TOP 15 bài Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 8 4.6 K 3

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 12 bài văn mẫu Phân tích đoạn cuối của bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất, gồm 8 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 5 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi vào tốt nghiệp THPT môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH ĐOẠN CUỐI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Bài giảng: Tuyên ngôn độc lập

Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 1

Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên không chỉ khẳng định độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn mạnh mẽ tuyên bố với toàn thế giới về nền độc lập, chủ quyền đáng được tôn trọng ấy. Trong phần cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh cuối tác phẩm là kết tinh sáng ngời của tình yêu nước, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc. Người đã khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”, đúng vậy Việt Nam cũng như bao dân tộc yêu nước, chuộng hòa bình khác trên thế giới như Pháp, Mĩ chúng ta có quyền hưởng tự do và độc lập “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do, bình đẳng về quyền lợi” và quyền bình đẳng ấy là “những quyền không ai có thể xâm phạm được. Lập luận của người vô cùng trí tuệ và sắc sảo khi dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đầu tác phẩm, từ đó có cơ sở lập luận để khẳng định quyền hưởng độc lập, tự do là quyền lợi chính đáng, hợp với đạo lý và pháp lý của dân tộc Việt Nam.

Độc lập, tự do của ngày hôm nay chính là thành quả đấu tranh đoàn kết, kiên trì, lâu dài của toàn đảng, toàn dân ta “ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”. Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” đã khẳng định sức mạnh và quyết tâm mạnh mẽ của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ và giữ vững nền độc lập thiêng liêng mà gian khổ, hy sinh lắm chúng ta mới giành lại được.

Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh còn là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp, với những thế lực bạo tàn phản cách mạng đang âm mưu xâm chiếm, thôn tính Việt nam một lần nữa. Qua lời tuyên bố của Bác đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức đoàn kết sức mạnh của toàn dân, toàn quân trong việc bảo vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ vừa được thành lập.

Như vậy, bằng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, ngôn ngữ đanh thép, chủ tịch Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ tuyên bố nền độc lập, tự chủ trong niềm tự hào, đồng thời khẳng định sức mạnh và quyết tâm của cả dân tộc trong việc bảo vệ, duy trì nền độc lập ấy.

Top 5 bài Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất (ảnh 1)

Sơ đồ tư duy đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập

Phân tích đoạn kết của bản Tuyên ngôn độc lập năm 2021

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác phẩm: Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

2. Thân bài:

– Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh cuối tác phẩm là kết tinh sáng ngời của tình yêu nước, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc.

– Lập luận vô cùng trí tuệ và sắc sảo khi dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đầu tác phẩm tạo cơ sở lập luận để khẳng định quyền hưởng độc lập, tự do là quyền lợi chính đáng, hợp với đạo lý và pháp lý của dân tộc Việt Nam.

– Độc lập, tự do của ngày hôm nay chính là thành quả đấu tranh đoàn kết, kiên trì, lâu dài của toàn đảng, toàn dân ta.

– Mục đích của lời tuyên bố:

+ Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép đã khẳng định sức mạnh và quyết tâm mạnh mẽ của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ và giữ vững nền độc lập thiêng liêng mà gian khổ, hy sinh lắm chúng ta mới giành lại được.

+ Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh còn là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp, với những thế lực bạo tàn phản cách mạng đang âm mưu xâm chiếm, thôn tính Việt nam một lần nữa.

+ Lời tuyên bố của Bác đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức đoàn kết sức mạnh của toàn dân, toàn quân trong việc bảo vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ vừa được thành lập.

3. Kết bài:

- Bằng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, ngôn ngữ đanh thép, chủ tịch Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ tuyên bố nền độc lập, tự chủ trong niềm tự hào, đồng thời khẳng định sức mạnh và quyết tâm của cả dân tộc trong việc bảo vệ, duy trì nền độc lập ấy.

