đau và sức sống , phẩm chất kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

4. Giá trị nội dung

- Câu chuyện thứ nhất là câu chuyện về sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và cuộc nổi dậy từ tự phát đến tự giác của dân làng Xô Man, với triết lí cách mạng được cụ Mết - trưởng bản, đúc kết "Chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo"

- Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về cuộc đời của Tnú - một người con của núi rừng Tây Nguyên, của bản làng Xô Man. Tnú lớn lên trong không khí cả làng làm cách mạng nên con người ấy nhanh chóng bén duyên. 

- Cuộc đời của Tnú là cuộc đời của biết bao nhiêu con người, cũng là hình ảnh biểu trưng cho cả đất nước Việt Nam đau thương mà quật cường đứng dậy trong cuộc đọ sức cam go với đế quốc Mĩ.

5. Giá trị nghệ thuật

- Câu chuyện được kể theo hình thức truyện lồng truyện, truyện của một đời người của Tnú lại được kể trong một đêm qua lời kể của cụ Mết

- Xây dựng được không khí sử thi hào hùng, tráng lệ qua lối kể khan của cụ Mết ở nhà ưng tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và truyền thuyết.

- Xây dựng được những hình tượng đặc sắc mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, đó là hình tượng của cây xà nu; hình tượng những thế hệ xà nu - những thế hệ của bản làng Xô Man, của mảnh đất Tây Nguyên; hình tượng người anh hùng Tnú

- Ngôn ngữ đặc sắc, mang đậm chất Tây Nguyên

Tài liệu có 17 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống