Tài liệu tác giả tác phẩm Nghĩ thêm về Chuyện người con gái Nam Xương Ngữ văn lớp 9 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nghĩ thêm về Chuyện người con gái Nam Xương lớp 9.
Tác giả tác phẩm: Nghĩ thêm về Chuyện người con gái Nam Xương - Ngữ văn 9
I. Tác giả Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Chú (sinh năm 1929, quê ở Nghi Hợp, Nghi Lộc, Nghệ An.
- Ông là giảng viên cao cấp của khoa Ngữ văn (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), nổi tiếng vì ông là người thầy nhiệt tâm, nhà nghiên cứu nhiệt huyết.
- Năm 1984 ông được phong học hàm Phó giáo sư và năm 1991 được phong học hàm Giáo sư.
- Các sáng tác của ông là sức sống của tinh thần nhân văn. Văn chương của ông đi sâu vào tấm lòng, vào văn chương chở đạo, vào tư tưởng nhân nghĩa vừa nồng vừa sâu. Phong cách sáng tác của ông luôn đề cao tinh thần nhân văn trong tác phẩm.
1. Thể loại
- Tác phẩm Nghĩ thêm về Chuyện người con gái Nam Xương thuộc thể loại: nghị luận văn học.
2. Xuất xứ
- In trong Nguyễn Đình Chú, Tuyển tập, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: nghị luận.
4. Tóm tắt
Văn bản bàn luận về vấn đề hạnh phúc mong manh của người phụ nữ trong xã hội cũ thông qua văn bản Chuyện người con gái Nam Xương. Vũ Thị Thiết gả cho Trương Sinh chưa được bao lâu thì phải tiễn chồng đi lính. Ở nhà, nàng một mình sinh con, lo ma chay cho mẹ chồng. Sau ba năm, Trương Sinh về, chàng hiểu lầm vợ ngoại tình liền đánh đuổi nàng đi, vì oan ức, nàng trẫm mình xuống bến Hoàng Giang. Sau khi nàng chết, Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ nhưng đã muộn. Vũ Nương trẫm mình được Linh Phi cưu mang, làm tiên nữ dưới thủy cung, một ngày gặp được Phan Lang- người cùng quê liền đưa tín vật và nhờ gửi lời nhắn đến chồng. Trương Sinh nhận được lời nhắn, lập đàn trên bến Hoàng Giang, Vũ Nương hiện về một thoáng rồi biến mất mãi mãi.
5. Bố cục đoạn trích
- Phần 1: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Phân tích thêm về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
- Phần 2: Triển khai vấn đề: số phận mong manh của người phụ nữ.
- Phần 3: Tổng kết lại vấn đề: số phận mong manh của người phụ nữ.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản bàn luận về vấn đề hạnh phúc mong manh của người phụ nữ trong xã hội cũ thông qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Hạnh phúc của họ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, đôi khi, dù người phụ nữ có cố gắng thế nào thì họ cũng không tự quyết định được hạnh phúc của chính mình.
7. Giá trị nghệ thuật
- Lập luận rõ ràng, mạch lạc.
- Lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
1. Cách dẫn dắt, giới thiệu vấn đề của tác giả
- Văn bản bàn luận về vấn đề: Phân tích thêm về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
=> Tác giả dẫn dắt vấn đề một cách trực tiếp, nhưng vẫn khéo léo đề cập đến sự khác biệt của bài viết này khiến người đọc bị thu hút.
- Cái độc đáo, cái cao siêu của truyện: đề cập đến vấn đề hạnh phúc mong manh của người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Nội dung:
+ Cái bóng tượng trưng cho sự chung thủy mà Vũ Nương dành cho Trương Sinh cũng chính cái bóng đã làm cho hạnh phúc của Vũ Nương tan vỡ.
+ Nguyên nhân Vũ Nương đau khổ không nằm ở việc Trương Sinh đi lính nhưng cũng không phải do chế độ nam nữ bất bình đẳng mà do chính lời nói hồn nhiên, ngây thơ của đứa con, là cái tính đa nghi, hay ghen của Trương Sinh.