Top 5 bài Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất (ảnh 2)

Các mẫu khác:

Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 2

Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập". Áng văn này mang ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại: tuyên bố thủ tiêu vĩnh viễn chế độ thực dân-phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc.

Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố:

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời những nội dung cơ bản của "Tuyên ngôn Độc lập".

Trước hết, Hồ Chủ Tịch khẳng định "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" vì đó là điều phù hợp với đạo lý và pháp lý. Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người "đều sinh ra có quyền bình đẳng (...), có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" ("Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của Mỹ).

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" bởi lẽ "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" ("Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng Pháp năm 1791).

Từ nhân quyền, Hồ Chủ Tịch đã "suy rộng ra", nói đến quyền tự quyết của mọi dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Lẽ phải ấy không ai chối cãi được và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập" biểu lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập, tự do của đất nước và con người Việt Nam.

Video bài văn mẫu Phân tích Tuyên ngôn độc lập

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, "và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Đó là một thực tế lịch sử không ai chối cãi được. Hồ Chủ tịch đã vạch trần những tội ác dã man về chính trị, về kinh tế của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong suốt 80 năm trời. Chúng áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, "khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều". Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, dìm nhân ta vào máu và nước mắt trong đêm trường nô lệ: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu",... Thực dân Pháp chỉ trong vòng 5 năm (1940/1945), chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) làm cho hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trước khi thưa chạy (9/3/1945), bọn thực dân Pháp "còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". Đó là lẽ phải, là sự thật lịch sử không ai chối cãi được. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và thắng lợi, "dân ta đã lấy nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, thất bại: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Độc lập và tự do là thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ, gan góc, lâu dài của dân tộc ta:

"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chủ tịch mới tuyên bố một cách đanh thép, hùng hồn: "Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Cụm từ "Toàn thể dân tộc Việt Nam" nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam kết thành một khối mà không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được! "Tự do hay là chết!", "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại nên độc lập!". Quyết tâm ấy được Hồ Chủ tịch tuyên bố đanh thép hùng hồn.

Triệu triệu con người Việt Nam "quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá vẻ độc lập tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa, Người lại Tuyên bố: "Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ!". ("Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến"-19-12-1946).

Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc "Tuyên ngôn Độc lập": Những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám - Chiến thắng Điện Biên oai hùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng - Non sông liền một dải, Bác Nam sum họp một nhà...

"Tuyên ngôn Độc lập" xứng đáng là một áng "thiên cổ hùng văn". Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của "Nam quốc sơn của hà", "Bình Ngô đại cáo". Nó là lời Non Nước cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: "Không có gì quý hơn độc lập tự do", biểu lộ ý chí và sức mạnh Việt Nam.

Đọc đoạn văn cuối bản "Tuyên ngôn Độc lập", chúng ta càng thấm thìa tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ.

Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 3

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn đồng bào, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam mới. Đây là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn trong việc khẳng định quyền tự chủ, bình đẳng của dân tộc Việt Nam trên toàn thế giới và đánh dấu mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta.

Kết thúc bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đoạn văn trên đã làm rõ những tư tưởng lớn của Người trong toàn bộ bản tuyên ngôn. Đồng thời đây cũng là lời tuyên bố độc lập được rút ra từ những chân lý rằng “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Thay mặt cho Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã đưa ra lời tuyên bố tự do, độc lập thể hiện được tinh thần, ý chí chí của toàn quân, toàn dân ta trong cuộc kháng chiến thực dân Pháp để giữ vững quyền tự do, độc lập. Người trịnh trọng tuyên bố với toàn thể nhân dân trên thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Bởi Việt Nam cũng như bao quốc gia khác, có quyền bình đẳng và quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.Cho nên, bản tuyên ngôn độc lập đã “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.

