Sách bài tập Ngữ Văn 6 Bài 7: Thế giới cổ tích | Kết nối tri thức

1.7 K

Tailieumoi sưu tầm và biên soạn giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 6 Bài 7: Thế giới cổ tích sách Kết nối tri thức hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 6. Mời các bạn đón xem:

Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 6 Bài 7: Thế giới cổ tích

Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt trang 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16

Bài tập 1. trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc lại văn bản Thạch Sanh trong SGK (tr. 26 – 29) và trả lời các câu hỏi :

Câu 1 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Hai đoạn đầu của truyện (từ Ngày xưa đến sống chung với mẹ con Lý Thông) cho biết những thông tin gì?

Trả lời:

Hai đoạn đầu của truyện (từ Ngày xưa đến sống chung với mẹ con Lý Thông)

có những thông tin sau:

- Thời gian: ngày xưa.

- Nhân vật Thạch Sanh: mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, sống trong túp lều dưới gốc đa, làm nghề đốn củi, có sức khoẻ hơn người, thật thà, tình cảm, dễ tin người.

- Nhân vật Lý Thông: làm nghề nấu rượu, luôn toan tính, mưu mô.

- Sự kiện: Lý Thông gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em, Thạch Sanh rời bỏ túp lều dưới gốc đa đến ở với mẹ con Lý Thông.

Như vậy, hai đoạn ngắn mở đầu chứa đựng nhiều thông tin, gắn với sự phát triển của câu chuyện.

Câu 2 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Hãy nêu những việc chính mà Thạch Sanh đã làm. Do đâu mà một số hành động của Thạch Sanh làm cho truyện trở lên hấp dẫn?

Trả lời:

-Trong truyện, Thạch Sanh đã làm những việc như sau:

+ Chấp nhận kết nghĩa anh em với Lý Thông và giã từ túp lều dưới gốc đa để về ở với mẹ con Lý Thông.

+ Nhận lời đi canh miếu thay cho Lý Thông, nửa đêm chém chết trăn tinh, xả xác

trăn tinh khổng lồ làm hai, chặt đầu, nhặt bộ cung tên bằng vàng của trăn tinh.

+ Bị Lý Thông lừa dối để cướp công giết trăn tinh, Thạch Sanh về lại gốc đa, ngày ngày đi đốn củi.

+ Đại bàng cắp công chúa bay qua phía trên túp lều, Thạch Sanh dùng cung tên bằng vàng bắn trúng, và lần theo vết máu tìm được chỗ ở của đại bàng.

+ Nhận lệnh vua đi tìm công chúa, Lý Thông lại đến túp lều của Thạch Sanh để cậy nhờ. Thạch Sanh đã xuống hang giết đại bàng, cứu công chúa. Sau khi công chúa được đưa lên, Thạch Sanh bị Lý Thông hãm hại bằng cách dùng đá lấp cửa hang.

+ Thạch Sanh đi sâu vào hang, dùng cung tên bằng vàng bắn tan cũi sắt cứu con vua Thuỷ Tề, được vua Thuỷ Tề tiếp đãi rất hậu và được tặng một cây đàn.

+ Hồn trăn tinh và đại bàng hợp sức báo oán, Thạch Sanh bị vu vạ và bị bắt giam

vào ngục. Trong ngục, Thạch Sanh đem đàn ra gảy khiến công chúa đang bị câm bỗng lại nói cười. Nàng xin vua cha cho gọi người đánh đàn vào cung.

+ Sau khi kể lại cho nhà vua nghe toàn bộ sự thật, Thạch Sanh được giải oan, được nhà vua gả công chúa cho.

+ Đối phó với hoàng tử các nước chư hầu, Thạch Sanh đem đàn ra gảy, khiến binh lính mười tám nước bủn rủn tay chân. Thạch Sanh thết đãi hàng vạn binh lính của mười tám nước bằng cơm trong một cái niêu, nhưng họ ăn mãi không hết.

- Một số hành động của Thạch Sanh làm cho truyện trở nên hấp dẫn vì:

+ Thứ nhất, đó là những việc phi thường, không ai làm nổi (giết trăn tinh, chém đại bàng cứu công chúa,...).

+ Thứ hai, có sự tham gia của đồ vật hoặc con vật có tính chất kỳ ảo (những con vật sống lâu thành tinh như trăn tỉnh, đại bàng; bộ cung tên bằng vàng, cây đàn, niêu cơm thần kì,...).

Câu 3 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Cách đối xử của Lý thông với Thạch Sanh thể hiện qua những ý nghĩ và việc làm nào? Em hãy chọn một số từ ngữ để nói về bản chất nhân vật Lý Thông.

Trả lời:

Cách đối xử của Lý Thông với Thạch Sanh thể hiện qua những ý nghĩ và việc làm:

- Thấy Thạch Sanh khoẻ mạnh, Lý Thông nghĩ: “Người này khoẻ như voi. Nếu nó

về ở cùng ta thì lợi bao nhiêu.".

- Lý Thông lừa Thạch Sanh lên miếu trăn tinh để nộp mạng thay cho mình.

- Thấy Thạch Sanh chém được trăn tinh, Lý Thông nói dối buộc Thạch Sanh đi

trốn để mình đem đầu trăn tỉnh vào cung vua báo công, lĩnh thưởng.

- Sau khi nhờ được Thạch Sanh cứu công chúa từ hang đại bàng, Lý Thông cho quân lính lấy đá lấp cửa hang để giết Thạch Sanh.

Thâm độc, xảo trá, tham lam là những từ có thể dùng để nói về bản chất con

người Lý Thông.

Câu 4 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Theo em, những con vật và đồ vật có tính chất kì ảo đóng vai trò gì trong truyện Thạch Sanh?

Trả lời:

Truyện Thạch Sanh có hai con vật kì ảo: trăn tỉnh và đại bàng (những con vật sống lâu thành tinh). Trừ diệt những con vật có phép biến hoá và đáng sợ như vậy, Thạch Sanh mới xứng đáng là một người gan dạ, dũng mãnh phi thường. Những đồ vật như bộ cung tên bằng vàng, cây đàn, niêu cơm thần kì đã giúp Thạch Sanh làm nên những điều kỳ diệu. Tóm lại, những con vật và đồ vật có tính chất kì ảo làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn, đúng với đặc điểm của truyện cổ tích.

Câu 5 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Nghĩa của từ đau đớn ở hai trường hợp sau khác nhau thế nào?

a. Một hôm công chúa đang ngồi trên lầu cao bỗng bị một con đại bàng khổng lồ bay đến quắp đi. […] Nhà vua vô cùng đau đớn bèn sai Lý Thông đi tìm, hứa sẽ gả công chúa và nhường ngôi cho.

b. Mũi tên trúng vào cánh đại bàng. Nó đau đớn, quằn quại nhưng gắng sức bay về đến hang trong núi sâu.

Trả lời:

Nghĩa của từ đau đớn ở hai trường hợp có sự khác nhau:

- Trong câu a, sự đau đớn thể hiện ở mặt tình cảm, tỉnh thần. Công chúa bị đại bàng quắp đi, sự mất mát đó khiến nhà vua xót xa, không thể chịu đựng nổi.

- Trong câu b, đau đớn thể hiện ở mặt thể xác. Đại bàng quằn quại, không chịu nổi vì bị trúng tên của Thạch Sanh.

Bài tập 2. trang 10, 11 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc lại văn bản Cây khế trong SGK (tr. 32 – 34) và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:

Câu 1 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Trong việc chia gia tài, người anh đã tỏ ra như thế nào?

A. Thương em

B. Công bằng

C. Tham lam và ích kỉ

D. Độc ác

Trả lời:

Đáp án C.

Câu 2 trang 10 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Qua việc may túi theo lời chim dặn và được chim đưa đi lấy vàng ở đảo xa, người e đã thể hiện:

A. Là một người dại dột.

B. Là một người có khao khát giàu sang

C. Là một người ham được đi đây đi đó.

D. Là một người trung thực

Trả lời:

Đáp án D.

Câu 3 trang 11 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Việc người anh bị rơi xuống biển cùng bao nhiêu vàng bạc châu báu lấy được là kết quả tất yếu của:

A. Sự tham lam

B. Thời tiết không thuận lợi

C. Sự trả thù của chim

D. Quãng đường chim phải bay xa xôi quá.

Trả lời:

Đáp án A.

Câu 4 trang 11 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2:Dòng nào sau đây đúng với ý nghĩa có thể rút ra từ truyện “Cây Khế”:

A. Tham một miếng, tiếng cả đời.

B. Tham một bát bỏ cả mâm

C. Tham thì thâm

D. Tham vàng bỏ ngãi

Trả lời:

Đáp án C.

Câu 5 trang 11 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Từ nghe trong câu “hai vợ chồng nghe lời chim may một túi vải, bề dọc bề ngang vừa đúng ba gang” có nghĩa là:

A. Thu nhận bằng tai những lời chim nói

B. Làm đúng theo lời chim

C. Chấp nhận điều chim nói

D. Tán thành điều chim nói

Trả lời:

Đáp án B.

Bài tập 3. trang 11, 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc lại văn bản Vua chích chòe trong SGK (tr. 36 -41)và chọn phương án trả lời đúng cho các câu hỏi:

Câu 1 trang 11 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Trong bữa tiệc vua mở để chọn phò mã, công chúa đông những từ chối hết người này đến người khác, mà còn chế giễu, nhạo báng họ. Điều đó chứng tỏ công chúa là một người:

A. Quá xinh đẹp.

B. Rất thông minh.

C. Tự cho mình tài giỏi.

D. Kiêu ngạo và ngông cuồng.

Trả lời:

Đáp án D.

Câu 2 trang 11 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Vua quyết định gả công chúa cho người hát rong là để:

A. Trừng phạt thói kiêu ngạo và ngông cuồng của công chúa.

B. Cho công chua được trải nghiệm một cuộc sống mới.

C. Thử thách công chúa.

D. Giáo dục công chúa.

Trả lời:

Đáp án A.

Câu 3 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Người hát rong (cũng chính là Vua chích chòe) muốn công chúa trải qua những thiếu thốn, khổ cực nhằm mục đích:

A. Tra thù công chúa, vì nàng đã giễu cợt mình trước mặt mọi người.

B. Để công chúa thấu hiểu cuộc sống của người bình thường

C. Uốn nắn tính cách của công chúa, để nàng trở thành người vợ hiền thục

D. Để công chúa dần dần chấp nhận cuộc sống nghèo hèn

Trả lời:

Đáp án C.

Câu 4 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Toàn bộ những thử thách mà Vua chích chòe dành cho công chúa xuất phát từ:

A. Tấm lòng nhân hậu.

B. Tình yêu đối với công chúa

C. Quyền uy của một ông vua

D. Sự nghiêm khắc của một người chồng

Trả lời:

Đáp án B.

Câu 5 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Cuối cùng, công chúa được Vua chích chòe chấp nhận là vì:

A. Nàng rất xinh đẹp

B. Nàng rất thông minh

C. Nàng vốn là con vua

D. Nàng biết hối hận trước những điều sai trái mình đã làm.

Trả lời:

Đáp án D.

Bài tập 4. trang 12, 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc lại văn bản Sọ Dừa trong SGK (tr. 48 – 51) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Căn cứ vào đâu để phân biệt lời người kể chuyện, lời nhân vật trong bản kể Sọ Dừa?

Trả lời:

Ở bản kể Sọ Dừa trong SGK, lời người kể chuyện và lời nhân vật được phân biệt nhờ các dấu hiệu sau: Lời người kể chuyện tự nó cất lên, không cần giới thiệu. Nhưng lời nhân vật thường đi kèm lời dẫn của người kể chuyện, lời dẫn được kết thúc bằng dấu hai chấm, sau đó xuống dòng, gạch ngang đầu dòng (-) rồi mới cho xuất hiện lời nhân vật.

Câu 2 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Những chi tiết kì ảo nào gắn với nhân vật Sọ Dừa? Nêu thêm một số chi tiết kì ảo trong truyện.

Trả lời:

- Một số chỉ tiết kì ảo gắn với nhân vật Sọ Dừa:

+ Bà mẹ, do uống nước mưa trong cái sọ dừa mà có mang, đẻ ra một cục thịt đỏ hỏn, chỉ có mắt mũi, không có mình mẩy, tay chân.

+ Sọ Dừa thường lăn sau đàn bò để đi chăn bò.

+ Đi chăn bò, khi vắng người, Sọ Dừa biến thành chàng trai mặt mũi khôi ngô, ngồi võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ.

+ Gia đình vốn nghèo, nhưng chỉ sau một đêm, Sọ Dừa có đầy đủ lễ vật theo yêu cầu của phú ông.

+ Khi chia tay vợ để đi sứ, quan trạng (Sọ Dừa) giao cho vợ hòn đá lửa, con dao, hai quả trứng gà, sau này tất cả những vật đó đều giúp vợ phòng thân rất hiệu quả.

- Ngoài ra, trong truyện còn có một số chỉ tiết kì ảo khác: Cô em út bị hai chị đẩy xuống biển, bị cá kình nuốt vào bụng đã dùng dao đâm chết cá, chờ khi cá trôi dạt vào một hòn đảo mới rạch bụng cá chui ra; con gà biết gáy thành tiếng người như một lời thơ để gọi quan trạng;...

Câu 3 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Phân loại các nhân vật trong truyện theo tiêu chí tốt, xấu. Nêu những biểu hiện tốt hay xấu của một nhân vật do em chọn.

Trả lời:

Nhân vật cổ tích thường phân thành hai tuyến tốt - xấu. Ở truyện Sọ Dừa, thuộc phía tốt có bà mẹ Sọ Dừa, Sọ Dừa, cô em út; phía xấu có phú ông, hai cô chị. Em có thể chọn bất cứ nhân vật nào, nêu cái tốt hay xấu thể hiện qua lời nói, hành động, suy nghĩ,... của nhân vật. Ví dụ: Cô em út hiển lành, tính hay thương người, tử tế với Sọ Dừa ngay cả trước khi tình cờ bắt gặp Sọ Dừa trong dáng vẻ một chàng trai khôi ngô tuấn tú... Ngược lại, hai cô chị thì kiêu kỳ, coi thường, hắt hủi người dị dạng; độc ác với em (lập mưu giết em để được làm vợ quan trạng);...

Câu 4 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Khi Sọ Dừa mang đầy đủ lễ vật đến, phú ông hỏi ý ba cô con gái. Vì sao chỉ có cô út bằng lòng lấy Sọ Dừa?

Trả lời:

Khi Sọ Dừa mang đủ lễ vật đến, phú ông hỏi ý ba cô con gái, chỉ có cô út bằng lòng lấy Sọ Dừa. Sở dĩ như vậy bởi hai cô chị vốn coi thường, hắt hủi Sọ Dừa. Còn cô út không chỉ tính tình hiền lành, đối xử tử tế với Sọ Dừa, mà quan trọng hơn, một lần, cô tình cờ phát hiện Sọ Dừa trong hình dạng một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

Câu 5 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Quan trạng (Sọ Dừa) mở tiệc mừng sau khi trở về, mời mọi người đến chung vui, nhưng giấu vợ trong buồng không cho ra mắt. Dụng ý của việc làm ấy là gì?

Trả lời:

Khi về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời mọi người đến chung vui, nhưng giấu vợ trong buồng, không cho ra mắt. Vì tưởng em đã chết thật, hai cô chị giả vờ kể lể, khóc lóc trước mặt quan trạng. Nhưng khi quan trạng gọi vợ ra, mặt đối mặt, hai cô chị bị bất ngờ, xấu hổ không biết trốn vào đâu. Việc làm này của quan trạng khiến hai cô chị lộ rõ bộ mặt giả dõi và độc ác.

Câu 6 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Cách kết thúc của truyện (chú ý 4 câu cuối cùng) gợi cho em suy nghĩ gì?

