TOP 18 bài Thuyết minh về một phương pháp cách làm 2023 SIÊU HAY

11.4 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết minh về một phương pháp cách làm hay nhất, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức cho bài thi sắp tới. Mời các bạn đón xem:

Thuyết minh về một phương pháp cách làm

Dàn ý Thuyết minh về phương pháp cách làm

1. Mở bài

  • Giới thiệu về diều giấy và cách làm diều giấy

2. Thân bài

- Giới thiệu về nguồn gốc diều giấy

  • Diều giấy có nguồn gốc ở Trung Quốc
  • Chủ yếu xuất hiện ở các nước vùng Đông Nam Á
  • Ở Việt Nam diều giấy thường có mặt ở các vùng quê đồng bằng

- Giới thiệu cấu tạo của diều giấy

  • Diều giấy được làm chủ yếu bằng tre, hóp hoặc nứa và giấy
  • Diều gồm ba phần: đầu diều có thể đeo sáo hoặc không, thân diều làm bằng túi nhựa có dán giấy có thể có nhiều hình thù khác nhau, đuôi diều có thể có hoặc không.
  • Dây thả diều có thể bằng chỉ hoặc len, dây dù, dây cước

- Cách làm diều giấy:

  • Chọn tre làm khung diều
  • Đo túi nhựa nilon và cắt giấy làm áo diều
  • Đục sáo, làm đuôi
  • Lắp diều và thả diều

- Ý nghĩa của diều giấy

  • Thả diều là trò chơi dân gian thú vị và
  • Thả diều là nét đẹp văn hóa dân gian của Việt Nam

3. Kết bài

  • Cảm nghĩ của em về chiếc diều giấy

Top 8 bài Thuyết minh về một phương pháp cách làm 2022 hay nhất (ảnh 1)

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 1

Chẳng biết có từ khi nào, nhưng những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những một phần không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị. Những trò chơi dân gian gắn liền với tuổi thơ của mỗi chúng ta mà khi lớn lên, đi xa, chúng ta vẫn luôn nhớ về quê hương với những kỷ niệm đẹp đẽ tuyệt vời ấy. Trong những ký ức tuyệt đẹp ấy, có lẽ cánh diều là hình ảnh gắn liền với tuổi thơ của nhiều người nhất.

Trò chơi thả diều có nguồn gốc xuất phát từ Trung Hoa. Ông tổ của trò chơi thả diều là Lỗ Ban. Người Trung Hoa cổ xưa thường có tục lệ thả diều vào những ngày tiết thanh minh với quan niệm cánh diều có thể xua đuổi tà khí. Ban đầu, diều được làm từ gỗ, sau này nó được làm bằng tre nứa và bọc bằng giấy.

Thả diều ngày nay được xem như một trò chơi, nhưng ngày xưa, nó mang khá nhiều ý nghĩa. Diều được xem là một công cụ cầu an của những nhà sư. Diều còn được xem là vật dâng hiến lên đấng thần linh các trong các nghi lễ của vua chúa, quần thần vào dịp lễ lớn. Trong quân sự, diều còn được sử dụng như một công cụ dùng để truyền tin, Ngày nay, cánh diều mang ý nghĩa như một vật để con người ký gửi những ước mơ, hoài bão với hy vọng những ước mơ ấy sẽ theo cánh diều bay cao, bay xa đến một chân trời mới.

Hiện nay, diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất là nilon bởi diều được làm bằng vật liệu này không những có thể bay dễ dàng bởi chất liệu nhẹ, mà còn làm ra được những màu sắc hình dạng rất đẹp và rất bền, có thể sử dụng được thời gian lâu. Màu sắc, hình dạng và kích thước của diều vô cùng đa dạng. Bạn có thể lựa chọn theo ý thích của mình. Diều truyền thông có dạng hình bầu dục, làm bằng giấy, nhưng càng ngày những mẫu mã diều đã đa dạng hơn: có diều hình dạng các con vật ngộ nghĩnh trong phim hoạt hình, có diều hình công, phượng,... với đủ các kích thước khác nhau.

Top 18 bài Thuyết minh về một phương pháp cách làm 2022 hay nhất (ảnh 2)

Những loại diều sặc sỡ màu sắc được bày bán dành cho những người chơi không biết cách tự làm hoặc không khéo léo. Ưu điểm của những loại diều này ngoài tiện lợi và nhanh chóng chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng. Nhưng đối với những đứa trẻ ở quê thì vẫn ưa chuộng chơi diều tự làm bằng giấy. Cảm giác tự tay làm chiếc diều mình yêu thích rồi thả chúng lên bầu trời tạo ra những kỷ niệm không ở đâu có được.

Loại diều giấy này không những được làm bằng những chất liệu sẵn có mà còn có ý nghĩa bảo vệ môi trường, khi mà vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng. Các bạn có thể tận dụng tập giấy không còn sử dụng nữa để tạo ra chiếc diều cho riêng mình. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa gió đến.

Thả diều là trò chơi dân gian sử dụng sức nâng của gió, bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp. Đó là một bãi đất rộng thoáng không có cây cối, dây điện hay nhà cửa và quan trọng là phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để cùng nhau thả diều cùng nhau thì mới vui.

Những cánh diều thi nhau bay lên không trung sẽ tạo cho chúng ta những cảm giác sảng khoái không thể nào quên. Khi có gió thì một người cầm diều chạy ngược hướng gió một người thả dây hoặc chúng ta có thể tự làm cả hai việc đó được mà không cần ai khác. Khi thả diều ta chọn đúng hướng gió, khi có gió ta ta thả diều thật nhẹ cho thật cân.

Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm được gọi là diều quạ. Khung diều thường được làm từ tre hoặc trúc. Giữa khung diều là một xương sống bằng tre cứng và to bản to, nhô ra hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm.

Khung của chiếc diều phải thật cân đối và nhẹ thì diều mới có thể bay dễ dàng. Diều được phất bằng giấy bản, bôi hồ dán nhiều lớp. Sáo diều được tạo ra bằng cách xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng khoảng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, bao gồm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng chỉ những người khéo tay mới làm được.

Ngày trước, dây neo thường được người dân sử dụng dây mây, sợi dây nhỏ, đập dập rồi xoắn lại với nhau tạo thành dây neo. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều. Sau này, cùng với sự phát triển của xã hội, dây dù và dây nilon được sử dụng để làm dây neo cho diều.

Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những vùng trời thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Chúng ta khó mà nhìn thấy hình ảnh cánh diều chao liệng trong một khung trời lộng gió trong những buổi chiều nắng nhàn nhạt nữa.

Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn quan tâm với những cánh diều truyền thống. Song, hình ảnh cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng của những đứa trẻ non nớt sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ.

Thả diều là một trò chơi đã cùng đi với chúng ta trong suốt những năm tháng trẻ thơ. Cánh diều được tôn vinh là một nét đẹp của đất nước khi nó được tạo ra hẳn một lễ hội riêng, đó là các lễ hội diều ở các thành phố biển như Nha Trang, Đà Nẵng, Vũng Tàu,... Dù xã hội ngày càng hiện đại kéo theo sự lu mờ của trò chơi này, nhưng cánh diều luôn là một biểu tượng đẹp đẽ mang theo những ước mơ, hy vọng và cả những kỷ niệm một thời ngây ngô khờ dại. Những ai đã từng nếm trải cảm giác tự tay chuốt tre, dán giấy, làm ra một chiếc diều và thả nó bay vút lên trời cao cùng với những chắc chắn sẽ hiểu cảm giác lâng lâng khó tả trong những buổi chiều ấy.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 2

"Diều giấy" tên gọi thân thương gợi nhớ về những ký ức tuổi thơ của bao thế hệ trẻ em Việt Nam, những cánh diều đã gắn liền ngày tháng thơ ấu cùng nhau đi chăn trâu thả diều, chứng kiến sự lớn lên, bước đi trưởng thành của mỗi con người. Cánh diều mộc mạc đơn sơ nhưng lại mang giá trị to lớn về tinh thần, hồi nhỏ ai chẳng từng một lần làm chiếc diều giấy rồi viết những ước mơ hoài bão gửi gắm con diều mang ước mơ đó bay cao, bay xa.

Video bài giảng: Thuyết minh về phương pháp cách làm

Chẳng cần phải học qua trường lớp, chẳng ai mở lớp dạy làm diều giấy, cứ thế hệ đi trước truyền lại cho thế hệ đi sau, đứa trẻ này học đàn anh đàn chị hoặc những bạn bè trang lứa khác, thế là ai cũng biết làm diều giấy, ai cũng tự mình làm chiếc diều rồi đem thả mỗi chiều lộng gió. Diều giấy đã có từ rất lâu, nguồn gốc của diều giấy bắt nguồn từ Trung Quốc, từ thời cổ đại của người Trung Hoa đã có thú vui thả diều, chiếc diều đầu tiên được làm bằng gỗ vào thời kỳ Xuân Thu, đến thời nhà Hán thì xuất hiện diều giấy. Ngày nay diều giấy có mặt ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, ta thường bắt gặp diều giấy ở những vùng quê nông thôn đồng bằng, duyên hải ven biển, ít thấy ở trong thành phố hay vùng miền núi. Một chiếc diều giấy có cấu tạo rất đơn giản, gồm phần khung được làm bằng que tre, nứa, hóp đã vót sẵn, cùng với túi nilon hoặc giấy làm áo diều. Tổng thể một chiếc diều chia làm ba bộ phận: đầu diều là chỗ đeo sáo diều, thân diều làm bằng túi nhựa có dán giấy có thể có nhiều hình thù khác nhau, và cuối cùng là đuôi diều. Dây dùng để thả diều phải có độ bền, dai nhất định nhưng cũng phải nhỏ và nhẹ, đa số thường dùng dây chỉ, dây dù hoặc dây cước để thả diều. Quá trình làm diều khá công phu và mất nhiều thời gian, nhất là công đoạn chặt tre, vót ve uốn thành khung diều. Tre vót phải đều, không quá nhỏ để khung diều được chắc chắn, cố định khi đối mặt với gió to, khi uốn khung cánh diều cũng phải tinh chỉnh sao cho các cánh của diều cân đối không bị lệch, có như vậy khi bay lên diều không bị chao đảo. Tiếp theo là đo, cắt và khâu áo diều, chọn áo diều bằng giấy hoặc nilon rồi đo bằng kích thước của khung diều, dùng chỉ khâu áo diều vào khung diều thật chắc chắn, có khâu chắc lớp áo diều mới cản gió tốt. Làm xong khung và áo diều là cơ bản xong một chiếc diều giấy, những phần phụ như sáo và đuôi có thể có hoặc không có, sáo diều làm bằng ống tre, trúc, có đục lỗ sao cho khi gió thổi sẽ phát ra âm thanh vi vu trầm bổng. Sau khi làm xong diều ta buộc dây diều vào vị trí mặt trong của diều, buộc dây vào trọng điểm của diều để giữ cân bằng diều khi thả. Người chơi diều giấy sẽ tận dụng sức gió để đưa diều lơ lửng lên không trung, diều bay càng cao thì càng đẹp và khó rơi xuống, những nơi lý tưởng nhất để thả diều là trên cánh đồng rộng rãi, bờ biển với điều kiện nhiều gió. Thú vui thả diều được cho là đem lại sự thư giãn, thoải mái, về phương diện văn hóa ở nhiều nước còn thả diều để xua đuổi điều xấu, cầu mong điều tốt, ví dụ như ở Thái Lan còn có lễ hội đấu diều, thả diều còn được coi như một nghi lễ để cầu mùa của người nông dân.

Diều giấy nói riêng và thả diều nói chung không đơn giản chỉ là thú vui tao nhã của trẻ thơ và mọi người mà hơn thế đó là nét đẹp trong văn hóa dân gian của Việt Nam, giá trị tinh thần đẹp đẽ của dân tộc, chúng ta phải cùng nhau gìn giữ và phát huy nét đẹp đó, phải làm sao để tuổi thơ của những đứa trẻ luôn có bóng dáng con diều, cánh diều vi vu.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 3

Diều ở Đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là diều hình thuyền, hay còn gọi là diều trăng, kích thước rất khác nhau, nhỏ từ 1 m, to thì 3 đến 5m, cá biệt lên đến 8 m (cái này nếu gặp gió có thể nhấc bổng cả một đứa trẻ). Đầu vụ hè, tre hơi già (bắt đầu ngả màu vàng) được đốn, cây tre làm diều phải là cây vừa tầm, không quá cao vì những cây này thường mềm, và không quá thấp, và không được quá nhiều cành. Tre hạ xuống, được pha làm nhiều khúc tùy thuộc vào kích thước diều định làm, phơi trong nắng nhạt khoảng 5 – 7 nắng cho bớt nước là có thể chuốt được rồi.

Vót cọng diều là cả một quá trình, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của con diều. Cọng nếu vót quá nhỏ, diều sẽ dễ lên nhưng nếu gặp gió cả sẽ bị chao. Nếu to quá, diều sẽ rất khó ăn gió. Cọng diều được vót thuôn nhỏ về hai đầu, dễ bắt gió nhưng vẫn đủ độ cứng khi gặp gió cả. Hai cọng diều không nhất thiết phải bằng nhau nhưng mỗi cọng bắt buộc phải đối xứng nhau. Để kiểm tra sự đối xứng của cọng diều người ta thường lấy một sợi dây không co giãn, kéo cọng theo một mức nhất định và quan sát.

Có những chuẩn mực nhất định khi lên khung: Chiều dài diều thường gấp 3 lần chiều ngang. Độ cong của diều thường phụ thuộc vào con mắt của người dựng nhưng thường vào khoảng 15 đến 20 độ. Khung diều phải cân nếu không diều sẽ bị chao.

Video bài giảng: Thuyết minh về phương pháp cách làm

Khung đã lên xong, bây giờ đến công đoạn phất diều, có nhiều chất liệu khác nhau có thể dùng để phất diều, phổ biến là giấy bản, hiện nay diều được phất chủ yếu bằng nilon. Diều phất phải vừa căng nhưng không được kéo khung, mép khâu phải đều cân xứng.

Buộc lèo là một công đoạn rất quan trọng. Độ dài của lèo được tính bằng hai lần chiều ngang diều tức là 2/3 chiều dài diều, mối nối giữa lèo và dây diều có thể điều chỉnh được để tuỳ thuộc vào gió và độ cao mong muốn mà chỉnh lèo. Sáo diều được làm từ ruột nứa hay cật tre đan phết sơn, lỗ sáo được khoét từ những loại gỗ nhẹ và không co giãn như gỗ mít.

Một bộ sáo thường có từ 3 đến 5 sáo để tạo ra các âm vực khác nhau, từ tiếng thanh của sáo nhỏ đến tiếng trầm của sáo to. Diều thường được thả ở cánh đồng đầu làng, sau đó được dắt về nhà của gia chủ hay đầu làng. Một cánh diều tiêu chuẩn là tiếng sáo phải rõ, trong, cánh diều phải đứng không chao, dây không được trùng.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 4

Chẳng biết có từ khi nào nữa mà những trò chơi dân gian cứ dần dần rồi dần dần trở thành những trò chơi không thể thiếu đối với tất cả những đứa trẻ không chỉ ở thôn quê mà còn ở thành thị nữa. Những trò chơi dân gian chẳng phải chỉ dành cho trẻ em mà nó dành cho tất cả mọi lứa tuổi. Nói đến những trò chơi dân gian ta không thể không nhắc đến một trò chơi gắn liền đối với chúng ta đó là trò chơi thả diều.

Diều được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như bằng giấy, vải hay bằng nilon. Nhưng được ưa chuộng nhất là nilon bởi là bằng vật liệu này diều không những có thể làm được những màu sắc hình dạng rất đẹp mà còn rất biền sử dụng được thời gian lâu. Tùy vào màu sắc và hình dạng ta có thể chọn rất nhiều loại diều với những hình dạng phong phú, người chơi có thể chọn được tùy theo ý thích của mình. Đó là đối với những loại diều dùng để sản xuất bán cho người chơi không thể chuẩn bị được hay không làm được. Ưu điểm của những loại diều này chính là mẫu mã rất đẹp lại phong phú đa dạng rất hợp mắt người chơi. Nhưng đối với những trẻ em ở quê thi lựa chọn số một vẫn là diều làm bằng giấy. Đối với loại diều này thì chất liệu làm ra rất đơn giản hợp với môi trường và sẵn có. Các em có thể tận dụng tất cả những giấy vở đã không dùng nữa để làm. Đối với những em nhỏ ở quê thì diều giấy không thể thiếu được khi mỗi mùa hè đến. Những cánh diều giấy nhẹ nhàng vút cao lên đến tận mây xanh khiến cho chúng ta như đang được bay lên cao cùng diều cùng với gió mới thật thú vị biết nhường nào.

Thả diều là trò chơi dân gian dựa theo sức nâng của gió bởi thế để thực hiện được trò này trước tiên chúng ta cần phải chọn được địa điểm thích hợp.

Đó là một bãi đất rộng thoáng không vướng cây cối hay vật chắn nào đó xa lối đi và phải có gió nhẹ. Và chúng ta cũng đừng quên những người bạn để cùng nhau thả diều thì mới vui. Những cánh diều thi nhau bay lên không chùn sẽ tạo cho chúng ta những cảm giác thăng hoa rất sảng khoái. Khi có gió thả diều thì một người cầm diều một người thả dây hoặc chúng ta có thể làm cả hai việc đó được mà không cần ai khác. Khi thả diều ta chọn đúng hướng gió, khi có gió ta ta thả diều thật nhẹ cho thật cân.

Cánh diều thường có hình trăng hoặc hình lưỡi liềm hay còn gọi là diều quạ. Khung diều thì thường được làm bằng cật tre bánh tẻ chuốt tròn và nối với nhau. Giu khung diều là một xương sống bằng tre cứng to bản to nhô ra bên Hai bên cánh diều cong lên tạo thành khung diều hình lưỡi liềm.

Chiều cong của cánh diều phải thật cân đối, khung diều phải chắc chắn và nhẹ. Diều được phất bằng giấy bản, bồi thành nhiều lớp bằng hồ dán. Sáo được xâu lại bằng một thanh tre đặt chéo góc ước chừng ba mươi độ với xương sống diều. Sáo thường làm bằng ống nứa, chia làm hai khoang, đầu gắn nắp hình vòm xẻ rãnh để gió lùa vào tạo nên âm thanh. Diều sáo trông đơn giản nhưng phải khéo tay mới làm được. Ngày trước chưa có loại dây dù, nilon nên dây neo thường là dây mây, sợi nhỏ được đập dập, xoắn lại rồi thắt nối thành sợi dây dài chừng dăm bảy trăm mét. Chẳng may dây neo mà đứt, cánh diều theo gió cuốn xa, thật xa, mang theo cả niềm tiếc nuối của người thả diều. Ngày nay, trước sự phát triển của nhịp sống hiện đại, các nhà máy, các dự án khu công nghiệp, dịch vụ thi nhau mọc lên. Những không gian thoáng đãng, lộng gió ở các vùng nông thôn đang dần bị thu hẹp, thú chơi thả diều cũng vì thế mà bị mai một. Bên cạnh đó, sự lấn át của các phương tiện giải trí hiện đại như: trò chơi điện tử, internet đã khiến cho không ít trẻ em không còn mặn mà với những cánh diều truyền thống. Song cánh diều ngày xưa của tuổi thơ hồn nhiên đầy ước vọng ngày thơ sẽ mãi vẹn nguyên trong tâm thức chẳng thể phai mờ.

Trò chơi thả diều sẽ mãi là một trò chơi là thú vui của nhiều người trong những ngày hè oi ả. Những ngày gió to ta đem diều ra thả chúng ta sẽ có những phút giây thật thú vị bình yên cùng cánh chim và một mảng xanh biêng biếc của bầu trời.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 5

Hầu như ai còn nhỏ cũng đã từng chơi diều giấy, không chỉ những đứa trẻ ở nông thôn mà thành phố cùng được sắm những chiếc diều giấy để chơi khi đi dã ngoại cùng bạn bè, trường lớp.

Chiếc diều giấy trông lộng lẫy như vậy nhưng thực chất cách làm diều giấy không hề khó, từ xưa các phụ huynh cũng đã tự làm cho con chơi, nhưng cũng chỉ đơn thuần với những kiểu diều giấy truyền thống. Vậy trong bài này, chúng tôi hướng dẫn cách bạn cách làm diều giấy đơn giản với dáng diều màu sắc và có phần lung linh hơn.

Chuẩn bị đồ nghề để học cách làm diều giấy đẹp nhé:

  • Thanh tre đã vót
  • Dây cước
  • Hồ dán
  • Thước, kéo
  • Dao rọc giấy
  • Bút chì

Đầu tiên, để làm diều giấy bạn hãy dùng bút chì vẽ một hình vuông 40 cm x 40 cm và cắt ra bằng kéo.

Sau đó tiếp tục cắt những dải dây bằng giấy có kích thước 4cm x 60 cm.

Sau khi làm xong các dải giấy làm đuôi diều thì bạn tiến hành làm diều giấy bạn đo và cắt một thanh tre dài hơn đường chéo hình vuông khoảng 5 cm. Tiếp theo, bạn uống cong một phần thanh tre nằm trong tờ giấy và cắt giữ lấy phần này. Sau đó dùng dây căng nối 2 đầu thanh tre này để giữ độ cong của nó. Lúc này nó có dạng một cánh cung.

Ở bước 3, bạn hãy dùng những mẩu giấy nhỏ 3cm x 25 cm để tạo thành đuôi móc xích cho con diều của bạn nhé nhớ là làm cho độ dài nó hơn 60cm nhé.

Bạn hãy khoét 2 lỗ 2 bên thanh tre thẳng ở phía đuôi của con diều, và 2 lỗ ở vùng giao nhau giữa thanh tre và chiếc cung diều.

Sau đó dùng dây buộc nối chúng lại và nối với dây kéo bên ngoài sao cho khi kéo ra thì ta có một tam giác vuông tại điểm kéo là bạn đã hoàn thành rồi đấy.

Chỉ trong nháy mắt, bạn đã có ngay chiếc diều giấy tuổi thơ đẹp mắt rồi. Diều giấy như món quà giúp bạn nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ của mình: từng một thời chăn trâu, cắt cỏ, thả diều bay cao…cách làm diều giấy không hề khó, chỉ cần những nguyên liệu đơn giản sẵn có, bạn hoàn toàn có thể tự làm cho bé nhà mình những chiếc diều giấy với nhiều màu sắc đẹp mắt.

Hiện nay diều làm sẵn được bày bán rất nhiều, song tự làm diều giấy tại nhà cũng là cách để bạn ôn lại kỷ niệm tuổi thơ và cũng là món quà handmade ý nghĩa để tặng cho các bé nhà mình. Mùa hè là mùa của diều giấy, chong chóng quay, đừng ngại ngần mà không làm ngay một chiếc diều giấy sắc màu để bé thỏa thích thả chúng bay thật cao nhé!

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 6

Thả diều là trò chơi dân gian phổ biến không chỉ ở nông thôn mà những đứa trẻ thành phố cũng rất yêu thích. Thả diều giúp thư giãn và tiêu khiển rất bổ ích mỗi khi rảnh rỗi.

Diều khi xưa chủ yếu làm bằng giấy nhưng ngày nay sử dụng nhiều chất liệu khác như vải, nilon. Hôm nay mình sẽ giới thiệu cho các bạn cách làm một con diều giấy đơn giản, dễ làm nhất. Trước tiên hãy chuẩn bị dụng cụ gồm có 2 thanh tre dài 50cm, 6 tờ giấy khổ 30 x 30cm, kéo, keo, băng dính, dây, dao. Sau khi chuẩn bị đầy đủ dụng cụ bắt đầu vào thực hiện.

Lấy thanh tre dài hơn đường chéo hình vuông khoảng 5cm. Uốn cong thanh tre nằm trong tờ giấy và cắt giữ lấy phần này. Dùng một sợi dây cước căng nối hai đầu thanh tre để giữ độ cong. Thanh tre và sợi dây thành hình cánh cung. Sử dụng hồ dán những mẩu giấy nhỏ dán thanh tre dài ở trên vuông góc với cánh cung ở dưới vào con diều. Dán sao cho chắc chắn để cố định mép diều.

Công đoạn tiếp theo là dán đuôi diều và cánh diều, làm đuôi diều rất dễ chỉ cần cắt giấy nhỏ hình tròn, sau đó móc chúng vào nhau tạo thành đuôi móc xích. Mỗi đoạn móc xích khoảng 40 – 50cm. Đoạn đầu hãy dán vào phần góc dưới của con diều.

Dùng những miếng giấy dài dán vào 2 phía của diều, luồn sợi chỉ qua thanh tre ở phía trên, chỗ giao nhau giữa cánh cung và chiếc diều, dùng sợi chỉ buộc lại cho chắc chắn như vậy là hoàn thành phần đuôi con diều.

Khi làm diều nên chú ý nếu diều không cân diều bay dễ lảo đảo. So với diều vải, ni lông thì diều làm giấy dễ rách, dễ bị thấm nước nên khi chơi phải bảo quản tốt, không nên để chỗ ẩm ướt, tránh va đập vào vật nhọn sẽ bị rách và không chơi được nữa.

Một số hướng dẫn đơn giản nhất về cách làm diều giấy hi vọng các bạn thực hiện thành công. Thả diều giúp thư giãn, giải trí, cánh diều bay lên hình ảnh đẹp và xua tan đi mệt mỏi, muộn phiền trong cuộc sống.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 7

Từ bao đời nay, Việt Nam đã nổi tiếng với khá nhiều những trò chơi dân gian. Ở thời buổi công nghiệp đang phát triển một cách nhanh chóng như bây giờ thì có lẽ những thú vui trong những lúc mệt mỏi, căng thẳng là rất quan trọng. Một trong số những thú vui ấy phải nói đến trò chơi thả diều.

Thả diều là trò chơi dân gian mà ông cha ta đã để lại bao đời nay. Đó là một thú vui tao nhã, một trò chơi làm con người ta xua tan đi bao mệt nhọc. Nhưng hầu hết trò chơi này chỉ còn thịnh hành ở một số vùng quê. Bây giờ khi xã hội đang phát triển các trò chơi xuất hiện hàng loạt. Các món đồ chơi hiện đại có thể đã thay thế những chiếc diều thả. Hay các loại diều với đủ kiểu dáng, màu sắc có đầy trên thị trường. Nhân đây tôi muốn giới thiệu về cách làm một con diều giấy đơn giản.

Diều có thể làm bằng vải, giấy, nilon. Nhưng tôi muốn giới thiệu cho các bạn cách làm một con diều giấy quen thuộc và dễ làm nhất đối với học sinh chúng ta. Các dụng cụ để làm một con diều giấy gồm: 2 thanh tre dài 40-50cm, 6 tờ giấy khổ 30x30cm, kéo, keo, băng dính, dây, dao. Vậy là khâu chuẩn bị xem như xong.

Bắt tay vào làm, trước hết ta dùng dao vuốt 2 nan tre tròn, kích thước phải nhỏ, nhẹ nhưng phải dẻo dai tránh bị gãy. Lấy 1 tờ giấy rồi đặt 2 nan tre vào mặt tờ giấy tạo thành hình chữ ''x'' đối xứng với các đầu. Sau đó cắt phần còn thừa của thanh nan. Dùng băng dính dán 2 thanh nan vào con diều sao cho chắc chắn. Lấy 5 tờ giấy còn lại cắt thành những mảnh nhỏ có chiều dài 30cm, chiều rộng 5cm. Dính những mảnh giấy nhỏ lại với nhau thành 3 dây dài sao cho 2 dây bằng nhau khoảng 50cm và 1 dây dài 80 cm. Vậy là chúng ta đã làm xong đuôi diều. Tiếp theo ta đặt diều thành hình thoi rồi dán đuôi vào. Sao cho 2 đuôi nhắn dán, dán vào 2 góc bên của hình thoi, dây dài nhất dán vào góc dưới. Lấy 1 đoạn dây dài chừng 10cm buộc vào thanh nan thẳng đứng. Buộc 2 đầu dây sao cho nốt buộc đầu trên dài hơn về phía đầu diều. Tôi đã giới thiệu cách làm diều xong.

Nhưng các bạn nên nhớ làm diều phải cân nếu không diều sẽ bay không thăng bằng. Khi làm xong phải chỉnh diều và kiểm tra để tránh những sự cố đáng tiếc. Diều làm bằng giấy nên rất dễ rách chúng ta phải cẩn thận khi thả. Tránh để diều ở những nơi ẩm ướt. Khi chơi xong phải cuộn dây cẩn thận nếu không lần sau chơi diều sẽ dễ bị rối.

Tôi đã giới thiệu xong cách làm diều. Nếu ai chưa biết hoặc chưa từng chơi diều thì hãy thử khám phá. Đó là 1 thú vị mà ông cha ta để lại. Nó sẽ giúp bạn giảm đi mệt mỏi. Hãy giữ cho mình một chút gì đó rất Việt trong mỗi con người Việt Nam.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 8

Đặc sản Hà Nội có nhiều, Hà Nội là địa điểm nổi tiếng với ẩm thực hấp dẫn, không chỉ đối với du khách nước ngoài mà còn lôi cuốn người Việt Nam. Nhưng nhắc đến món ăn Hà Nội là người ta nhắc đầu tiên đến phở. Phở như một thứ đại diện mang tính bản sắc, đặc thù của món ăn Hà Nội. Lý do thật đơn giản phở Hà Nội khác hẳn các nơi khác, nó không thể trộn lẫn với bất cứ một thứ phở nơi nào, cho dù ở đó người ta đã cố tình trương lên cái biển Phở Hà Nội.

Không biết, phở Hà Nội có tự bao giờ, chỉ biết rằng, phở đã đi vào trang viết của rất nhiều nhà văn như: Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Băng Sơn hay Vũ Bằng,... Phở, dưới những ngòi bút ấy, gần như chẳng còn ai có thể tả hay hơn nữa, và cũng chẳng cần ai phải tốn công mà viết thêm về Phở nữa vì nó đã quá đủ đầy, đã quá nổi tiếng rồi.

Và cũng không biết từ bao giờ phở đã trở thành món ngon nổi tiếng và khi thưởng thức phở ở Hà Nội người ta mới thấy được hương vị truyền thống. Phở Hà Nội là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội đã có từ rất lâu.

Thạch Lam trong "Hà Nội ba 36 phố phường" viết: Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon". Phở ngon phải là phở "cổ điển", nấu bằng thịt bò, "nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả", "rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ". Vào thời những năm 1940, phở đã rất phổ biến ở Hà Nội: "Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối....

Nguyễn Tuân, nhà văn của "Vang bóng một thời" đã có một tùy bút xuất sắc về phở. Ông cho phở có một "tâm hồn", phở là "một miếng ăn kỳ diệu của tất cả người Việt Nam chân chính". Cố đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa lúc sinh thời kể rằng, có lần ông cùng Nguyễn Tuân đang ăn phở, một người yêu thích nhận ra nhà văn bước lại chào nhưng Nguyễn Tuân vẫn vục đầu vào ăn. Người kia chắc chắn mình không nhầm đã kiên trì chờ đợi. Hết tô phở Nguyễn Tuân mới ngẩng mặt lên bảo "Tôi đang thưởng thức nên không trả lời, anh thứ lỗi". Nhà văn không dùng chữ ăn mà dùng chữ thưởng thức.

Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cục, xương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là bò, hoặc gà. Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành lá, hạt tiêu, giấm ớt, lát chanh thái. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, người Hà Nội còn ăn kèm với những miếng quẩy nhỏ. Tuy nhiên, để có được những bát phở ngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của nghề nấu phở.

Trong món phở Hà Nội công đoạn chế biến nước dùng, còn gọi nước lèo, là công đoạn quan trọng nhất. Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị. Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh. Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo. Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào.

Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt...Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa. Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo.

Có thể nói, phở Hà Nội có cái ngọt chân chất của xương bò, cái thơm của thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai. Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thôi cũng đủ thấy cái chất sành điệu, kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy nhát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên.

Tất cả màu sắc đó như một bức họa lập thể hơi bạo màu nhưng đẹp mắt cứ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất thảy khả năng vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của đất trời và con người hợp lại. Chỉ húp một tý nước thôi đã thấy tỉnh người. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay dịu của gừng, cái cay nồng của ớt, cái thơm nhè nhẹ của rau thơm, cái thơm của thịt bò tươi mềm. Tất cả cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm nhẹ mà chân thật, tuyệt kỹ hài hòa.

Ta có thể thưởng thức nhiều hương vị phở tại Hà Nội. Có ba món phở chính: Phở nước, Phở xào, Phở áp chảo. Trong ba loại phở trên thì phở nước là phổ biến hơn cả. Phở nước gồm có: Phở Bò, phở Gà, phở Tim gan. Tuy nhiên, người sành điệu chỉ ăn phở chuộng nhất phở Bò, thứ đến là phở gà và không chấp nhận những loại phở khác.

Đối với du khách nước ngoài thì phở được coi là món ngon hấp dẫn và lạ miệng bởi sự tinh túy. Để thưởng thức phở ngon thì cần phải để phở trong bát sứ chứ không phải là bát thủy tinh hay bát nhựa. Bát đựng phở không được quá to hay quá nhỏ. Nếu bát quá nhỏ, nước dùng sẽ chóng nguội và không có đủ chỗ để thịt, rau thơm và gia vị. Nếu bát to quá thì chưa ăn hết một bát bạn đã thấy chán vì phở chỉ là một món ăn nhẹ hoặc món ăn thêm.

Khi ăn phở, một tay cầm đũa còn tay kia cầm thìa. Dùng đũa tre là thích hợp nhất vì nó giản dị và không bị trơn khi gắp bánh phở. Bàn ăn phở cần hơi thấp so với bình thường để nước dùng không vương vào quần áo bạn khi cúi xuống gắp sợi bánh phở lên ăn.

Trông bạn sẽ rất kỳ cục nếu bạn uống bia hoặc trà đá khi ăn phở. Tuy nhiên, bạn nhấm nháp một chén cuốc lủi để bát phở thêm ngon thì có thể chấp nhận được. Nhưng thường thì không dùng đồ uống hoặc các đồ ăn khác khi ăn phở, ăn như vậy mới càng thấy phở ngon.

Nếu có cơ hội đến với Hà Nội thì bạn nên thưởng thức hương vị phở đặc trưng này nhé! Phở Hà Nội là như thế, đó là cái ngon của tất thảy những chất liệu đời thường Việt Nam nhưng đã được bàn tay tài hoa của người Hà Nội làm thành tác phẩm!

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 9

Cứ vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hằng năm, mọi người lại làm bánh trôi, bánh chay. Đây là một phong tục cổ truyền rất quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.

Nguyên liệu để nấu bánh rất thông dụng, quen thuộc. Trước tiên, chúng ta phải có gạo nếp ngon. Có thể trộn thêm gạo tẻ nhưng gạo nếp vẫn phải chiếm đa số. Có gạo làm vỏ bánh, cần có thêm đường làm nhân để tạo vị ngọt cho bánh. Nhân bánh truyền thống là bằng mật có vị thơm đậm đà. Ngày nay, nhiều gia đình dùng đường phèn có vị thơm mát. Để làm nhân bánh chay, chúng ta cần đậu xanh xay nhuyễn. Ngoài ra, cần một ít vừng, cùi dừa để rắc lên hai loại bánh.

Cách làm bánh khá đơn giản. Đầu tiên là ngâm gạo khoảng 6 đến 8 tiếng sau đó vo gạo. Vo xong, đổ gạo ra xay nước. Chú ý là không được xay khô vì như thế sẽ làm vụn gạo và các hạt sau khi xay sẽ to nhỏ không đều nhau. Xay xong đổ tất cả bột vào túi vải, buộc chặt, lấy tay nén từ từ, nhẹ nhàng để vắt nước ra. Tránh ấn mạnh tay sẽ làm bung túi vải. Nén hết nước, ta sẽ có một thứ bột dẻo để làm vỏ bánh.

Tiếp theo sẽ là bước nặn bánh. Bánh trôi được nặn tròn, to vừa phải. Cho một viên đường vào trong, nặn bột bao kín để khi luộc, đường không chảy ra. Nhân bánh chay là đậu xanh được đãi sạch vỏ, đồ chín, xay nhuyễn. Bánh và nhân phải theo một tỉ lệ hợp lí. Không nên để bánh hay nhân quá to hoặc quá nhỏ sẽ làm mất ngon khi ăn.

Tinh tế nhất là luộc bánh. Đun sôi nước rồi mới thả bánh vào. Đợi đến lúc bánh nổi lên trên mặt nước, nhẹ nhàng vớt lấy rồi thả ngay vào nước sạch và lạnh. Nếu để nóng quá lâu bánh sẽ bị chảy, không dẻo và ngon.

Thưởng thức bánh trôi, bánh chay là cả một nghệ thuật. Bánh trôi được bày vào đĩa, rắc lên trên một lớp vừng mỏng và một chút sợi cùi dừa. Bánh chay được bày trong bát. Đun nước đường pha với bột sắn rồi chan ngập mặt bánh. Ở trên rắc một ít hạt đậu xanh chín xay vỡ đôi đã đãi sạch vỏ. Màu trong của bánh, của nước dùng hài hòa với màu vàng tươi của hạt đậu xanh trông thật đẹp mắt. Đây đều là hai loại bánh ăn nguội. Bánh trôi cho vào miệng, ngậm lại rồi cắn sẽ cảm nhận được vị ngậy của gạo, vị ngọt của đường. Còn bánh chay, dùng thìa xúc miếng bánh, cắn nhẹ sẽ thấy vị ngọt mát, thơm dẻo. Với cả hai loại bánh, nếu thích, có thể cho thêm chút tinh dầu hoa bưởi.

Bây giờ, người ta không tự làm bánh nhiều như trước mà phần lớn đều đi mua khi cần. Nhưng phải tự tay mình nấu rồi thưởng thức mới cảm nhận hết cái ngon của bánh. Bánh trôi, bánh chay sẽ mãi là hai món ăn truyền thống đặc sắc của người Việt Nam.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 10

"Anh về nơi xứ Quảng thăm người em phố Hội.
Sông Thu Bồn con nước lững lờ trôi.
Đường chùa Cầu mưa buồn giăng ngập lối.
Rừng thông xanh mưa thấm ướt bờ môi"

Nhắc đến miền đất Quảng Nam, người ta không chỉ nhớ đến mảnh đất từng một thời anh hùng trong chiến đấu, mảnh đất của bạt ngàn những rừng keo xanh mướt, nhớ đến một Hội An cổ kính rực rỡ đèn lồng, là chỗ dừng chân lý thú của nhiều du khách trong và nước. Mà người ta còn nhớ lắm Quảng Nam với một nền ẩm thực đặc sắc và đậm đà tình cảm giống hệt những con người nơi đây. Nếu như Hà Nội có phở, có cốm, Huế có cơm hến, bún bò, thì Quảng Nam cũng không thua kém với bánh tráng cuốn thịt heo và mì quảng. Trong đó tôi vẫn ấn tượng nhất với vùng đất Đà Nẵng - Quảng Nam ở món mì Quảng này, sợi gần như phở, nhưng hương vị thì quả thực khác xa.

Có thể nói rằng mì Quảng chính là linh hồn của ẩm thực xứ Quảng, người ta đến với vùng đất này thì khó có thể bỏ qua một món ăn có nhiều thanh sắc vị, lại rất bình dân thân thiện này được. Không ai biết được rằng mì Quảng đã bắt đầu trở thành một món ăn hấp dẫn và bầu bạn với những người con miền Trung từ thuở nào, chỉ có một số tài liệu còn chép lại thì có mì Quảng bắt nguồn từ sự giao thoa văn hóa Việt - Trung. Trung Quốc vốn là một đất nước có nền ẩm thực phong phú, đặc biệt là với các nguyên liệu từ lúa gạo người ta có thể biến tấu ra hàng trăm món khác nhau, mà các món mì lại càng chiếm ưu thế. Khi người Trung Quốc vào thành phố Hội An bởi các công việc giao thương, họ đã mang sang cả một chút ẩm thực dân tộc, mà người Việt ta thì chẳng bao giờ thôi không sáng tạo. Từ món mì truyền thống của họ ta cũng làm món mì của ta, nhưng hương sắc vị thì lại khác hẳn, ngon và hợp khẩu vị của dân tộc mình và sau nhiều đời thêm bớt, phát triển, ngày nay ta đã có một món ăn thật đặc sắc và đáng để nghiên cứu thưởng thức.

Tôi đã ăn mì Quảng nhiều lần, dường như nó đã từng một thời trở thành bữa ăn sáng nề nếp. Cái hương vị nồng nàn ấy cho dù đến sau này tôi hiếm còn có dịp ăn lại nữa thì vẫn khó mà có thể quên được. Một bát mì Quảng ngon, cũng giống như một bát phở ngon vậy, hai thứ quan trọng là nước lèo và sợi mì thì nhất thiết phải chỉn chu và kỹ lưỡng. Nước lèo phải có màu vàng nâu, óng ánh mỡ, vị hòa quyện của tôm, thịt ba chỉ và trứng cút nấu chung, nếm vào phải thấy hơi mặn, độ ngọt vừa phải, thêm một chút cay cay của ớt đỏ là ổn. Còn sợi mì bắt buộc phải trắng ngần, mỡ màng và sáng, không bị đứt gãy nhiều hay nát và cũng không dính chặt vào nhau. Bên cạnh hai thứ chính như vậy thì mì Quảng cổ truyền nhất thiết phải có thịt heo và trứng cút làm chủ, thêm vào đó là các gia vị phụ liệu mà tương truyền phải có đủ chín vị thì mới ngon bao gồm: Húng quế, xà lách tươi, rau cải non, giá đỗ, ngò rí, rau răm, hành hoa thái nhỏ, bụp chuối lát mỏng. Ngoài ra người nấu còn bày sẵn ớt, chanh và nước mắm để thực khách có thể thêm vào nếu thích. Ngày nay mì Quảng đã có nhiều biến thể để phục vụ nhu cầu của khách tứ xứ, mà thứ thay đổi chủ yếu chính là phần thịt trong mì Quảng, người ta có thể đổi thịt heo thành thịt gà, thịt ếch, tôm, cá lóc và thậm chí là cả thịt bò cho thêm phần phong phú. Đồng thời bớt đi một số món rau ăn kèm. Không giống như phở Hà Nội cái sự "cải lương" này của mì Quảng lại dễ khiến người dân nơi đây thích ứng và chào đón nhiệt liệt, hệt như cái cách mà họ đón khách từ tứ xứ tới làm ăn vậy.

Về cách làm thú thực mì Quảng là một món khá dễ chế biến, không quá cầu kỳ như khi nấu phở, nấu bún nhưng để có được một tô mì Quảng ngon lành thì người nấu ắt phải lành nghề và có nhiều kinh nghiệm nêm nếm nước lèo. Muốn nấu ngon thì công đoạn chọn nguyên liệu phải thật kỹ càng, sườn non chọn loại ngon, sụn không quá cứng hoặc quá mềm, chặt nhỏ, đem ướp bằng các gia vị như hành tím băm nhỏ, muối, ớt, tiêu, mì chính, nước mắm ngon, nước màu trong vòng 20 phút. Tôm chọn loại cỡ vừa sơ chế, rút chỉ đất ở lưng rồi ướp tương tự như sườn non. Sau khi ướp cho lên bếp xào cho thịt thăn lại, rồi chế thêm một ít nước, nấu sôi, sao cho sườn vừa chín tới, nước lèo đậm đà là được. Tôm được xào sau, khi vừa chín thì đổ chung với nồi thịt và trộn đều. Ngoài ra người ta còn luộc trứng cút, bóc vỏ sẵn sau đó khi nồi thịt tôm gần được thì cho vào, để món mì Quảng thêm đậm đà. Với sợi mì Quảng, thường các hàng quán sẽ đặt làm số lượng lớn ở các cơ sở chuyên sản xuất. Sợi mì được làm bằng bột gạo tẻ, khi tráng bánh và cắt sợi người ta còn thêm một ít dầu vừng, dầu lạc để sợi mì được mượt và đỡ dính lại thơm. Khi thực khách gọi món, người bán sẽ nhanh chóng xếp rau sống vào một cái bát to, sau đó xếp mì quảng lên trên, múc vào một ít thịt, tôm tùy thích, rồi chan nước lèo chồng lên. Lưu ý rằng mì Quảng không phải là các món bún phở thông thường lúc nào cũng phải xăm xắp nước, mà mì Quảng chỉ cần một chút nước lót đáy cho thêm đậm đà. Sau khi chan nước lèo, người bán thêm chút đậu phộng rang giòn cho dậy mùi, một chút bánh phồng tôm hoặc bánh đa, để làm cho món ăn thêm phong phú, dồi dào hơn.

Có thể nói rằng mì Quảng không hẳn gọi là cao lương mĩ vị, cũng không phải món cần người sành ăn thưởng thức, mà nó thực sự là một món ăn dân dã và gần gũi với cộng đồng vô cùng. Ai cũng có thể ăn được nó như thế dần dà nó đã đi vào nếp sống của người dân miền trung như một người bạn đậm đà và thân mến. Trở thành một nét văn hóa đặc sắc trong ẩm thực Đà Nẵng - Quảng Nam. Nói là mì Quảng nhưng thực tế đến Đà Nẵng ta thậm chí còn ăn được nhiều món mì Quảng ngon tuyệt vời hơn cả quê hương của nó nữa.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 11

Có rất nhiều món ăn phong phú để người nội trợ làm phong phú cho bữa ăn trong mỗi gia đình. Nhờ vậy, ta có thể thấy các món ăn chính hay phụ tuỳ theo sở thích và khẩu vị mỗi người. Trong đó, Cơm rang thập cẩm là một món ăn quen thuộc với mỗi người, giúp ta thay đổi khẩu vị cơm trắng thông thường mà vẫn có đủ thành phần dinh dưỡng cần thiết cho bữa ăn.

Nguyên liệu làm món ăn này rất phong phú, đa dạng, có thể tùy theo sở thích, khẩu vị và khả năng của mỗi người để chọn ra nguyên liệu phù hợp. Các nguyên liệu chủ yếu bao gồm : gạo nấu cơm (500 gam), giò lụa (80 gam), chả quế (80 gam), đậu Hà Lan, một củ khoai tây, nửa củ cà rốt, hai quả trứng gà, một ít dưa chua, nước mắm, dầu ăn. Cần chuẩn bị sao cho lượng nguyên liệu phù hợp với số người ăn, không thừa hay thiếu. Ngoài ra ta có thể chọn thêm một ít rau thơm, một quả cà chua nhỏ, một quả dưa chuột để trang trí cho món ăn thêm phần hấp dẫn.

Cách làm món ăn này không khó nhưng người đầu bếp cần biết điều tiết thời gian làm các bước cho hợp lí. Trước tiên, ta rửa sạch khoai tây, cà rốt và rau, rồi để cho ráo nước. Sau đó, cắt đều khoai tây, cà rốt, giò chả thành những miếng nhỏ,hình hạt lựu. Đặt chảo lên bếp, vặn lửa vừa phải và đổ dầu ăn vào chảo. Đợi mộ tchút cho dầu nóng già thì đổ cơm vào đảo đều. Đảo một lúc cho hạt cơm săn lại thì đập trứng vào. Tiếp tục đảo đều cho cơm thấm đều trứng. Cho lần lượt khoai tây, cà rốt, giò chả, đậu Hà Lan, dưa chua vào chảo. Tuỳ theo khẩu vị có thể tra thêm nước mắm, mì chính cho vừa miệng. Chú ý cần đảo đều, liên tục để các nguyên liệu phân bố đều. Khi cơm chín, vàng đều, bắc chảo ra, tắt bếp rồi cho cơm ra một đĩa lớn. Trình bày quanh đĩa mấy lát dưa chuột, cà chua và một ít rau thơm để thêm đẹp mắt và ngon miệng cho bữa ăn.

Tuy cách chế biến món ăn này không khó nhưng cần đạt được các yêu cầu thành phẩm sau đây: về màu sắc, khi chín, cơm phải vàng đều và có màu đặc trưng của các nguyên liệu. Về mùi vị, độ mặn vừa ăn, có mùi thơm của trứng và các nguyên liệu khác.

Cơm rang thập cẩm không khó làm và không tốn quá nhiều thời gian chế biến. Chỉ cần có một chút cẩn thận trong khâu nguyên liệu là có thể tạo nên cho bữa ăn gia đình với một hương vị mới. Nó còn giúp người nội trợ tiết’ kiệm được các nguyên liệu thừa để làm phong phú thêm cho món ăn. Hi vọng, món ăn này sỗ góp phần làm cho bữa ăn gia đình mọi người thêm phần bổ dưỡng và ấm cúng.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 12

Trong kho tàng quý báu về tinh hoa của dân tộc, thì ẩm thực đóng vai trò quan trọng vào việc góp phần thể hiện bản sắc dân tộc và làm cho các món ăn Việt Nam trở nên phong phú và hấp dẫn hơn.

Ông cha ta có câu : “Có thực mới vực được đạo”. Phải chăng câu tục ngữ này cũng nhắc nhở chúng ta cần tôn trọng bữa ăn về cả hình thức lẫn chất lượng.Vì vậy món ăn rất quan trọng cho cuộc sống. Vì có ăn thì mới có sức khoẻ và có sức khoẻ thì mới làm được mọi việc. Và từ xa xưa, con người đã hiểu được điều đó. Họ đã cố gắng tìm tòi, cải tiến để các món ăn vừa đậm đà màu sắc dân tộc,vừa ngon, vừa bổ lại vừa đẹp mắt.

Những món ăn đặc sắc của Việt Nam thì rất nhiều, nhưng món ăn tôi cảm thấy thích.nhất đó là món Bún riêu cua – một món ăn nổi tiếng của Hà Nội. Cứ mỗi lần gặp người bạn cũ, thì chúng ta thường chiêu đãi nhau món Bún riêu cua.

Vào trời se lạnh, tới một quán bún riêu nhỏ của cô hàng gánh, ngồi quanh nồi nước dùng bốc hơi nghi ngút, so đôi đũa lau đi lau lại và ngửi thấy hương vị đặc trứng của ốc và các phụ gia đã thấy ngon rồi. Cô hàng bún nở nụ cười đon đả mời khách. Tay bốc nắm bún trắng tinh từ lớp lá sen xanh lót dưới. Sợi bún trắng,to trông đến vui mắt. Từng thìa cua giã nhuyễn, đun chín được đơm vào bát thật ngon. Mùi cua thơm phi hành làm ai nấy đi qua cũng muốn dừng chân đứng lại dù có bận rộn đến đâu. Nhìn nồi nước dùng sôi âm ỉ, liên tục, với màu cà chua đỏ thơm ngon. Cô hàng chan từng muôi một làm cho khách hàng chờ đợi, ước ao, chỉ muốn được thưởng thức món ăn. Thêm vào đó mùi bỗng, mùi hành, mùi ớt chưng quyện vào nhau hấp dẫn vô cùng. Khi ăn từng miếng một mới thấy hết sự đậm đà của món ăn. Ai là người sành ăn, điểm thêm chút ớt chưng đo đỏ, cay cay và thêm ít dấm bỗng chua vào bát thì mới cảm nhận được thế nào là bún riêu Hà Nội. Bên cạnh là bát rau thơm : xà lách, tía tô, mùi,… thì mới là bát riêu cua hoàn chỉnh. Người ăn húp từng thìa nước mà còn thấy cay đến tận trong miệng, ăn bún riêu mà nóng rát lưỡi và cay chảy nước mắt thì mới thấy ngon, mới nhớ lâu.

Bún riêu cua để lại dư âm cho mọi người ở xa đến thăm Hà Nội và là món quà rất khó quên. Bún riêu có nét riêng của nó, người Hà Nội thích thưởng thức nó trong cái rét ngọt của mùa đông xứ Bắc. Cái thời tiết trái chứng đó hình như càng làm cho bát bún ấm áp, đậm đà hơn. Quả thực, món ăn có cái gì đó làm cho người ta nhớ mãi chẳng phải vì nó là món ăn mà nó còn là sở thích của từng người. Từ ý thích về ăn uống có thể nhận biết được tính cách của từng người. Bún riêu chính là món ăn như vậy.

Mỗi vùng, mỗi miền tự hào về đặc sản riêng của họ. Bánh gai Hải Dương, Bánh dày Quán Gánh, Giò chả Ước Lễ, Dừa Bình Định,… và còn nhiều món ăn khác nữa.Nhưng Bún riêu cua là niềm tự hào của mảnh đất Hà thành.

Bạn có thể không đồng quan điểm như tôi, nhưng bạn cũng nên biết tới Bún riêu Hà Nội. Hãy mời bạn thân của mình cùng thưởng thức món Bún riêu này. Chắc chắn họ sẽ có ấn tượng về nó ngay từ phút đầu.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 13

Nhắc đến những món ăn được làm từ vịt: vịt quay Bắc Kinh, vịt quay Lạng Sơn, vịt nướng,... ai ai cũng nghĩ đến một món ăn béo ngậy. Nhưng có một món ăn cũng được chế biến từ vịt mà không hề gây cảm giác béo ngậy. Đó là món vịt quay me.

Nguyên liệu làm món vịt quay me khá cầu kì. Trước hết, ta cần có một con vịt cân nặng chừng 1,5 kg, chú ý mua vịt còn sống, tránh mua vịt làm sẵn; một miếng gừng khoảng 50 gram; ba thìa (muỗng) rượu trắng, hành ta, tỏi, tiêu, muối, đường, bột ngọt, dấm, hai thìa cà phê dầu mè, một quả dừa xiêm, hai thìa súp tương hột, một vắt me chín to, một muỗng súp bột năng, 100gr xà lách xoong, hai quả cà chua, hai quả ớt, hành lá, một củ cà rốt, một củ cải trắng, hai chiếc bánh mì.

Khi đã có đủ những nguyên liệu cần thiết, ta tiến hành sơ chế. Trước hết, với hành và tỏi ta cần băm nhỏ. Với vịt, cần cắt tiết, làm sạch lông, rửa sạch rồi moi dưới bụng lấy bộ lòng ra. Gừng giã nhỏ, hoà với rượu, vắt lấy nước, tẩm vào vịt, để độ nửa giờ để vịt bớt tanh. Sau đó, rửa sạch vịt, để ráo, ướp vào vịt những gia vị sau: hành tỏi băm nhỏ, một chút tiêu, muối, đường, bột ngọt và dầu mè sao cho vừa ăn. Tiếp đến cho vịt vào chảo mỡ đã khử tỏi, rán (chiên) vàng. Vịt rán xong đem chặt miếng vừa ăn.

Me chín ta cho nước nóng vào, tán cho me ra chất chua. Với cà chua, ớt, hành lá thì tỉa hoa; riêng ớt ta để lại một chút đem băm nhỏ, lọc bỏ hạt. Cà rốt, củ cải trắng cũng tỉa hoa rồi đem ngâm dấm và đường.

Sau những việc trên, ta cho vịt đã chiên vàng vào xoong, chế nước dừa vào cho ngập, bắc lên bếp, nấu cho vịt mềm.

Tiếp theo, bắc chảo mỡ nóng, phi thơm hành tỏi, cho tương hột và nước me vào, nêm chút đường, bột ngọt, tiêu vừa ăn, cho vào đó vịt đang hầm, nấu tiếp cho vịt thật mềm là được, nếm lại cho vừa ăn. Bột năng hoà nước cho vào cho nước nấu được sanh sánh, nhắc xuống.

Vậy là công đoạn nấu nướng đã xong, để việc chuẩn bị thưởng thức món vịt quay me được trọn vẹn, ta cần trang trí món ăn sao cho đẹp mắt. Ta xẻ vịt ra đĩa sao cho giống hình dáng con vịt đang ngồi, miệng vịt cho ngậm hoa ớt, đùi vịt quấn giấy cắt tua, giữa để cà chua và ớt tỉa hoa, xung quanh để xà lách xoong và cà rốt, củ cải trắng tỉa hoa cho xen kẽ. Món ăn này nên dùng nóng với bánh mì.

Món vịt quay me thường được thấy trong thực đơn của những nhà hàng sang trọng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tự làm món ăn này trong những ngày nghỉ rảnh rỗi có nhiều thời gian. Khi ấy, cả gia đình quây quần cùng thưởng thức món ăn sang trọng này thì thật thú vị!

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 14

Bún thang là một món ăn truyền thống của những gia đình khá giả Hà Nội xưa. Bún thang không được nổi tiếng như phở và bún chả vì hiếm có những gia đình còn biết cách làm bún thang. Hơn nữa, hầu hết các gia đình biết làm thì đều khá giả nên không phải làm nghề kinh doanh bún thang.

Hà Nội có quán bún thang nổi tiếng nhất là quán bà Âm ở khu phố cổ. Nhưng để có thể ăn được những bát bún thang ngon nhất, đầy đủ nhất thì ta phải tự làm tại gia.

Như cái tên đã cho ta biết, bún thang chắc chắn là phải có bún. Nhưng nếu thế thôi thì sẽ chẳng là gì cả, vì bún trắng chỉ là cái nền, như một tờ giấy trắng chờ đợi người hoạ sĩ vẽ lên cho các món ăn khác. Trứng gà đánh đều cho đến khi lòng đỏ quện đều với lòng trắng, rồi tráng thật mỏng, độ thành công của khâu tráng trứng tất cả phụ thuộc vào độ mỏng của trứng rán được. Tráng xong, trứng cùng với giò lợn được thái chỉ thật nhỏ ra, chỉ nhỉnh hơn sợi bún một chút thôi. Đùi gà luộc xé phay phần thịt ra (tuyệt đối không được dùng kéo). Củ cải khô ngâm trong nước ấm cho nở ra rồi chắt nước đi. Xếp các nguyên liệu vào bát rồi rắc lên một chút hành răm băm nhỏ, ta đã thấy bao nhiêu sắc màu rồi: vàng tươi của trứng, vàng ngậy của gà, màu nâu nâu của giò, màu xanh đậm của hành răm, rồi lại lấp ló màu trắng của bún. Nhưng không thể thiếu được mắm tôm vì nó là cái duyên thầm của bún thang, không có mắm tôm thì bún sẽ rất nhạt nhẽo. Thậm chí có người còn ví: “Bún thang mà không có mắm tôm thì khác gì phở không có nước”. Có người còn nói quá lên: “Bún thang mà không có mắm tôm thì khác gì phở gà không có gà”. Thật là uổng phí cho những ai không ăn được mắm tôm! Nước dùng của bún thang cũng quan trọng không kém gì! Nước dùng của bún thang khá độc đáo so với nước của các món bún, phở khác. Không chỉ có xương gà mà còn có cả tôm biển và nấm hương nữa. Vì vậy, nước dùng bỗng trở nên thanh tao và hấp dẫn hơn rất nhiều. Cho nước vào bát bún và múc vào một vài con tôm đỏ chót cùng vài cọng nấm hương, ta thấy mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Nhưng hãy khoan! Còn phải chấm thêm một đầu tăm tinh dầu cà cuống vào nữa, để tạo ra một vẻ bí ẩn, bí ẩn đến quái đản nhưng lại quyến rũ!

Bún thang phải được thưởng thức ở một nơi lịch sự nếu không thì giá trị sẽ giảm đi nhiều. Bàn ghế phải vừa tầm với người ăn, bún phải đặt trong những chiếc bát sứ Bát Tràng và phải dùng đũa bằng gỗ (tuyệt đối không dùng đũa nhựa) để thưởng thức. Thực khách sẽ tự nêm vào bát bún của mình chanh, giấm, ớt,… tuỳ theo khẩu vị riêng. Để cảm nhận được cái ngon, ta phải ăn thật từ tốn và thanh lịch và không được cầm cả bát bún lên húp soạt. Ăn xong, ta sẽ vừa ngồi uống trà, ăn trái cây, vừa nói chuyện. Một phần là để vui vẻ thân mật, một phần là để rửa trôi đi những phần tanh còn sót lại của thức ăn.

Văn hoá và tính cách của người Hà Nội được thể hiện qua bát bún thang: Sự đa dạng và kĩ càng của từng nguyên liệu thể hiện tính cẩn thận, hương vị thanh tao và trung tính nhường quyền cho thực khách nêm nếm theo khẩu vị riêng thể hiện tinh thần hòa nhã và cách thưởng thức bún thể hiện sự lịch sự của người Hà Nội.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 15

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,... và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,... với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,...Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,...và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,...Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái hoặc đuôi nhỏ. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều. Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,... tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc. Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ.

Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau. Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 16

Trên mâm cơm hàng ngày thường có ba món: món canh, món mặn, món xào. Món canh thì rất phong phú, đa dạng như canh rau tập tàng, canh bí đỏ, canh cải nấu cá thác lác... Nhưng món canh ăn hoài không biết chán, có mặt thường xuyên trên mâm cơm của người Nam bộ là món canh chua.

Tương tự gỏi chua, canh chua là món có nước nhưng vẫn mang đủ hương vị chua chua, ngòn ngọt, thơm thơm, rất dễ ăn.

Đi làm việc về, trời trưa nắng chang chang, được người thân nấu cho tô canh chua vừa miệng, còn gì thích hơn. Mùa đông trời lạnh, ăn canh chua ấm lòng.

Mùa Thu trời ui ui, ăn canh chua đỡ buồn. Có khách sang trọng đãi món canh chua cá bông lau, khách cũng thích. Gặp đứa bạn thân, nấu lẩu chua cá điêu hồng nó “ô kê” liền. Nuôi người thân già yếu, miệng mồm lạt lẽo khó ăn, nấu tô canh chua lươn cho ngọt, ăn được chén cơm, mau hết bệnh.

Tuy là món ăn hàng ngày nhưng muốn nấu ngon phải biết nêm nếm vừa miệng và rau đệm biết dùng đúng cách. Chẳng hạn, lâu lươn nấu với bắp chuối mới đúng điệu. Cá lóc, cá thác lác... nên có rau chút, cà bắp, thơm. Cá linh nấu với bông điên điển hay bông so đũa... Chất chua có thể là me vắt, me trái, lá giang, lá me, khế chua hoặc cơm mẻ... Chất chua muốn dịu thì phải có khóm, cà chua, lá giang có vị chua dịu hơn me. Cơm mẻ là cơm nguội để lên men, tạo nhiều vi sinh, chất lên men chua rất dịu, dùng nấu canh chua lươn, luộc thịt trâu, thịt chó,...

Rau bổi bỏ vào cũng phải theo thứ tự, lớp lang, rau nào lâu chín cho vào trước, có loại nấu lâu sẽ dai, mất ngon như rau nhút, kèo nèo... Có quá nhiều rau bổi để nấu canh chua, mỗi món có hương vị riêng, có cách nấu riêng, tùy theo ý thích mà pha chế. Nông thôn thì có bắp chuối, chuối cây, bông điên điển, so đũa, kèo nèo, đọt choại, rau ngổ, rau muống, rau nhút... Ở chợ có giá sống, bạc hà, cà chua, khóm, rau muống,... Rau thơm như ngò gai, rau om, rau quế góp phần làm cho nồi canh chua có mùi thơm rất riêng, rất hấp dẫn.

Món lẩu chua để đãi khách nấu khá công phu. Phải lấy nước ngọt từ xương heo, xương gà để làm nước súp, sau đó luộc cá điêu hồng hay cá bông lau cho chín rồi vớt ra, nếu dùng hải sản thì tôm, mực tươi, cá thác lác vo viên xếp sẵn trên đĩa, ăn tới đâu nhúng tới đó. Rau bổi cũng vậy, không để sôi lâu vừa mất chất, vừa mất ngon, thỉnh thoảng bỏ vào lẩu hành phi, ớt và rau thơm để giữ vị thơm của món ăn. Nước lẩu pha cho đúng vị chua, ngọt (không chua quá mà cũng không ngọt quá, ngược lại, pha lơ lớ ăn rất chán, không ra mùi vị gì cả).

Ở miền Tây, khi trời vừa sa mưa là mùa của cá linh, lẩu chua cá linh bông điên điển là món ăn khoái khẩu nhất. Cả nhà xúm xít quanh cái lẩu bốc hơi nóng, nước lẩu được các bà nội trợ pha chế độ chua ngọt rất vừa miệng, rồi thì rổ rau đồng gồm bông điên điển, kèo nèo, rau muống... được nhúng vào cùng với những con cá linh trắng phau, mềm ụm, béo ngậy. Chẳng mấy chốc mà rổ rau vơi dần và nồi cơm gạo mới cùng cạn đáy.

Lẩu chua ăn với bún, canh chua ăn với cơm, canh chua thường kèm với món cá rô kho tộ, nếu không có cá kho tộ thì ăn với tép rang thịt ba rọi cũng được. Vừa qua, có cuộc thi đầu bếp giỏi do các nhà hàng lớn trong thành phố tổ chức, món canh chua bông điên điển đã đứng đầu bảng. Thế mới biết, món ăn đứng hàng "top ten” không phải “nem công, chả phụng” mà có khi chỉ là những món ăn quen.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 17

Trong các món bánh mặn của Nam bộ, bánh xèo là món phổ biến, được người ăn ưa thích nhất.

Ăn bánh xèo có đông người mới vui vì khi làm bánh phải qua nhiều công đoạn nên cần nhiều người. Người ta phân công nhau bằng những câu vè vui vẻ như: “Người nào xấu xấu xay bột, lật hành. Người nào lanh lanh băm nhân, dò bánh..."

Muốn cho bánh ngon phải chịu khó, chịu cực một chút. Bột bánh là phần quan trọng nhất, bánh có ngon hay không là ở khâu này. Dân nông thôn không chịu loại bột gạo bịch sẵn, bày bán ở chợ vì đó là gạo dơ ngâm nước cho bã ra nhiều nước rồi gạn lấy bột nên chất bột bị chua và lạt, không còn bổ dưỡng, thơm ngon.

Muốn cho bột bánh xèo ngon phải là loại gạo thơm, gạo mới, ngâm trong một buổi hoặc một đêm rồi đem xay nhuyễn. Ngày nay có bột bánh xèo pha chế sẵn cũng tiện dụng nhưng phải trộn thêm theo công thức, một bịch bột bánh xèo pha thêm một bịch bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa thì bánh mới béo giòn.

Dùng bột gạo tươi thì sau khi lược bột xong, pha thêm một bịch bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho độ béo ngọt theo khẩu vị người ăn, bỏ thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, trứng gà đánh nhuyễn. Người Nam bộ rất thích nước cốt dừa nên pha đậm đặc càng ngon (mà vị béo của nước cốt dừa không có vị béo nào sánh kịp), bánh khi chín có nước cốt dừa rất dễ lấy ra.

Nhân bánh muốn ngon phải có nấm rơm, nấm hương, nấm kim chi hay nấm đông cô, tôm hoặc tép, thịt gà hay thịt vịt băm nhuyễn, giá sống và củ sắn, có người còn bỏ cá cơm dừa xắt sợi, hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng hai loại này làm cho dễ ngán không ăn được nhiều. Nấm làm nhân bánh có thể thay đổi theo từng mùa. Mùa nấm rơm thì làm nấm rơm, không có nấm rơm thì hải nấm mèo trên các cây so đũa hoặc mùa mưa thì có bông điên điển...

Rau sống và nước mắm là những thành phần quan trọng làm cho bánh thêm ngon. Rau sống phải có đủ họ tộc như: diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế không được thiếu lá cách và cải bẹ xanh (loại cải thân nhỏ). Chén nước mắm nêm nếm cho đủ độ mặn, ngọt, chua, cỏ màu đỏ của ớt, màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa của cải.

Khi tất cả vật liệu đã sẵn sàng thì người đổ bánh mới bắt đầu nổi lửa. Nếu lượng người ăn đông phải đổ hai chảo mới kịp đãi khách, ở miền quê, các bà nội trợ đổ bánh bằng chảo gang hay chảo bằng vỏ trái bom cắt ra, ở thành phố có loại chảo không dính tương đối tiện lợi. Khi chảo thật nóng thì đổ thử một vài cái xem mùi vị và độ đặc lỏng của bột vừa hay chưa, sau đó mới đổ thật sự.

Lấy miếng mỡ heo cắt hình vuông khoảng 3cm đảo qua chảo một lượt, bỏ tép hoặc tôm và thịt ba rọi xắt sợi nhỏ vào cháo, đảo cho đỏ lên hồng lên, tiếp đó đổ một vá hột lên chảo nghe xèo xèo rồi tráng đều cho tròn cái bánh mới khéo, lần lượt bỏ nấm, thịt gà, giá, củ sắn và đậy nắp lại. Hai phút sau, giở nắp ra, tiếp tục "dần trên lửa “ Bánh chín có màu vàng như mặt trăng rằm. Trên đó, màu đỏ của tôm, màu xanh của hành, màu nâu hoặc trắng của nấm. mùi thơm dậy của nước dừa và hột gà khiến cho chiếc bánh hấp dẫn đặc biệt. Bánh được xếp lại theo hình rẻ quạt, nóng hôi hổi trên chiếc mâm lót lá chuối hay trên chiếc đĩa sứ trắng ngà.

Ăn bánh xèo nên dùng tay, không cần đũa nĩa gì cả. Dùng tay để cuốn bánh cho gọn và cảm nhận được độ nóng ấm của bánh mới thấy ngon miệng. Ăn bánh nên uống với nước trà nóng hoặc với bia, rượu mới tiêu được mỡ dầu. Vừa ăn vừa đàm đạo chuyện trò, lúc đói bụng có người dám ăn cả chục bánh, có người ăn trừ cơm cả ngày.

Ở Huế cũng có loại bánh tương tự nhưng bánh nhỏ hơn, độ giòn và vị béo kém hơn, có lẽ họ không thích nước cốt dừa như người Nam bộ. Thành phố Hồ Chí Minh có những con đường bày bán bánh xèo sát ngay đại lộ. Một vài địa điểm có tiếng như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng với giá từ hai chục ngàn đồng đến ba, bốn chục ngàn đồng một bánh nhưng bánh của các nơi này dùng quá nhiều thịt, mỡ nên ăn không được nhiều.

Màu sắc đẹp, mùi vị hấp dẫn, chất dinh dưỡng cao, bánh xèo là món bánh độc đáo, đậm đà hương vị Nam bộ.

Thuyết minh về phương pháp cách làm - mẫu 18

Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo.Từ một câu ca đến những huyền thoại:

"Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi" (Ca dao)

Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại...

Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu - con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới.

Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.

Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, mộ thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa "tuy hai mà một". Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa "tuy một mà hai, tuy hai mà một" của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu... nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao:

Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít
Trầu có đầy sao gọi trầu không?

Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo một đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà.

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy "ít", nhưng là "của ít lòng nhiều", ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh "ít" thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng!

Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân "nhưng" bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn.

Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong... và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên, song người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.

Đánh giá

0

0 đánh giá