“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Sau khoảng thời gian hơn 80 năm chịu sự đô hộ của thực dân Pháp thì lời tuyên ngôn này đã phần nào thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc, sự đoàn kết đồng lòng của quân và dân ta đã mang lại nền độc lập ấy. Để có được điều đó, nhân dân ta đã phải chịu đựng chế độ cai trị hà khắc, dã man của chúng. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở ba miền để ngăn tình đoàn kết và ngăn việc thống nhất đất nước của nhân dân ta. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, thi hành chính sách ngu dân, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, trong 5 năm, chúng bán nước ta hai lần cho Nhật…Và dân tộc ta đã “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. “Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”.

Không chỉ khẳng định nước Việt Nam là một nước độc lập, Hồ Chí Minh còn khẳng định quyết tâm: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đó như một lời thề thiêng liêng, dù có khó khăn, gian khổ đến đâu thì dân tộc Việt Nam sẽ đoàn kết, tạo nên sức mạnh để chiến đấu, bảo vệ nền độc lập, dân chủ.

Lời tuyên ngôn đã khơi dậy lòng yêu nước, sức mạnh đoàn kết ở mỗi người con đất Việt. “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đó còn thể hiện lòng quyết tâm mạnh mẽ, chiến đấu đến cùng để bảo vệ bờ cõi đất nước, chiến đấu đến cùng để chống lại mọi âm mưu xâm chiếm của các thế lực thù địch trên thế giới có dã tâm xâm lược nước ta.

Tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, là văn kiện chính trị lớn tổng kết cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc, chứa đựng nhiều chân lí lớn, sức thuyết phục cao, ngắn gọn mà lời lẽ hết sức giản dị. Đoạn kết của bản tuyên ngôn đã khẳng định lại Việt Nam là một nước độc lập và “toàn thể nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 4

Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm có giá trị lịch sử và chính trị vô cùng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới trong vận mệnh của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng cũng nhiều khó khăn thách thức trong tương lai. Tác phẩm thể hiện niềm tự hào, mong ước tha thiết về một đất nước hoàn toàn độc lập, cũng như sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta, sẵn sàng hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.

Nói đến Hồ Chí Minh tức là đang nói đến một định nghĩa rộng rãi nhất của hai tiếng "con người", Người đã phấn đấu nỗ lực và hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc. Ngay cả với sự nghiệp văn thơ của mình, Hồ Chí Minh cũng khéo léo xem đó là một vũ khí chiến đấu lợi hại, có sức mạnh to lớn để phục vụ cho sự nghiệp chính trị, quân sự cao cả của mình. Trong số vô vàn các tác phẩm của mình bao gồm cả thơ, văn chính luận, truyện ngắn, ký sự,... thì Tuyên ngôn độc lập được xem là tác phẩm để đời, kinh điển không chỉ có giá trị về mặt văn học và hơn hết chính là những giá trị lịch sử, chính trị sâu sắc, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong vận mệnh của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt ở phần kết của tác phẩm lời tuyên ngôn sắc bén, mạnh mẽ đã khẳng định một nền độc lập mới hoàn toàn của nước Việt Nam ta sau hơn 80 năm giời nô lệ, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập và tràn đầy hy vọng cho dân tộc.

Sau khi đã nêu ra được cơ sở pháp lý đậm tính nhân văn là chân lý của thời đại, thông qua việc dẫn chứng từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, cùng với cơ sở thực tiễn, vạch trần bộ mặt xảo trá và tàn độc của thực dân Pháp trên đất nước ta, khẳng định quá trình nhân dân ta đứng lên đấu tranh để giành lại quyền tự chủ từ tay Nhật, chứ không phải Pháp. Điều đó đã đủ cơ sở, đủ căn cứ để Hồ Chủ tịch đưa ra lời tuyên ngôn mạnh mẽ về quyền được độc lập, được đứng lên làm chủ vận mệnh đất nước của dân tộc. Rằng "Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc ấy phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!". Từng câu từng chữ, từng lời với kết cấu trùng điệp, ngữ điệu dồn dập, xúc động và tâm huyết đã thể hiện khát khao cháy bỏng, mạnh mẽ về một mong ước lớn lao mà cả đời Người theo đuổi ấy là mang lại cho dân tộc một nền tự do, độc lập.