2. Những vấn đề tác giả làm sáng tỏ thông qua văn bản Chuyện người con gái Nam Xương
- Người viết so sánh Chuyện người con gái Nam Xương với Truyện Kiều để làm rõ số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Người viết đã bác bỏ những ý kiến:
+ Sự tan nát hạnh phúc là do chế độ nam nữ bất bình đẳng.
+ Vũ Nương tan nát hạnh phúc vì chiến tranh.
- Tác giả đã làm sáng tỏ luận đề bằng những luận điểm:
+ Hình tượng trung tâm là Vũ Nương đã được xây dựng với tính cách một người phụ nữ đẹp người, đặc biệt là đẹp nết nhưng lại phải chịu một nỗi oan khiên tày trời.
+ Ở phương diện thể hiện nguyên nhân đau khổ của người phụ nữ, Chuyện người con gái Nam Xương có ý nghĩa triết học sâu sắc hơn, cao hơn Truyện Kiều, bởi nó đã chạm vào sự ma quái có thực trong sự sống vốn là nghiệt ngã của con người muôn nơi, muôn thuở.
- Bằng chứng, lí lẽ:
+ Có đúng là sự tan nát hạnh phúc của Vũ Nương đã bắt đầu từ cái bóng của chính Vũ Nương không?
+ Bởi như chính tác phẩm đã để lộ nguyên nhân quan trọng và trực tiếp làm tan nát đời Vũ Nương cùng với chuyện cái bóng của Vũ Nương, lời nói hồn nhiên, vô tư của đứa con, là cái “tính đa nghi”, “hay ghen” của anh chồng Trương Sinh.
+ Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã được thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao?
IV. Đọc tác phẩm: Nghĩ thêm về Chuyện người con gái Nam Xương
NGHĨ THÊM VỀ "CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG"
- NGUYỄN ĐÌNH CHÚ -
1. Với loại “thiên cổ kì bút” như Chuyện người con gái Nam Xương trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, dù đã được phân tích, khám phá nhiều nhưng thiết nghĩ vẫn có điều cần nói thêm. […]
2. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, hình tượng trung tâm là Vũ Nương đã được xây dựng với tính cách một phụ nữ đẹp người, đặc biệt là đẹp nết nhưng lại phải chịu một nỗi oan khiên tày trời. Nàng là hiện thân cho thân phận đau khô của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Nói thế hoàn toàn không sai nhưng chưa đủ để phân biệt được giá trị của Chuyện người con gái Nam Xương với các tác phẩm khác cùng nói về phẩm chất tốt đẹp và nỗi khổ của người phụ nữ ở thời trung đại. Muốn thấy được cái độc đáo và cũng là cao siêu của Chuyện người con gái Nam Xương, phải nói thêm điều này. Đó là cái mong manh vô cùng mong manh, mong manh tới độ với tư duy thông thường, trên thế gian này, chẳng ai có thể nghĩ tới. Nhưng đó là sự thật. Sự thật quá ư khắc nghiệt đối với hạnh phúc của đàn bà, chẳng riêng gì ở Việt Nam thời phong kiến, mà còn là với nữ giới muôn nơi, muôn thuở. Cứ đọc kĩ Chuyện người con gái Nam Xương thì thấy rõ. Có đúng là sự tan nát hạnh phúc của Vũ Nương đã bắt đầu từ cái bóng của chính Vũ Nương không? Chồng đi chiến trận, “ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Cái bóng là gì vậy? Nếu không phải là một biểu tượng cho sự đồng nhất mình với chồng. Kim - Kiều yêu nhau, Nguyễn Du đã có một cách nói đến mức sơn cùng thuỷ tận về chữ “đồng" trong tình yêu: "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương". Nguyễn Dữ trước Nguyễn Du, trong Chuyện người con gái Nam Xương, lấy cái bóng của Vũ Nương để nói là cha Đản, tức là chồng mình, kể cũng là một cách nói sơn cùng thuỷ tận về chữ “đồng” trong đạo vợ chồng. Vậy mà có ai ngờ rằng đời Vũ Nương tan nát bắt đầu chính từ cái bóng kia. Tan nát đến mức thánh