Trả lời:

Truyện cổ tích thường kết thúc có hậu: ở hiền gặp lành, người ác bị trừng phạt. 4 câu cuối cùng của truyện đã hoàn thành chức năng phần kết của một truyện cổ tích: sự trừng phạt hoàn toàn thoả đáng, kẻ gây điều ác phải thấy được tội lỗi của mình. Ở phần kết của truyện này, sự trừng phạt không tàn khốc. Dù sao cô út cũng không chết như ý đồ của hai người chị. Để cho hai người ấy tự thấy xấu hổ mà bỏ đi biệt xứ là một hình phạt hợp lý.

Câu 7 trang 12 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Cụm từ dị hình dị dạng được SGK chú thích: hình dạng khác biệt, không bình thường. Ở đây, dị có nghĩa là khác, lạ; hình, dạng là dáng vẻ bên ngoài của đối tượng. Từ cách giải thích đó, em hãy suy đoán nghĩa của các từ: dị nhân, dị vật, dị thường.

Trả lời:

Từ cách giải thích cụm từ dị hình dị dạng trong phần chú thích ở trang 48 của

SGK, ta có thể suy đoán nghĩa của một số từ có yếu tố dị với nghĩa là khác, lạ:

- dị nhân nghĩa là người khác thường

- dị vật nghĩa là vật lạ

- dị thường nghĩa là khác thường.

Câu 8 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Trong câu “Từ ngày cô em út lấy được chồng Trạng nguyên, hai cô chị sinh lòng ghen ghét, định tâm hại em để thay em làm bà trạng.”, có thể thay từ định tâm bằng từ nào khác mà ý của câu vẫn không thay đổi?

Trả lời:

Trong câu “Từ ngày cô em út lấy được chồng Trạng nguyên, hai cô chị sinh lòng ghen ghét, định tâm hại em để thay em làm bà trạng” có thể thay định tâm bằng rắp tâm hoặc định bụng mà nghĩa của câu vẫn không thay đổi.

Bài tập 5. trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc lại văn bản Thạch Sanh (từ Bấy giờ trong vùng đến ở nhà lo liệu) trong SGK (tr. 26 – 27) và trả lời các câu hỏi:

Câu 1 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đặc điểm của truyện cổ tích thể hiện qua những yếu tố nào ở đoạn trích?

Trả lời:

Đặc điểm của truyện cổ tích thể hiện qua những yếu tố sau đây ở đoạn trích:

- Thời gian không xác định: bấy giờ, năm ấy,...

- Không gian không xác định: trong vùng

- Con vật có tính chất kì ảo: trăn tinh bị Thạch Sanh xả đôi xác, hiện nguyên hình là con trăn khổng lồ, để lại bên mình bộ cung tên bằng vàng.

- Nhân vật chia ra hai loại thiện - ác rõ ràng (Thạch Sanh thật thà, tin người; Lý Thông thâm độc, xảo trá).

Câu 2 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Vì sao Thạch Sanh dễ dàng nhận lời đi canh miếu thay cho Lý Thông?

Trả lời:

Thạch Sanh dễ dàng nhận lời đi canh miếu thay cho Lý Thông là vì:

- Khi đã nhận Lý Thông làm anh kết nghĩa, Thạch Sanh không bao giờ chối từ

việc anh nhờ.

- Thạch Sanh không hề biết lên miếu là để nộp mạng cho trăn tinh ăn thịt.

Câu 3 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Sự thâm độc của Lý Thông thể hiện qua những chi tiết nào trong đoạn trích?

Trả lời:

Trong đoạn trích, sự thâm độc của Lý Thông thể hiện qua những chỉ tiết:

- Thấy Thạch Sanh khoẻ mạnh, Lý Thông nảy ra ý nghĩ đưa Thạch Sanh về ở cùng để lợi dụng, bèn gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em.

- Lý Thông nói dối nhờ Thạch Sanh đi canh miếu hộ, nhưng thực ra lừa chàng lên đó nộp mạng cho trăn tinh thay mình.

- Thấy Thạch Sanh đưa đầu trăn tinh về, Lý Thông nói dối buộc chàng phải trốn đi để hắn cướp công.

Câu 4 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Giải nghĩa từ cất trong hai câu sau, từ đó cho biết nhờ đâu ta xác định được nghĩa của từ cất ở từng trường hợp:

a. Đêm nay anh đến phiên đi canh miếu thờ, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó đi thay anh một đêm, đến sáng lại về.

b. Tiếng đàn của chàng vừa cất lên thì quân sĩ của mười tám nước bủn rủn tay chân, không còn nghĩ gì được tới chuyện đánh nhau nữa.

Trả lời:

Ở câu a, cất có nghĩa là nấu (ở đây là nấu rượu). Ở câu b, cất có nghĩa là âm

thanh bắt đầu xuất hiện (ở đây là tiếng đàn), có thể nghe được bằng tai. Cất 

câu b cũng giống như vang, nổi. Có thể thay cất lên bằng vang lên, nổi lên.

Khi được sử dụng trong câu, từ mới có nghĩa cụ thể. Do đó, muốn xác định đúng nghĩa của từ, phải dựa vào câu.

Bài tập 6. trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc lại văn bản Cây khế (từ Trên lưng chim bước xuống đến bay về núi, về rừng) trong SGK (tr. 34) và trả lời câu hỏi:

Câu 1 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Hãy tóm tắt đoạn trích trong một vài câu.

Trả lời:

Đoạn trích có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:

Ra đảo, người anh lấy rất nhiều vàng, kim cương, khiến chim chở quá nặng. Gặp cơn gió mạnh, chim đâm nhào xuống, người anh cùng vàng, châu báu rơi xuống biển, bị sóng cuốn trôi, còn chim thì bị ướt cánh, lại vùng lên bay về núi rừng.

Câu 2 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Những chi tiết nào trong đoạn trích cho thấy sự tham lam của người anh?

Trả lời:

Trong đoạn trích, có nhiều chỉ tiết thể hiện sự tham lam của người anh:

- Hoa mắt, mê mẩn tâm thần, quên cả đói khát vì thấy của quý;

- Nhét vàng bạc, châu báu đầy cả tay nải, ống quần, ống tay áo, đi không nổi;

- Chim phải chờ mãi anh ta mới đến chỗ chim đợi.

Câu 3 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Chim có cố ý gây tai họa cho người anh (rơi xuống biển và bị sóng cuốn đi cùng tay nải vàng) không? Những câu nào trong đoạn trích cho ta biết nguyên nhân đích thực của tai họa đó?

Trả lời:

Mặc dù phải đợi lâu, nhưng chim vẫn chở người anh trở về, và không hề cố ý làm anh ta rơi xuống biển. Nguyên nhân là do có cơn gió mạnh nổi lên bất ngờ. Vì phải mang nặng, bay ngược gió, chim yếu dần, hai cánh rũ xuống, lại bị tay nải vàng bất ngờ bật mạnh vào cánh, khiến chim đâm nhào xuống biển.

Câu 4 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Có thể dùng lời nhân vật người anh để kể lại phần truyện trong đoạn trích được không? Vì sao?

Trả lời:

Kể lại truyện cổ tích, có thể dùng lời nhân vật thay cho lời của người kể chuyện ngôi thứ ba. Nhưng ở đoạn trích (cũng như toàn bộ truyện Cây khế), người anh là một nhân vật xấu xa, tham lam, dĩ nhiên anh ta không thể tự nói ra những đặc điểm đó của mình. Hơn nữa, ở đoạn này, anh ta bị rơi xuống biển, bị sóng cuốn đi mất tích, nên nếu để anh ta kể chuyện là vô lý.

Câu 5 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Từ đến trong những câu sau khác nhau như thế nào về nghĩa? Do đâu có sự khác nhau đó?

a. Sáng hôm sau, chim đến.

b. Chim bay mãi. Bay mãi, qua bao nhiêu là miền, hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến biển cả…

Trả lời:

a. Đến trong câu a có nghĩa là có mặt.

b. Đến trong câu b nghĩa là chỗ tiếp theo được nói tới.

Bài tập 7. trang 13, 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi

Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cap. Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong thiên hạ địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Trung Quốc. Buổi ấy, ở Trung Quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí. Hai người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:

    - Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng đừng có hòng gỡ nổi.

    Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Phút chốc bên Kỵ Như chuyển bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bì. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần, chàng chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: “Ngài hẳn là Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi.”. Đế Thích cười bảo” “Ta nghe nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết.”. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một nắm hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống.”. Nói đoạn, cưỡi mây bay về trời.

(Nguyễn Đổng Chi, Hồn Trương Ba da hàng thịt, trích

Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.369

Câu 1 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Những yếu tố nào giúp em biết đoạn trích trên đây được trích từ bản kể truyện cổ tích?

Trả lời:

Những yếu tố sau đây giúp ta biết được đoạn trích được lấy từ bản kể một truyện cổ tích:

- Câu mở đầu nói về sự việc xảy ra vào thời quá khứ xa xưa, thời gian không xác định: Ngày xưa...

- Nhân vật được giới thiệu ngay ở câu đầu: Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao.

- Sự xuất hiện của những yếu tố có tính chất kì ảo (thần cờ Đế Thích trên thiên đình cưỡi mây xuống trần, Đế Thích cưỡi mây về trời).

- Có chỉ tiết gợi trí tò mò của người đọc, người nghe (lời dặn của Đế Thích khi từ biệt Trương Ba để về thiên đình).

Câu 2 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Để đánh dấu lời của các nhân vật trong truyện, đoạn trích đã dùng hình thức trình bày nào?

Trả lời:

Trong đoạn trích, người viết văn bản đã dùng hai hình thức trình bày để giúp

người đọc nhận ra lời nhân vật:

- Hình thức thứ nhất: Sau lời dẫn của người kể chuyện, dùng dấu hai chấm, xuống dòng, gạch đầu dòng, ghi lời của nhân vật.

- Hình thức thứ hai: Sau lời dẫn của người kể chuyện, dùng dấu hai chấm, mở ngoặc kép, ghi lời của nhân vật.

Câu 3 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Ở phần sau của truyện, Đế Thích và Trương Ba sẽ còn gặp nhau. Câu nào trong đoạn trích đã hé lộ điều đó.

Trả lời:

Để nhận biết khả năng Trương Ba gặp lại Đế Thích ở phần sau của truyện, em cần chú ý chi tiết: Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một nắm hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống.” Trong truyện cổ tích, những vật lạ như nắm hương của Đế Thích bao giờ cũng phát huy tác dụng. Và quả đúng như thế. Nếu em đọc hết truyện sẽ biết rằng: Sau này, Trương Ba chết đột ngột, bà vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy nắm hương mà Trương Ba đã cất, thắp lên trước bàn thờ của chồng, Đế Thích liền bay từ trời xuống hỏi có chuyện gì.

Câu 4 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Phân tích tính chất kì ảo của một nhân vật trong đoạn trích.

Trả lời:

Trong đoạn trích, tính chất kì ảo được thể hiện ở nhân vật Đế Thích. Đây là nhân vật thần linh (gọi là thân cờ), ngự trên thiên đình, có khả năng nghe được tiếng nói của con người ở hạ giới, có thể cưỡi mây xuống trần, thoắt ẩn thoát hiện, có loại hương đặc biệt (tặng Trương Ba một nắm, hễ muốn gặp Để Thích thì thắp lên một cây). Những chỉ tiết lạ lùng, huyền ảo này hoàn toàn không có thực trong đời sống. Đó là kết quả sự thêu dệt bằng trí tưởng tượng phong phú của dân gian mà thôi.

Câu 5 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Nếu phải kể lại đoạn trên bằng lời của một trong các nhân vật đã xuất hiện, em sẽ chọn kể theo lời nhân vật nào? Vì sao?

Trả lời:

Trong đoạn trích có ba nhân vật: Trương Ba, Kỵ Như và Đế Thích. Trong đó, Kỵ Như và Đế Thích xuất hiện sau, không biết được tường tận về Trương Ba. Do đó, chọn Trương Ba làm nhân vật kể chuyện là phù hợp nhất.

Câu 6 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Dựa vào các câu “Buổi ấy, ở Trung Quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí”, em hãy đoán nghĩa của từ tỉ thí.

Trả lời:

Từ tỉ thí nếu đứng riêng, có thể em chưa hiểu nghĩa của nó. Nhưng dựa vào các câu “Buổi ấy, ở Trung Quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liên xách khăn gói sang Nam tìm đến tận nhà tỉ thí”, ta có cơ sở để đoán tỉ thí là đấu với nhau (ở đây là đánh cờ) để phân định người thắng người thua.

Câu 7 trang 14 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Trong câu “Hai người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được.”, em hãy tìm từ khác thay cho từ thua được mà vẫn giữ nguyên nghĩa của câu.

Trả lời:

Trong câu “Hai người đọ tài nhau mấy ván liền không phân thua được”, từ thua được có thể thay bằng thắng bại hoặc hơn thua. Thay từ như thế, nghĩa của câu vẫn không thay đổi.

Bài tập 8. trang 15, 16 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại hỏi:  

- Con làm sao còn khóc nữa?

- Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.

- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một bộ áo mớ ba, một cái xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy được một đôi giày thêu, đi vừa như in. Lọ thứ ba đào lên thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất bỗng chốc nó hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người.

(Nguyễn Đổng Chi, Tấm Cám, trích Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 2,

NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 1170)

Câu 1 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Đoạn trích trên thuộc phần mở đầu, phần giữa hay phần kết của truyện Tấm Cám? Do đâu mà em biết điều đó?

Trả lời:

Đoạn trích không thể là phần đầu của truyện cổ tích, vì không có lời giới thiệu về thời gian, giới thiệu về nhân vật. Đoạn trích cũng không thể là phần cuối, vì chưa biết số phận của nhân vật như thế nào. Vậy, chắc chắn đoạn trích thuộc phần giữa của truyện.

Câu 2 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Chỉ ra những chi tiết kì ảo trong đoạn trích.

Trả lời:

Trong đoạn trích, có một số chỉ tiết kì ảo:

- Sự xuất hiện của ông Bụt.

- Đàn chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nơi.

- Đào những chiếc lọ chôn xương bống lên, Tấm có váy áo đẹp, đôi giày thêu, con ngựa và bộ yên cương.

Câu 3 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Người kể chuyện trong đoạn trích trên đây của truyện Tấm Cám và người kể chuyện trong truyện Thạch Sanh có phải cùng một kiểu không?

Trả lời:

Người kể chuyện trong đoạn trích của truyện Tấm Cám và người kể chuyện trong truyện Thạch Sanh thuộc cùng một kiểu. Đó đều là người kể chuyện ngôi thứ ba, rất phổ biến ở truyện cổ tích.

Câu 4 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Khi tóm tắt đoạn trích trên, không thể bỏ qua những chi tiết nào?

Trả lời:

Những chỉ tiết không thể bỏ qua khi tóm tắt đoạn trích:

- Đàn chim sẻ nhặt thóc giúp Tấm.

- Không có quần áo đẹp để đi dự hội, Tấm khóc.

- Ông Bụt bảo Tấm cách để có tất cả mọi thứ đi trẩy hội.

- Một chiếc giày của Tấm bị rơi xuống nước.

Câu 5 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Theo suy luận của em, chi tiết nào trong đoạn trích có vai trò quan trọng trong diễn biến tiếp theo của câu chuyện?

Trả lời:

Đọc đoạn trích, có thể đoán chi tiết một chiếc giày của Tấm bị rơi sẽ có vai trò quan trọng trong phần tiếp theo của câu chuyện.

Câu 6 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Nếu chọn một trong hai nhân vật Tấm hoặc Bụt kể lại phần chuyện trong đoạn trích trên, em sẽ chọn nhân vật nào? Vì sao?

Trả lời:

Trong đoạn trích, ông Bụt chỉ xuất hiện khi Tấm cần giúp đỡ, còn Tấm mới là người trong cuộc, biết hết mọi việc xảy ra với mình. Cho nên chọn nhân vật Tấm làm người kể chuyện thì hợp lý hơn.

Câu 7 trang 15 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Từ suy suyển và suy giảm trong hai câu sau có thể thay thế cho nhau được không? Vì sao?

- Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt.

- Từ sau trận ốm, sức khỏe của bà suy giảm rất rõ.

Trả lời:

Từ suy suyển  suy giảm ở hai câu trong bài tập này không thay thế cho nhau được, vì nghĩa của chúng không hoàn toàn giống nhau. Trong tiếng Việt, khi nói về cái gì đó được giữ nguyên vẹn như ban đầu thì người ta dùng cụm từ không suy suyển. Ví dụ: Gió mạnh, nhưng cây cối trong vườn vẫn không suy suyển. Khi nói về một cái gì đó bị vơi bớt đi, người ta dùng từ suy giảm. Ví dụ: Sau trận ốm, sức khỏe của ông ấy suy giảm rất nhiều.

Câu 8 trang 16 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Trong câu “Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con trẩy hội.”, cụm từ trẩy hội có nghĩa như thế nào? Có giống với nghĩa của những cụm từ dự hội, xem hội hay không?

Trả lời:

Trong câu văn đã cho, trẩy hội có nghĩa là đi dự hội hằng năm, thường đi với đông người. Dự hội  xem hội không có những nét nghĩa đó.

Viết trang 16

Bài tập 1. trang 16 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Viết bài văn kể lại phần cuối truyện Sọ Dừa (từ Từ hôm cưới Sọ Dừa không còn là Sọ Dừa nữa đến hết truyện) theo lời kể của cô em út.

Trả lời:

Tôi là cô Út trong một gia đình có ba chị em gái. Tôi may mắn lấy được một người chồng khôi ngô, tài giỏi. Thế nhưng chẳng ai biết được trước đó, chồng tôi lại mang hình hài dị dạng khiến ai cũng phải khiếp sợ. Nhưng bên trong hình hài xấu xí ấy lại là một tấm lòng nhân hậu, hiền lành nên tôi đem lòng cảm mến và đồng ý làm vợ chàng.

           Ngày cưới của chúng tôi rất linh đình. Nhưng đúng lúc rước dâu, chẳng ai thấy chàng Sọ Dừa đâu, chỉ thấy xuất hiện một chàng trai khôi ngô, tuấn tú tự xưng là Sọ Dừa. Ai nấy đều sửng sốt, mừng rỡ, chỉ có hai cô chị tôi là tiếc, vừa ghen tức.

Vợ chồng tôi sống bên nhau rất hạnh phúc. Chồng tôi còn miệt mài đèn sách và đỗ trạng nguyên năm ấy. Nhưng chúng tôi phải chia tay nhau vì khi thành quan trạng, chàng Sọ Dừa ngày nào phải đi sứ theo lệnh vua. Kì lạ, trước khi đi, chàng đưa cho tôi một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn dò tôi phải luôn mang theo bên mình.

             Từ ngày đi lấy chồng, hai chị gái tôi đối xử với tôi khác hẳn. Hai chị còn rủ tôi đi chèo thuyền ra biển. Nhưng đúng hôm đó, tôi bị ngã xuống nước rồi bị cá kình nuốt chửng. Trong bụng cá, tôi bèn lấy con dao đâm cá. Cá chết nên nổi lên mặt biển rồi dạt vào hòn đảo ngoài khơi. Tôi khoét bụng cá chui ra, nhóm lửa từ hai hòn đá rồi nước thịt cá ăn cho đỡ đói. Hai quả trứng chồng đưa nay đã nở thành một đôi gà đẹp. Nhờ có chúng mà tôi bớt cô đơn giữa hòn đảo hoang vắng. Rồi chính chú gà trống đã gáy gọi chiếc thuyền lớn đang lướt qua đảo vào cứu tôi. Tôi mừng vui khôn xiết khi đó chính là thuyền của quan trạng chồng mình. Chàng đón tôi về, mở tiệc mừng, mời hàng xóm đến chung vui. Tôi không ra đón tiếp mọi người. Hai chị tôi không hay biết nên giả vờ kể lể thương xót việc tôi ngã xuống biển. Cho đến khi chồng tôi gọi tôi ra thì hai chị ngạc nhiên và xấu hổ tột cùng, tìm cách ra về. Cũng từ đó, chẳng ai thấy hai người chị của tôi nữa. Còn tôi và chàng Sọ Dừa có một cuộc sống vô cùng hạnh phúc bên nhau.

Bài tập 2. trang 16 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Viết bài văn kể lại phần cuối truyện Sọ Dừa (từ Từ hôm cưới Sọ Dừa không còn là Sọ Dừa nữa đến hết truyện) theo lời kể của quan trạng (Sọ Dừa).

Trả lời:

Cưới được cô Út dịu dàng, nết na làm vợ, tôi quyết định bỏ luôn vỏ sọ dừa để biến thành chàng trai tuấn tú, sánh bước bên nàng. Mọi người trong làng ai cũng chúc phúc cho tôi, còn hai cô chị vợ thì ghen tức ra mặt. Chắc họ chẳng thể ngờ được có một ngày tôi lại mang hình hài này.

            Thời gian sau, tôi cố gắng học hành để thi cử thành danh. Mùa thi năm ấy, tôi đỗ trạng nguyên, rồi được vua sai đi sứ nước láng giềng.Trước khi chia tay vợ, tôi có đưa cho nàng một con dao, hai hòn đá và hai quả trứng tôi dặn dò vợ cẩn thận tôi mới yên tâm lên đường. Tôi đi sứ không bao lâu thì trở về. Trên đường trở về, tôi đi qua một hòn đảo hoang, thấy trên bờ có tiếng gà gáy lạ. Linh tính mách bảo cho tôi có điều gì đó bí ẩn, tôi bèn cho thuyền cập bến đi vào hòn đảo. Tôi rất bất ngờ khi thấy vợ tôi đang một mình cô quạnh nơi đảo hoang. Vợ tôi khóc nức nở kể chuyện cho tôi nghe rằng, lúc tôi đi chưa được bao lâu, hai cô chị ghen ghét với vợ tôi, nên rủ vợ tôi đi chèo thuyền rồi đẩy nàng xuống biển. Nàng đã bị cá  kình nuốt vào bụng. Vợ tôi ghi nhớ lời tôi dặn, nên mang theo những thứ tôi chuẩn bị bên mình, nàng lấy con dao mổ bụng cá, rồi lên bờ đánh hai hòn đá ra lửa nướng thịt cá ăn. Hai quả trứng nở thành một đôi gà đẹp làm bạn với nàng. Nghe lời vợ kể mà tôi càng thấy thương vợ nhiều hơn, lại giận hai người chị vợ ác độc.

           Tôi đón nàng lên thuyền để trở về. Tới nhà, tôi ở tiệc linh đình mời bà con làng xóm. Hai cô chị vợ thấy thế đến, khóc lóc thương tiếc vợ tôi vì sự ra đi của vợ tôi. Tôi không nói gì, lúc ấy vợ tôi trong nhà đi ra, hai cô chị xấu hổ quá không nói gì lặng lẽ bỏ đi biệt tích. Từ ấy, gia đình tôi sống hạnh phúc vui vẻ bên nhau. Những sóng gió, thử thách đã khiến chúng tôi gắn bó và trân trọng nhau nhiều hơn.

Nói và Nghe trang 16

Bài tập 1. trang 16 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Kể lại đoạn cuối truyện Vua chích chòe (từ Giờ đây công chúa là một chị phụ bếp đến hết) theo lời kể của công chúa.

Trả lời:

Tôi chính thức trở thành một người phụ bếp trong cung sau biết bao nhiêu việc làm không thành công. Hàng ngày, tôi bỏ phần cơm của mình vào hai chiếc nồi con buộc chặt ở hai bên tạp dề để về nhà ăn cùng chồng mình.

              Hôm ấy trong cung tổ chức hôn lễ cho hoàng tử, con đầu lòng của nhà vua. Trước cảnh tượng nguy nga, lộng lẫy kia, tôi tủi cho chính bản thân mình. Cũng chỉ vì cái tính kiêu căng, ngông cuồng của mình đã khiến tôi trở nên thấp hèn và khổ cực như bây giờ.

              Bỗng nhà vua bước lại, nắm lấy tay tôi mời tôi nhảy khiến tôi sợ hãi vô cùng. Nhanh chóng tôi nhận ra đó là Vua chích choè. Sự thật này càng khiến tôi bối rối. Tôi né tránh nhưng đã bị vua kéo vào giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà.

              Tôi vô cùng xấu hổ trước những ánh mắt tò mò và lời gièm pha của những người chứng kiến. Sợ hãi, tôi càng cố gắng bỏ chạy nhưng vẫn bị vua chích choè giữ lại. Chàng nói với tôi rằng chàng chính là người hát rong, chàng kị sĩ. Chàng làm tất cả những việc này cũng vì muốn uốn nắn tính kiêu ngạo, ngông cuồng của tôi. Tôi khóc vì nhận ra những điều sai trái của mình. Sau đó, hôn lễ của Vua chích choè với tôi đã diễn ra rất vui vẻ và hạnh phúc.

Bài tập 2. trang 16 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 2: Kể lại đoạn cuối truyện Vua chích chòe (từ Giờ đây công chúa là một chị phụ bếp đến hết) theo lời kể của Vua chích chòe.

Trả lời:

Vợ tôi chính thức trở thành một người phụ bếp trong cung sau biết bao nhiêu việc làm không thành công. Công việc của cô ấy rất vất vả. Hàng ngày, cô ấy bỏ phần cơm của mình vào hai chiếc nồi con buộc chặt ở hai bên tạp dề để về nhà ăn cùng tôi.

           Hôm ấy trong cung tổ chức hôn lễ cho hoàng tử, con đầu lòng của nhà vua. Tôi vẫn luôn dõi theo từng hành động của vợ. Tôi nhận thấy ánh mắt vô cùng buồn tủi của cô ấy trước cảnh tượng nguy nga, lộng lẫy của buổi tiệc. Hình như cô ấy đã nhận ra sai lầm của bản thân mình khi cố gắng thể hiện cái tính kiêu căng, ngông cuồng.

            Có lẽ cô ấy đã nhận ra sai lầm của mình, tôi quyết định nói thật thân phận của mình cho cô ấy biết. Tôi bước lại, nắm lấy tay cô ấy mời nhảy. Hành động của  tôi đã khiến cô ấy sợ hãi vô cùng. Rồi khi nhận ra tôi chính là Vua chích choè, cô ấy lại càng xấu hổ, cố né tránh, bỏ chạy. Tôi không thể để cô ấy đi nên đã thừa nhận rằng mình chính là người hát rong, là chàng kị sĩ. Tôi làm tất cả những việc này cũng vì muốn uốn nắn tính kiêu ngạo, ngông cuồng của cô ấy. Cô ấy đã khóc rất nhiều khi nhận ra những điều sai trái của mình. Sau đó, hôn lễ của tôi và cô ấy đã diễn ra rất vui vẻ và hạnh phúc.

Đánh giá

0

0 đánh giá