Bài thơ Nắng mới - Lưu Trọng Lư - Nội dung, tác giả, tác phẩm

2.8 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Nắng mới Ngữ văn lớp 10 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nắng mới lớp 10.

Tác giả tác phẩm: Nắng mới - Ngữ văn 10

I. Tác giả Lưu Trọng Lư

Nắng mới - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

- Lưu Trọng Lư (19/6/1912 – 10/8/1991) là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam, quê làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại xuất thân nho học.

- Ông học đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế thì ra Hà Nội làm văn, làm báo để kiếm sống. Ông là một trong những nhà thơ khởi xướng Phong trào Thơ mới và rất tích cực diễn thuyết bênh vực “Thơ mới” đả kích các nhà thơ “cũ”.

- Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia Văn hoá cứu quốc ở Huế. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV.

- Sau năm 1954, ông tiếp tục hoạt động văn học, nghệ thuật: hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1957, đã từng làm Tổng thư ký Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam.

II. Tìm hiểu tác phẩm Nắng mới

1. Thể loạiThơ thất ngôn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tácTrích từ tập thơ “Tiếng thu”

Nắng mới - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

3. Phương thức biểu đạtMiêu tả kết hợp biểu cảm

4. Bố cục tác phẩm Nắng mới

- Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên “nắng mới”

- Khổ 2+3: Nỗi nhớ của nhân vật trữ tình

5. Giá trị nội dung tác phẩm Nắng mới

- Kí ức về mẹ gắn liền với sự biết ơn, tình yêu tha thiết

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Nắng mới

- Thể thơ thất ngôn

- Giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nắng mới

1. Tình cảm cảm xúc của nhân vật “tôi”

- Nhân vật "tôi" đã thể hiện nỗi nhớ mẹ trong bài thơ.

- Tình cảm, cảm xúc đó được thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh:

+ Từ ngữ: "nhớ", "chửa xóa mờ"

+ Hình ảnh: phơi áo đỏ, nụ cười đen nhánh sau tay áo.

- Hình ảnh người mẹ hiện lên trong tâm tưởng nhân vật "tôi".

+ Trong tâm tưởng nhân vật "tôi", hình ảnh người mẹ hiện lên với những vẻ đẹp của thuở thiếu thời: phơi áo đỏ ngoài giậu, nét cười đen nhánh sau tay áo.

à  Giá trị đạo đức truyền thống uống nước nhớ nguồn, hiếu thuận của người Việt Nam.

2. Giá trị nghệ thuật trong bài thơ

- Từ ngữ trong bài thơ giản dị, mang màu sắc làng quê Bắc Bộ tạo nên sự gần gũi.

- Cách ngắt nhịp trong bài thơ: 3/4, 4/3, 2/5. Nhịp thơ đa dạng nhưng nhịp nhàng, phù hợp với tâm trạng của chủ thể trữ tình.

- Cách gieo vần trong bài thơ: vần chân liền và vần chân cách: tạo nhạc tính cho bài thơ.

IV. Đọc tác phẩm: Nắng mới

Mỗi lần nắng mới hắt bên song.

Xao xác, gà trưa gáy não nùng

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,

Chập chòn sống lại những ngày không.

 

Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời,

Lúc người còn sống, tôi lên mười,

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,

Áo đó người đưa trước giậu phơi.

 

Hình dáng me tôi chửa xoá mờ,

Hãy còn mường tượng lúc vào ra:

Nét cười đen nhánh sau tay áo,

Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa.

 (In trong Tiếng thu, NXB Hội Nhà văn,Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học TP. Hồ Chí Minh, 1992, tr. 13)

V. Văn mẫu

Đề bài: Phân tích bài thơ Nắng mới

Lưu Trọng Lư là một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Xuất thân trong một gia đình quan lại có truyền thống Nho học ở tỉnh Quảng Bình. Một trong số tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu cảu ông có lẽ phải kể đến bài thơ Nắng mới. Được vinh dự xuất hiện trong tuyển tập “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân. Đây là một bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ của Lưu Trọng Lư: sầu và mộng.

Bài thơ có nhan đề là “Nắng mới” và mạch cảm xúc của bài thơ cũng được khơi nguồn từ hình ảnh trung tâm ấy.

Hình ảnh nắng mới thường gợi ra cảm giác ấm áp, vui tươi, nhẹ nhõm, nhưng “nắng mới” trong bài thơ lại gợi ra những kí ức thật buồn. Bởi vì mỗi lần “nắng mới” lên, nhân vật trữ tình lại nhớ đến người mẹ đã khuất của mình.

Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ đều tập trung vào hai hình ảnh: nắng mới và mẹ. Ở khổ 1, hình ảnh nắng mới ở một buổi trưa trong hiện tại nhắc nhở nhà thơ nhớ đến những lần “nắng mới hắt bên song” trong quá khứ. Ở khổ 2, trong kí ức của “tôi” năm mười tuổi, mỗi lần “nắng mới reo ngoài nội”, mẹ lại đem áo đỏ ra phơi ngoài dậu. Ở khổ 3, hình ảnh “me tôi” vẫn còn vô cùng sống động, tưởng như vẫn đang còn nhìn thấy “nét cười đen nhánh sau tay áo” lấp lánh tỏa nắng của mẹ “trong ánh trưa hè trước dậu phơi”.

Ngay từ khổ đầu tiên, nhà thơ đã giãi bày “Mỗi lần nắng mới hắt bên song”, lòng lại “rượi buồn theo thời dĩ vãng”. Nghĩa là bài thơ chỉ bộc lộ xúc cảm của một lần sống với kí ức về mẹ, nhưng lại gợi ra vô vàn những lần khác của hồi ức, chỉ cần nhìn thấy “nắng mới”, chỉ cần nghe “tiếng gà trưa gáy não nùng” là lại ”chập chờn sống lại những ngày không”, lại nhớ về những ngày mẹ còn sống.

Hình ảnh mẹ chưa trực tiếp xuất hiện ở khổ thơ đầu. Khổ thơ này mới tập trung miêu tả bối cảnh không gian và thời gian tác động vào tâm hồn nhà thơ, để những hồi ức về mẹ chuẩn bị sống dậy. Không gian mở ra với một khung cửa đầy nắng “nắng mới hắt bên song”. Nắng mới nhưng lại không gợi cảm giác ấm áp, tươi vui bởi vì ngay từ đầu, ánh nắng ấy đã không “sáng”, không “chiếu”, không “rực” mà chỉ “hắt” bên song cửa. Từ “hắt” gợi một cảm giác hiu hắt, héo tàn. Thời gian là vào một buổi trưa hè. Và cùng với không gian đầy nắng ấy là âm vang của “tiếng gà trưa gáy não nùng”. Những từ láy “xao xác”, “não nùng” khiến cho cảm xúc thơ chùng xuống, nặng trĩu bởi nỗi lòng thương nhớ, bởi nỗi buồn hoài niệm.

Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ giới thiệu rất rõ kí ức của mình: “Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời- Lúc người còn sống tôi lên mười”. Lời giới thiệu rõ ràng ấy vừa chính thức mở ra khoảng thời gian trong quá khứ với những hồi tưởng về người mẹ đã khuất, vừa dễ dàng giúp người đọc thâm nhập vào mạch cảm xúc của bài thơ. Trong khổ thơ này, hình ảnh người mẹ xuất hiện nổi bật cùng với hình ảnh “nắng mới reo ngoài nội”, với chiếc áo đỏ “đưa trước dậu phơi”. Màu vàng của nắng và màu đỏ của áo khiến hình ảnh người mẹ thêm phần rực rỡ. Mà nắng mới trong ngày xưa có mẹ cũng thật khác với nắng mới bây giờ mồ côi. Nắng “reo ngoài nội” chứ không “hắt bên song”. Ánh nắng ấy reo vui ngoài nội cỏ chứ không hắt hiu bên song cửa như nắng bây giờ. Phải chăng sự khác biệt của cảm xúc thơ đã làm thay đổi cả tính chất vốn có của sự vật tự nhiên, khiến “nắng mới” cũng thật đầy tâm trạng mà tỏa sáng, tỏa nhiệt?

Đến khổ thơ thứ ba, nhân vật trữ tình lại trực tiếp xuất hiện để bộc lộ cảm xúc về mẹ: “Hình dáng me tôi chửa xóa mờ- Vẫn còn mường tượng lúc vào ra”. Nhiều năm đã trôi qua, đứa trẻ lên mười năm nào nay đã lớn, mẹ cũng đã khuất từ lâu, nhưng hình ảnh mẹ vẫn còn vô cùng sống động trong kí ức của người con, vẫn như là mẹ còn sống, vẫn vào ra nói cười. Và trong kí ức ấy, hình ảnh đẹp nhất về mẹ đã được lưu giữ lại: “Nét cười đen nhánh sau tay áo- Trong ánh trưa hè trước giậu thưa”. Nét cười được miêu tả bằng thủ pháp ẩn dụ hiện lên thật đẹp, thật gợi cảm. Đó là nụ cười tỏa nắng của những người phụ nữ có hàm răng đen nhánh, hàm răng đẹp trong quan niệm văn hóa cổ truyền của người Việt. Nụ cười ấy càng sáng hơn trong ánh trưa hè lấp lóa. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, Hoàng Cầm cũng từng miêu tả một nét cười như thế “Những cô hàng xén răng đen- Cười như mùa thu tỏa nắng”. Kí ức của người con vĩnh viễn lưu lại nụ cười của mẹ. Để mỗi lần “nắng mới” xuất hiện, nụ cười ấy lại tỏa sáng trong lòng con.

Đúng như tứ thơ mà ngay từ ban đầu nhan đề đã gợi ra, hình ảnh nắng mới xuyên suốt bài thơ, dẫn mạch cảm xúc đi từ hiện tại về quá khứ rồi quay trở lại hiện tại với lời khẳng định nỗi nhớ dành cho mẹ. Với lời khẳng định ấy, hình ảnh người mẹ sẽ sống mãi trong trái tim nhân vật trữ tình, dù đó là cậu bé Lư năm mười tuổi hay là nhà thơ Lưu Trọng Lư.

Bài thơ được làm theo thể thơ bảy chữ, gieo vần chân. Ở khổ một các tiếng “song”- “không” bắt vần với nhau; ở khổ hai là các tiếng “thời”- “mười”-“phơi”; khổ ba không có tiếng bắt vần nhưng đảm bảo thanh bằng ở chữ cuối của các câu 1,2,4 khiến cho nhạc điệu thơ vẫn êm đềm, dịu dàng. Sự liền mạch của vần điệu đã giúp nhà thơ diễn tả được dòng hồi ức về mẹ thật tự nhiên.

Hình ảnh thơ không nhiều, chủ yếu tập trung vào hai hình ảnh là nắng mới và mẹ, được triển khai nhất quán qua ba khổ thơ và được miêu tả thật gợi cảm, sinh động. Sự gắn liền giữa “nắng mới” và “mẹ” đã giúp cho nhà thơ dễ dàng dẫn dắt cảm xúc thơ đi về giữa hiện tại và quá khứ, bởi mẹ tuy không còn nữa nhưng nắng mới thì hè nào cũng lên, và cũng gợi nhắc về mẹ.

Bài thơ không sử dụng nhiều biện pháp tu từ, đáng chú ý nhất là biện pháp ẩn dụ trong hình ảnh “nét cười đen nhánh sau tay áo”. Ẩn dụ đã biến nét cười từ chỗ chỉ có hình dáng trở thành có màu sắc, mà lại là một màu sắc thật đặc biệt: màu đen nhánh. Màu sắc ấy gợi ra một nét đẹp rất truyền thống của người phụ nữ xưa: nét đẹp của hàm răng đen, nét đẹp từng là một trong số “mười thương”: “Một thương tóc bỏ đuôi gà- Hai thương ăn nói mặn mà có duyên- Ba thương má lúm đồng tiền-Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua”. Trong kí ức của Lư, nụ cười tỏa nắng ấy là một vẻ đẹp vĩnh viễn của mẹ, dù thời gian có trôi qua bao lâu đi chăng nữa thì mẹ vẫn mãi mãi đẹp trong mắt con.

Trong phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư nổi lên với một tiếng thơ sầu và mộng. Sầu thì là ngôi nhà chung của người nghệ sĩ lúc bấy giờ. Còn mộng thì là “căn bệnh chung” của nhiều thi sĩ. Huy Cận là người “đi lượm lặt từng chút buồn rơi rớt trong vũ trụ để rồi dệt nên những vần thơ ão não”, Xuân Diệu mới đầu vui bao nhiêu, say đắm bao nhiêu thì sau lại bơ vơ, lạnh lẽo bấy nhiêu. Thế Lữ mơ thoát lên tiên, mộng làm con hổ trong vườn bách thú. Chế Lan Viên ôm một “tinh cầu giá lạnh” để thở than một mình… Thế nhưng cái lối sầu và mộng của Lư vẫn có nét riêng khác biệt. Trong cái sầu của Lư không có cái sầu của vũ trụ, cái sầu của thế gian rộng lớn mà chỉ có cái sầu của một cá nhân, gắn với một kí ức cụ thể. Như trong bài “Nắng mới” này, cái sầu ấy gắn liền với nỗi niềm tiếc nuối, nhớ thương người mẹ đã khuất của chính nhà thơ. Trong cái mộng của Lư lại cứ có thêm cái gì đó thật huyền ảo, lãng mạn. Đó là chất huyền ảo trong “Tiếng thu”, trong “tiếng trăng mờ thổn thức”, trong “tiếng thu kêu xào xạc”. Cứ có một cái gì đó vừa hư vừa thực hiện ra trong thế giới nghệ thuật của Lư. Trong bài “Nắng mới” này, cái hư thực ấy nằm ngay trong câu cuối của khổ thơ đầu “Chập chờn sống lại những ngày không”. Rồi với hình ảnh ở kết bài- hình ảnh nét cười đen nhánh của người mẹ- người đọc đột nhiên có cảm giác mơ hồ: không biết mình còn đang ở trong kí ức ngày xưa của Lư hay đã quay về thực tại?

Mà bản thân hình ảnh “nắng mới” cũng được Lưu Trọng Lư miêu tả thật đặc biệt. Nắng trong Thơ mới xuất hiện ở nhiều bài thơ. Đó là cái “nắng chang chang” trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, là “Lá nõn nhành non ai tráng bạc” trong thơ Nguyễn Bính, … Riêng Hàn Mặc Tử còn có “Đây thôn Vĩ Dạ” với một màu nắng mới thật đẹp: “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”. Với thi nhân nào, hình như nắng mới cũng giữ được tính chất vốn có của nó: ấm áp, hồng hào, tinh khôi, mới mẻ. Chỉ có đến thơ Lưu Trọng Lư, thứ nắng ấy mới trở nên nhàu nhĩ, héo úa bởi nỗi buồn không còn mẹ và kí ức của “những ngày không”. Một sự vật của tự nhiên bên ngoài, khi đi vào thế giới thệ thuật của thơ có thể trở nên đầy khác biệt, mang cảm nhận chủ quan của người viết. Đó chính là cái mà giới phê bình vẫn gọi là một dạng “vân chữ” của nhà thơ.

Lưu Trọng Lư nằm trong số những thi nhân vinh dự được điểm danh trong tập “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân. Thật ra thì chỉ cần một vài tác phẩm như “Tiếng thu”, “Nắng mới”, Lư đã có thể khẳng định địa vị nhà thơ của mình một cách chắc chắn. Riêng với bài thơ “Nắng mới” này, cõi thơ sầu mộng của Lư đến được gần với tâm tư của người đọc nhất, vì nó chạm đến một nỗi niềm cảm xúc mà ai cũng có: tình mẫu tử. Lời thơ không chút cầu kì, hoa mĩ mà vẫn làm xao động bao tâm tư. Gấp trang thơ lại rồi, người đọc vẫn thấy bận bịu vô cùng vì nỗi lòng mà người thi sĩ trải ra trên trang giấy.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Dưới bóng hoàng lan

Tác giả - tác phẩm: Nắng mới

Tác giả - tác phẩm: Bình Ngô đại cáo

Tác giả - tác phẩm: Thư lại dụ Vương Thông

Tác giả - tác phẩm: Bảo kính cảnh giới – bài 43

Đánh giá

0

0 đánh giá