thần, Trời Phật cũng chỉ có thể an ủi, bù đắp chút ít chứ không cứu lại được. Rồi nữa, tham gia vào việc phá nát hạnh phúc của Vũ Nương là ai? Trời ơi! Lại không ai khác mà chính là đứa con của Vũ Nương. Nó ngây thơ, trong trắng. Nó hoàn toàn vô tội. Nhưng thực tế khách quan, nó là tác nhân trực tiếp gây ra sự tan nát hạnh phúc của cuộc đời người mẹ thân yêu của nó. Có đáng sợ, có khủng khiếp không cho cái gọi là sự ma quái trong cuộc sống con người ở cõi trần này! Trong Truyện Kiều, nàng Kiều bị tan nát hạnh phúc, chịu hết hoạn nạn này đến hoạn nạn kia là bởi có thằng bán tơ vu oan, có viên quan quen nghề ăn hối lộ, có Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh chuyên nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, có Hoạn Bà, Hoạn Thư ỷ thế danh gia nanh nọc, có Hồ Tôn Hiến nổi tài lật lọng, ... Tóm lại là có nguyên nhân xã hội cụ thể, có những kẻ gian ác sờ sờ trước mắt mọi người, để người ta nếu chưa đủ sức chống lại, tiêu diệt thì có thể tìm cách né tránh, lánh xa nó. Đằng này, Vũ Nương làm sao mà né tránh được những tác nhân phá hoại đời mình một khi nó nằm ngay trong cái bóng của mình, nằm ngay trong cảnh mình vui đùa với con, nằm ngay trong khi mình muốn gắn bó keo sơn với chồng đang phải xa cách, nằm ngay trong một câu nói hồn nhiên, vô tư của đứa con ngây thơ, trong trắng của mình. Ở phương diện thể hiện nguyên nhân đau khổ của người phụ nữ, Chuyện người con gải Nam Xương có ý nghĩa triết học sâu sắc bởi nó đã chạm được vào sự ma quái có thực trong cuộc sống con người muôn thuở. Không ít người đã cho rằng sự tan nát hạnh phúc của Vũ Nương là do chế độ nam nữ bất bình đẳng. Nói thế nghe qua thấy có lí. Nhưng nghĩ kĩ thì thấy về cơ bản không hẳn thế. Bởi như chính tác phẩm đã để lộ, nguyên nhân quan trọng và trực tiếp làm tan nát đời Vũ Nương cùng với chuyện cái bóng của Vũ Nương, lời nói hồn nhiên, vô tư của đứa con, là cái “tính đa nghi”, "hay ghen" của anh chồng Trương Sinh. Mà cái tính “hay ghen” là gì? Là một hiện tượng tâm lí có liên quan đến sinh lí, tính người mà hình như tạo hoa chỉ ban riêng cho loài người. Nó rất ít liên quan đến vấn đề hình thái xã hội, chế độ chính trị, kể cả dân tộc và thời đại lịch sử. Nó chỉ trừ riêng cho những người mất trí hoặc giả với ai đó, dĩ nhiên là rất hiếm, có trạng thái tâm lí không bình thường hoặc có triết lí sống quá siêu việt. Trước phiên toà công lí trong Truyện Kiều, Hoạn Thư chẳng đã nói đúng cái quy luật muôn đời này sao: “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". "Người ta” đây chắc hẳn là có cả nam lẫn nữ. Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã được thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao? Phải nói rõ điều đó để hiểu được vấn đề triết học nhân sinh vô cùng sâu sắc mà Nguyễn Dữ đã nêu lên trong tác phẩm, dù tự giác hay tự phát, có ý thức hay vô tình. Phải hiểu rõ điều đó cũng là để hiểu đúng nguồn gốc tội lỗi của Trương Sinh trong việc đẩy vợ vào chỗ chết. Đúng là không ai không căm phẫn trước tội lỗi của anh chàng này nhưng từ đó mà quy về chế độ nam nữ bất bình đẳng thì về cơ bản chưa thật đúng ý tác phẩm. Nếu thế, cũng khó cắt nghĩa đúng hiện tượng Trương Sinh đã “động lòng thương, tìm vớt thây nàng” ngay cả khi còn “giận là nàng thất tiết”; cũng khó cắt nghĩa đúng sự “tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ” về sau, khi lại chính từ cái bóng của chàng và cũng qua câu nói của đứa con ngây thơ, trong trắng mà chàng hiểu ra mình đã lầm to để gây tội ác với vợ. Xin nói lại: Cái tội tày trời của Trương Sinh, xét nguyên nhân không gì khác, là cái tội của một anh chồng có “tính đa nghi”, "hay ghen", muốn tránh cũng không tránh được, mà tạo hoa đã trớ trêu ban cho anh ta cũng như bao chàng trai, cô gái khác trên thế gian này từ cổ chí kim, từ đông sang tây, cùng một lúc ban cho họ hạnh phúc tình yêu, tình vợ chồng. Để từ đó, văn chương có chuyện mà nói, mà sáng tạo, mà có Đe-xđê-mô-na (Desdemona) của nước Anh bị bóp cổ chết, Vũ Nương của Việt Nam phải tự vẫn, ... nhưng lại thành nổi tiếng với muôn đời. Đây đó lại còn có ý kiến cho rằng Vũ Nương tan nát hạnh phúc là vì chiến tranh. Xin nói ngay: Ý kiến này là hoàn toàn sai, là vô hình trung đã coi Chuyện người con gải Nam Xương cũng như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, trong khi hai tác phẩm có hai nội dung, hai chủ đề khác nhau, mặc dù đều phản ánh nỗi khổ của người phụ nữ. Cần thấy rằng chi tiết Trương Sinh đi chiến trận chẳng có vai trò quyết định gì trong nội dung câu chuyện đánh ghen đến mức đẩy vợ đến cái chết này. Giả sử anh ta không ra trận mà đi học xa về, đi buôn xa về, gặp con, con không nhận ra cha lại cứ nói cha là “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” (đúng là người ngoại tình với mẹ chứ còn ai nữa) thì chuyện gì đã xảy ra trong tác phẩm, chắc chắn lại xảy ra thôi. Ở trên đã có nói, với chi tiết phụ, nếu có thay đổi cũng chẳng ảnh hưởng gì đáng kể đến nội dung tác phẩm là như thế.
3. Rõ ràng truyện Chuyện người con gái Nam Xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc người phụ nữ muôn nơi, muôn thuở. Cho nên, những chàng trai, cô gái đang yêu nhau, những cặp vợ chồng dù đã hẹn non thề biển, đã kết tóc xe tơ với nhau trên thế gian này, vẫn cứ phải coi chừng, phải cảnh giác. Coi chừng, cảnh giác về nhiều thứ nhưng xin đừng quên coi chừng, cảnh giác với máu ghen. Hãy nhớ rằng chỉ nhỡ ra một chút thôi (ở đây là nghe con nói mà không hỏi lại vợ xem sao) thì đã đủ tan nát cả cuộc đời, đã đủ để hạnh phúc trong chốc lát trở thành mây khói, muốn cứu vãn cũng chẳng cứu vãn được nữa. Nguyễn Dữ từ sự cảm nhận, phát hiện được cái quy luật khắc nghiệt và ma quái đó trong cuộc sống của người phụ nữ mà tạo nên (nói đúng hơn là sáng tạo lại) một cốt truyện bao gồm một hệ thống chi tiết, trong đó đặc biệt có chi tiết chủ công ăm ắp trữ lượng nghệ thuật thông qua một bút pháp vừa thực vừa ảo, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Và cuối cùng là để lại cho văn học dân tộc một thiên tình sử bi thảm, nhức nhối trái tim người đọc bao đời nay, cho lịch sử văn học Việt Nam một áng “thiên cổ kì bút", cho riêng thể loại truyện ngắn Việt Nam một tác phẩm vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vời vợi của muôn đời.
V. Văn mẫu
Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
Tinh thần nhân đạo đã trở thành linh hồn của nhiều tác phẩm văn học. Nội dung ấy được thể hiện dưới nhiều màu sắc, hình thức. Trong văn học trung đại, một trong những biểu hiện của tinh thần nhân đạo là tấm lòng nhân ái đối với số phận mong manh, nhiều bất hạnh của người phụ nữ. Qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, nội dung đó được thể hiện qua tấm lòng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu.
Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn hậu bao dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là nàng Vũ Nương đẹp người đẹp nết và đầy tự trọng.
Nàng có một “tư dung tốt đẹp" nức tiếng xa gần. Chẳng vậy mà Trương Sinh - một người “con nhà hào phú” phải xin mẹ trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. Chẳng những vậy, nàng còn là người phụ nữ hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con.
Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không lần nào vợ chồng phải đến nỗi bất hoà”. Chiến tranh khiến hai vợ chồng chia li, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. [...] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Như vậy là nàng không hề nghĩ đến vinh hoa phú quý, chỉ nghĩ đến chân thành với tình vợ chồng keo sơn. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được".
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng mất, nặng thương yêu, lo lắng chu toàn: “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”. Tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động để khi mất, những lời cuối cùng thiêng liêng của cuộc đời bà dành để chúc phúc cho con dâu. Xưa nay, trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói “mẹ chồng con dâu” để chỉ mối quan hệ vốn không yên ấm giữa hai đối tượng này nhưng qua thái độ của người mẹ chồng đối với Vũ Nương người đọc thấu hiểu tấm lòng chân thành, sâu sắc đối với mẹ chồng của nàng.
Với con, Vũ Nương đã hết sức nuôi dạy, bảo ban, thương yêu và chiều chuộng con (để đến nỗi một trong những hành động vô tư của nàng đã trở thành nguyên nhân buộc nàng tự vẫn...).
Trương Sinh trở về, nghi cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc; dùng những lời lẽ tàn nhẫn mà nhiếc móc nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Không chỉ vậy, với tư cách là một cá nhân trong xã hội, ở Vũ Nương còn nổi bật lên lòng tự trọng đầy cảm động. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn khao khát hạnh phúc trần gian nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm hứng ngợi ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương của Nguyễn Dữ ta còn có thể kể đến chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm,...
Nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và những tai họa khôn lường: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại cất lên tiếng nói đồng cảm với những thân phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”.
Nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh.
Trước hết, nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đáng ra nàng phải được kén một tấm chồng đức tài tương xứng. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời lại chỉ dành cho nàng một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vô học nhưng giàu có “con nhà hào phú” “xin mẹ trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó như một cuộc trao đổi, mua bán đầy tính thương mại.
Về đến nhà chồng, Vũ Nương phải hết sức giữ gìn trước con người rất mực đa nghi của Trương Sinh: “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Nhưng hạnh phúc phải do cả hai bên vợ chồng cùng đắp vun gìn giữ. Sau mấy năm dài đằng đẵng mong ngóng chồng về, cái giá Vũ Nương nhận được thật quá chua xót.
Khi chồng đi lính, đêm đêm để con đỡ tủi và lòng mình đỡ nhớ, Vũ Nương chỉ bóng mình trên vách rồi bảo con đó là cha nó. Nhưng thiện ý của nàng đã bị hiểu lầm. Nghe con nói kể về người cha đêm đêm vẫn đến của nó, Trương Sinh với tính đa nghi sẵn có đã hiểu oan cho tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Chàng ta vội nghe lời con trẻ mà không suy xét đúng sai: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được". Rồi hồ đồ, độc đoán không đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với Vũ Nương: “chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”.
Trước nỗi oan không gì giãi bày được (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên cớ việc nổi giận của mình), cuộc đời Vũ Nương bế tắc: nếu sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi vậy, dẫu vẫn còn khao khát vương vấn hạnh phúc trần gian, nàng đành chấp nhận cái chết, trầm mình xuống sông Hoàng Giang.
Thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy, họ không được làm chủ cuộc sống của mình, luôn luôn là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng. Số phận bất hạnh của Vũ Nương gợi đến bao phong ba bão táp đã đi qua cuộc đời của những Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ, người chinh phụ,... trong văn học trung đại.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ không tiến xa hơn câu chuyện dân gian là mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến, mặt nước diệu kì.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn. Chính cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm đã giúp “Chuyện người con gái Nam Xương” của ông đi suốt những năm tháng lịch sử thăng trầm của dân tộc.