Thêm vào đó có thể nhận thấy một điểm chung của phần kết tác phẩm ấy chính là lời lẽ hùng hồn, xúc tích thể hiện sự tự tin, hùng cường, của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng anh hùng, gan góc, dám đương đầu với thực dân, phát xít, quyết giữ lấy từng tấc đất mà cha ông mấy ngàn năm gìn giữ, gây dựng. Bên cạnh việc khẳng định nền độc lập, tự do mà Bác hàng tâm huyết bấy lâu, bản tuyên ngôn còn nhấn mạnh và đặc biệt lưu ý những điểm sáng rất quan trọng trong việc thoát ly hoàn toàn khỏi ách thống trị của Pháp rằng "Bởi thế cho nên chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân tộc Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Lời tuyên bố đã khẳng định mạnh mẽ sự độc lập về chính trị của đất nước ta, cũng như bác bỏ hoàn toàn những mưu đồ chính trị phi lý và Pháp đã áp đặt lên đất nước ta suốt mấy mươi năm trời, mở ra cho nhân dân ta, Tổ quốc ta một tương lai mới, một con đường mới, độc lập tự cường, thoát khỏi cái luận điệu "bảo hộ", "khai sáng" xảo trá mà bọn thực dân đã vạch ra để lừa bịp nhân dân và dư luận thế giới. Dẫu biết rằng, việc tự khẳng định độc lập và yêu cầu thế giới công nhận sự độc lập của một quốc gia bé nhỏ là điều vô cùng khó khăn, tuy nhiên với ngòi bút sắc bén và hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, không chỉ nêu ra chân lý thời đại mà còn vạch trần được sự gian ác, xảo trá của đế quốc, cũng như những nỗ lực đấu tranh mạnh mẽ kéo dài trong suốt gần một thế kỷ với biết bao xương máu của nhân dân ta, thì lời khẳng định tuyên bố này lại trở nên hết sức hợp lý và thuyết phục, dễ dàng nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của các dân tộc anh em trên thế giới. Bên cạnh đó một đất nước "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa", cũng cần có một khởi đầu mới bắt nguồn từ cái tên mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra trong phần kết của tác phẩm là "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", càng khẳng định mạnh mẽ thêm tinh thần tự cường, độc lập quyết tâm gây dựng một đất nước mới tươi đẹp và phát triển trong tương lai.

Kết thúc bản tuyên ngôn Hồ Chủ tịch đã thay mặt nhân dân cả nước khẳng định lại một lần nữa nền độc lập tự do của dân tộc, cũng như những quyết tâm bảo vệ, giữ gìn nền độc lập quý giá ấy bằng mọi giá "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Khẳng định tinh thần đoàn kết, sức mạnh tổng hợp, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, đồng thời cũng là tấm lòng yêu chuộng hòa bình, trân quý nền tự do, độc lập đã giành về bằng xương máu của cha ông. Lời tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là lời chung của toàn thể dân tộc Việt Nam vào thời điểm ấy, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước, mà còn là lời cảnh cáo mạnh mẽ tới tất cả những kẻ đang có mưu đồ cướp nước, một lần nữa muốn đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng của cha ông để vơ vét, tàn hại Tổ quốc ta. Đồng thời đây cũng là những lời tâm huyết cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đại đoàn kết chống giặc và chung tay xây dựng một đất nước vững mạnh sánh ngang cùng với các cường quốc năm châu, trên cơ sở nền tảng của một đất nước non trẻ, mới thành lập.

Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm có giá trị lịch sử và chính trị vô cùng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới trong vận mệnh của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn thách thức trong tương lai. Khẳng định niềm tự hào, mong ước tha thiết về một đất nước hoàn toàn độc lập, cũng như sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta, sẵn sàng hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.

Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập - mẫu 5

Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm có giá trị lịch sử và chính trị vô cùng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới trong vận mệnh của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng cũng nhiều khó khăn thách thức trong tương lai. Tác phẩm thể hiện niềm tự hào, mong ước tha thiết về một đất nước hoàn toàn độc lập, cũng như sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta, sẵn sàng hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.

Nói đến Hồ Chí Minh tức là đang nói đến một định nghĩa rộng rãi nhất của hai tiếng "con người", Người đã phấn đấu nỗ lực và hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc. Ngay cả với sự nghiệp văn thơ của mình, Hồ Chí Minh cũng khéo léo xem đó là một vũ khí chiến đấu lợi hại, có sức mạnh to lớn để phục vụ cho sự nghiệp chính trị, quân sự cao cả của mình. Trong số vô vàn các tác phẩm của mình bao gồm cả thơ, văn chính luận, truyện ngắn, ký sự,... thì Tuyên ngôn độc lập được xem là tác phẩm để đời, kinh điển không chỉ có giá trị về mặt văn học và hơn hết chính là những giá trị lịch sử, chính trị sâu sắc, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong vận mệnh của dân tộc Việt Nam ta. Đặc biệt ở phần kết của tác phẩm lời tuyên ngôn sắc bén, mạnh mẽ đã khẳng định một nền độc lập mới hoàn toàn của nước Việt Nam ta sau hơn 80 năm giời nô lệ, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập và tràn đầy hy vọng cho dân tộc.

Sau khi đã nêu ra được cơ sở pháp lý đậm tính nhân văn là chân lý của thời đại, thông qua việc dẫn chứng từ hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, cùng với cơ sở thực tiễn, vạch trần bộ mặt xảo trá và tàn độc của thực dân Pháp trên đất nước ta, khẳng định quá trình nhân dân ta đứng lên đấu tranh để giành lại quyền tự chủ từ tay Nhật, chứ không phải Pháp. Điều đó đã đủ cơ sở, đủ căn cứ để Hồ Chủ tịch đưa ra lời tuyên ngôn mạnh mẽ về quyền được độc lập, được đứng lên làm chủ vận mệnh đất nước của dân tộc. Rằng "Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc ấy phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!". Từng câu từng chữ, từng lời với kết cấu trùng điệp, ngữ điệu dồn dập, xúc động và tâm huyết đã thể hiện khát khao cháy bỏng, mạnh mẽ về một mong ước lớn lao mà cả đời Người theo đuổi ấy là mang lại cho dân tộc một nền tự do, độc lập. Thêm vào đó có thể nhận thấy một điểm chung của phần kết tác phẩm ấy chính là lời lẽ hùng hồn, xúc tích thể hiện sự tự tin, hùng cường, của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng anh hùng, gan góc, dám đương đầu với thực dân, phát xít, quyết giữ lấy từng tấc đất mà cha ông mấy ngàn năm gìn giữ, gây dựng. Bên cạnh việc khẳng định nền độc lập, tự do mà Bác hàng tâm huyết bấy lâu, bản tuyên ngôn còn nhấn mạnh và đặc biệt lưu ý những điểm sáng rất quan trọng trong việc thoát ly hoàn toàn khỏi ách thống trị của Pháp rằng "Bởi thế cho nên chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân tộc Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Lời tuyên bố đã khẳng định mạnh mẽ sự độc lập về chính trị của đất nước ta, cũng như bác bỏ hoàn toàn những mưu đồ chính trị phi lý và Pháp đã áp đặt lên đất nước ta suốt mấy mươi năm trời, mở ra cho nhân dân ta, Tổ quốc ta một tương lai mới, một con đường mới, độc lập tự cường, thoát khỏi cái luận điệu "bảo hộ", "khai sáng" xảo trá mà bọn thực dân đã vạch ra để lừa bịp nhân dân và dư luận thế giới. Dẫu biết rằng, việc tự khẳng định độc lập và yêu cầu thế giới công nhận sự độc lập của một quốc gia bé nhỏ là điều vô cùng khó khăn, tuy nhiên với ngòi bút sắc bén và hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, không chỉ nêu ra chân lý thời đại mà còn vạch trần được sự gian ác, xảo trá của đế quốc, cũng như những nỗ lực đấu tranh mạnh mẽ kéo dài trong suốt gần một thế kỷ với biết bao xương máu của nhân dân ta, thì lời khẳng định tuyên bố này lại trở nên hết sức hợp lý và thuyết phục, dễ dàng nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của các dân tộc anh em trên thế giới. Bên cạnh đó một đất nước "Rũ bùn đứng dậy sáng lòa", cũng cần có một khởi đầu mới bắt nguồn từ cái tên mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra trong phần kết của tác phẩm là "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", càng khẳng định mạnh mẽ thêm tinh thần tự cường, độc lập quyết tâm gây dựng một đất nước mới tươi đẹp và phát triển trong tương lai.

Kết thúc bản tuyên ngôn Hồ Chủ tịch đã thay mặt nhân dân cả nước khẳng định lại một lần nữa nền độc lập tự do của dân tộc, cũng như những quyết tâm bảo vệ, giữ gìn nền độc lập quý giá ấy bằng mọi giá "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". Khẳng định tinh thần đoàn kết, sức mạnh tổng hợp, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, đồng thời cũng là tấm lòng yêu chuộng hòa bình, trân quý nền tự do, độc lập đã giành về bằng xương máu của cha ông. Lời tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là lời chung của toàn thể dân tộc Việt Nam vào thời điểm ấy, không chỉ thể hiện tinh thần yêu nước, mà còn là lời cảnh cáo mạnh mẽ tới tất cả những kẻ đang có mưu đồ cướp nước, một lần nữa muốn đặt chân lên mảnh đất thiêng liêng của cha ông để vơ vét, tàn hại Tổ quốc ta. Đồng thời đây cũng là những lời tâm huyết cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đại đoàn kết chống giặc và chung tay xây dựng một đất nước vững mạnh sánh ngang cùng với các cường quốc năm châu, trên cơ sở nền tảng của một đất nước non trẻ, mới thành lập.

Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm có giá trị lịch sử và chính trị vô cùng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới trong vận mệnh của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn thách thức trong tương lai. Khẳng định niềm tự hào, mong ước tha thiết về một đất nước hoàn toàn độc lập, cũng như sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ta, sẵn sàng hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

1. Vài nét về tiểu sử

- Hồ Chí Minh (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 - mất ngày 2 tháng 9 năm 1969) là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam.

- Hồ Chí Minh có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Gia đình: Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - một nhà Nho yêu nước có tư tưởng tiến bộ có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Người. Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan.

- Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã sử dụng nhiều tên gọi khác nhau: Nguyễn Tất Thành, Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc... Tên gọi “Hồ Chí Minh” được sử dụng lần đầu tiên trong hoàn cảnh: Ngày 13 tháng 8 năm 1942, khi Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội Quốc tế Phản Xâm lược Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân Quốc.

- Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, Hồ Chí Minh còn được biết đến với tư cách là một nhà văn nhà thơ lớn.

- Hồ Chí Minh được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

2. Sự nghiệp văn học

a. Quan điểm sáng tác

- Hồ Chí Minh coi văn học là vũ khí chiến đấu lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như chiến sĩ ngoài mặt trận.

- Bác luôn chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn học.

- Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn tự đặt câu hỏi:

  • Viết cho ai? (Đối tượng)
  • Viết để làm gì? (Mục đích)
  • Viết cái gì? (Nội dung)
  • Viết thế nào? (Hình thức)

b. Di sản văn học

- Văn chính luận

  • Từ những thập niên đầu thế kỉ XX, các bài văn chính luận mang bút danh Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp đăng trên các tờ báo: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền… thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ.
  • Một số văn bản như Tuyên ngôn Độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến… được viết trong giờ phút lịch sử của dân tộc.

- Truyện và kí hiện đại

  • Một số truyện kí viết bằng tiếng Pháp: Pa-ri (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923)...
  • Những tác phẩm này đều nhằm tố cáo tội ác dã mạn, bản chất xảo trá của bọn thực dân phong kiến và tay sai…

- Thơ ca

  • Tên tuổi của nhà thơ Hồ Chí Minh gắn với tập Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù).
  • Ngoài ra, Người còn một số chùm thơ viết ở Việt Bắc (1941 - 1945): Tức cảnh Pác Bó, Thướng sơn, Đối nguyệt…

c. Phong cách nghệ thuật

- Văn chính luận: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục, giàu tính luận chiến, kết hợp nhuần nhuyễn mạch luận lí với mạch cảm xúc, giọng điệu uyển chuyển.

- Truyện và kí hiện đại, giàu tính chiến đấu, nghệ thuật trào phúng sắc bén, nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay.

- Thơ ca: Thơ tuyên truyền cách mạng mộc mạc, giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc; Thơ nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, cô đọng, súc tích.

=> Trong văn chính luận, truyện, kí hay thơ ca, phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh hết sức phong phú, đa dạng mà thống nhất.

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Nhân dân ta giành được chính quyền trên cả nước.

- Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập.

- Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam mới.

2. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến “không ai chối cãi được”): Nêu nguyên lí chung của bản Tuyên ngôn độc lập (Cơ sở lí luận của bản tuyên ngôn)

- Phần 2 (tiếp đó đến “phải được độc lập”): Tố cáo tội áo của giặc và khẳng định cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta (cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn)

- Phần 3 (còn lại): lời tuyên bố độc lập và ý chí bảo vệ chủ quyền của dân tộc

3. Tóm tắt

Bản tuyên ngôn mở đầu bằng những câu trích dẫn từ "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ, " Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, bản tuyên ngôn lên án tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam trong đó hơn 80 năm chúng xâm lược chúng ta. Đó là tội ác về kinh tế , chính trị , văn hóa, tội bán nước hai lần cho Nhật. Bản tuyên ngôn nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa và thắng lợi của nhân dân ta. Bản tuyên ngôn kết thúc bằng lời tuyên bố quyền độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của toàn dân tộc.

4. Phương thức biểu đạt: Nghị luận

5. Thể loại: Văn chính luận

6. Giá trị nội dung

- Dựng nên một hàng rào vững chắc cho những lập luận, lí lẽ của mình bằng việc tạo ra cơ sở pháp lí cho nền độc lập của Việt Nam nói riêng và các nước, các dân tộc khác nói chung

- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp trên mảnh đất của dân tộc Việt Nam, hoàn toàn đối lập với giọng điệu xảo trá mà thực dân Pháp đã rao giảng với thế giới. Đồng thời cũng khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.

- Tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.

7. Giá trị nghệ thuật

- Tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh

+ Lập luận: chặt chẽ, sắc bén, thống nhất quan điểm chính trị từ đầu đến cuối bản tuyên ngôn độc lập.

+ Lí lẽ: xuất phát từ tình yêu công lí, thái độ tôn trọng sự thật, dựa vào lẽ phải đã được nhân dân thế giới công nhận và từ các cuộc đấu tranh vì chính nghĩa trong lịch sử nhân loại.

+ Dẫn chứng: xác thực, với những bằng chứng đanh thép, số liệu chính xác được lấy từ sự thực lịch sử

+ Ngôn ngữ: hùng hồn, chan chứa tình cảm, cách xưng hô của Bác tạo được sự gần gũi với nhân dân cả nước trong giờ phút thiêng liêng của dân tộc.

+ Giọng điệu nghị luận rất đanh thép, cứng rắn và giàu tính luận chiến.

+ Hình ảnh được sử dụng rất đa dạng, giàu sức gợi hình, giàu cảm xúc.

 

Tài liệu có 8 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống