Tài liệu tác giả tác phẩm Chiều xuân Ngữ văn lớp 9 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Chiều xuân lớp 9.
Tác giả tác phẩm: Chiều xuân - Ngữ văn 9
I. Tác giả Anh Thơ
1. Tiểu sử - Cuộc đời
- Anh Thơ (1921 - 2005).
- Tên khai sinh là Vương Kiều Ân, bút hiệu Tuyết Anh .
- Quê: tỉnh Hải Dương, trong một gia đình viên chức nhỏ, xuất thân Nho học.
- Nhà thơ chưa học hết bậc tiểu học nhưng chịu khó đọc sách ham văn chương.
- Sống trong không khí gia đình buồn tẻ nặng nền nếp phong kiến, bà tìm đến thơ ca tự giải thoát và khẳng định mình như nhiều thanh niên thời đó.
-Tháng Tám 1945 hăng hái tham gia cách mạng kháng chiến và xây dựng đất nước bằng thơ ca, là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam
2. Sự nghiệp sáng tác
a. Tác phẩm chính
- Tiểu thuyết "Răng đen", thơ "Bức tranh quê".
- Sau cách mạng tháng Tám: Kể chuyện Vũ Lăng, Theo cánh chim câu, Đảo ngọc, Hoa dứa trắng, Quê chồng.
b. Phong cách nghệ thuật
- Thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc: bờ tre, con đò, bến sống, với những nét vẽ chân thực, tinh tế thấm đượm một chút tình quê đằm thắm pha chút bâng khuâng buồn của thơ mới.
1. Thể loại
- Tác phẩm Chiều xuân thuộc thể loại: thơ tám chữ.
2. Xuất xứ
- Dẫn theo HOÀI THANH – HOÀI CHÂN, Thi nhân Việt Nam, sách đã dẫn.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.
4. Bố cục đoạn trích
- Khổ 1: Bức tranh chiều xuân trên bên vắng.
- Khổ 2: Bức tranh chiều xuân trên đường đê.
- Khổ 3: Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng.
5. Giá trị nội dung
- Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ.
- Tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.
6. Giá trị nghệ thuật
- Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy.
- Thủ pháp lấy cái động để nói cái tĩnh.
1. Bức tranh chiều xuân
- Bức tranh làng quê mộc mạc, êm dịu, thanh bình với những hình ảnh bình dị, quen thuộc, thơ mộng: mưa bụi, con đò, dòng sông, quán tranh, hoa xoan, con đê, đàn sáo, trâu bò, đồng lúa…
- Bức tranh tĩnh lặng, thanh nhã, tươi tắn, đượm buồn:
+ Các đối tượng được miêu tả trong trạng thái nhẹ nhàng, khoan thai: mưa đổ bụi êm êm, đàn sáo…vu vơ, cánh bướm rập rờn, trâu bò thong thả.
+ Không khí tĩnh lặng, bâng khuâng: quán đứng im lìm, đồng lúa ướt lặng, trâu bò thong thả cúi ăn mưa,…
+ Màu sắc tươi tắn, giàu sức sống: màu tím hoa xoan, màu đen của đàn sáo, màu rực rỡ của cánh bướm, màu xanh rờn của đồng lúa, màu thắm đỏ của chiếc yếm.
+ Bức tranh có nhiều điểm nhấn độc đáo: mưa đổ bụi, trâu bò cúi ăn mưa; cô nàng yếm thắm đang lao động chợt giật mình bởi đàn cò con.
=> Sự độc đáo của bức tranh nằm ở việc tác giả thâu tóm rất thành công linh hồn của làng quê Bắc Bộ ngày xuân với những nét đẹp đặc trưng không thể nhầm lẫn.
2. Không khí và nhịp sống thôn quê trong bài thơ
- Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:
+ Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.
+ Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…
+ Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khi đàn cò bụt bay ra.
- Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:
+ Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.
+ Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai.
IV. Đọc tác phẩm: Chiều xuân
CHIỀU XUÂN
- ANH THƠ -
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ,
Mấy cánh bướm dập dờn trôi trước gió
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa
V. Văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều xuân
Nhận xét về nữ sĩ Anh Thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương đã viết: “Khi chị đến thì phong trào Thơ mới đã ổn định với các tên tuổi tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng: những bức tranh thôn quê xứ Bắc. Cùng với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân… Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương làng nước của người Việt Nam mình”. Điều này được thể hiện rất rõ qua bài thơ “Chiều xuân”.
Thi phẩm “Chiều xuân” nằm trong tập thơ “Bức tranh quê”, được xuất bản năm 1941. Tập thơ nói chung và tác phẩm nói riêng đã đưa tên tuổi của nàng thiếu nữ mới 17 tuổi xứ Kinh Bắc tỏa sáng, giúp Anh Thơ dành được giải thưởng trong cuộc thi thơ của Tự lực văn đoàn. Không quá cầu kì, ngay từ nhan đề, nhà thơ đã thể hiện nội dung chính của tác phẩm. Cái tên “Chiều xuân” nhấn mạnh vào không gian, thời gian mà nhân vật trữ tình đang đắm chìm: buổi chiều mùa xuân thơ mộng. Buổi chiều vốn dĩ xuất hiện rất nhiều trong văn học Việt Nam, đặc biệt là những câu ca dao nói về nỗi nhớ, nỗi buồn:
“Chiều chiều bóng đổ qua cầu
Con ong say vì mật, con bướm sầu vì hoa.”
Tác giả tả mùa xuân - mùa đẹp nhất trong năm, biểu tượng của sức sống, sự hồi sinh nhưng lại chọn thời gian buổi chiều. Điều này dường như báo hiệu bài thơ sẽ khắc họa một bức tranh thiên nhiên rất mực giản dị, đằm thắm nhưng phảng phất nỗi buồn. Từ hình ảnh chiều xuân Bắc Bộ trên bến vắng, đường đê đến cánh đồng, Anh Thơ đã thực sự lay động tâm hồn người đọc.
Mở đầu bài thơ, tác giả đưa người đọc đến với không gian bến sông quê quen thuộc có cơn mưa xuân:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”
Mưa phùn vốn là một đặc trưng của mùa xuân đất Bắc. Mưa an ủi lòng người, làm dịu đi cái rét ngọt khô khốc của mùa đông nhưng cũng chẳng ồn ào giống mưa rào mùa hạ. Nhà thơ “Chân quê” Nguyễn Bính cũng từng ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của những cơn mưa phùn lất phất ấy mà viết nên những vần thơ:
“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy.”
Mưa của Nguyễn Bính “bay”, mưa của Anh Thơ “đổ”. Mưa của Nguyễn Bính “phơi phới” vui tươi, thắm đượm ý tình như trái tim người thiếu nữ xao xuyến những nhịp đập yêu đương còn mưa trong thơ Anh Thơ lại “êm êm” yên bình, thoáng chút cô liêu. Đóa hoa xoan tím biếc rụng dưới chân Nguyễn Bính “lớp lớp”, “vơi đầy” nhưng sang đến trong cảm nhận của Anh Thơ lại là ấn tượng về sự tan tác, “rụng tơi bời”. Quả thực, “Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác”. Cùng viết về một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có những cách khai thác riêng. Chi tiết “bến vắng” mở ra một không gian rộng lớn mênh mông nhưng đìu hiu, quạnh quẽ. Động từ “đổ” diễn tả cơn mưa không nặng hạt nhưng có mật độ dày đặc, tựa như lớp bụi mờ liên tục trút xuống bến sông. “đổ” thế mà lại “êm” đến lạ kỳ! Cảnh vật cơ hồ không một tiếng động. Biện pháp nhân hóa “biếng lười nằm mặc nước sông trôi” khiến hình ảnh con đò trở nên sinh động. Con đò tựa như một người đương thời ngơi nghỉ, sau khi đã vất vả chộn rộn suốt một năm. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh “Quán tranh”. Đó là một sản phẩm của con người nhưng ở đây mái tranh bên sông lại “đứng im lìm trong vắng lặng”. “im” và “vắng” xuất hiện trong tùng một câu thơ càng như cực tả cái cô đơn, hoang vu của cảnh vật. Có mưa, có hoa, có quán nước, con đò, khổ thơ hội tụ tất cả những hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam. Bức tranh chiều xuân nơi bến đò nên thơ mà đượm buồn man mác qua cảm nhận tinh tế của “nàng thơ áo trắng sông Thương”.
Khổ thơ thứ hai, tác giả đã chuyển hướng nhìn sang con đê và có những phát hiện thú vị:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”
Đoạn thơ đã xuất hiện những gam màu tươi sáng của cỏ non, đàn sáo, cánh bướm rực rỡ và đàn trâu, đàn bò. Điệp từ “cỏ” lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với cách viết “tràn biếc” gợi lên hình ảnh thảm cỏ xanh non kéo dài tít tắp tận chân trời. Màu xanh bao trùm lấy con đê, miên man vô tận. Những đàn sáo xuất hiện làm khung cảnh thêm phần sinh động. Từ láy “vu vơ” diễn tả tâm thế ung dung, thong thả như đang dạo chơi xuân của đàn sáo. Nhà văn Nhất Linh đã nhận xét rằng Anh Thơ “không chỉ thơ đẹp mà mắt cũng đẹp”. Con mắt là cửa sổ của tâm hồn, chứa đựng những rung động tình cảm sâu lắng nhất. Với con mắt tinh tế của mình, Anh Thơ đã viết nên những vần thơ tuyệt đẹp. Bà dùng từ “trôi” miêu tả chuyển động của những cánh bướm, đem đến cảm giác bướm bay nhẹ đến mức tưởng như đôi cánh của chúng được làn gió nâng đi. Hình ảnh “Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa” đã cho thấy nhịp sống yên bình, thanh tĩnh ở làng quê. Những câu thơ chứa chan niềm hạnh phúc dịu ngọt, man mát dễ chịu, khẽ khàng len lỏi vào tâm hồn người đọc. Tác phẩm đúng là “giọng thơ trong sáng như tiếng thở dài của người thiếu nữ ngồi sau khung cửa nhỏ nhìn thấy chiều quê yên tĩnh đường tràn ngập ánh dương quang”
Đến khổ thơ cuối cùng, tác giả hoàn thiện những nét gam màu cuối cùng của bức tranh xuân:
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”
Vẫn là màu xanh nhưng cái xanh non, xanh biếc của cỏ sẽ khác với xanh rờn của lúa. “xanh rờn” đi với “ướt lặng” đem đến ấn tượng về một đồng lúa rộng mênh mông và yên tĩnh. Mưa xuân làm ướt ruộng đồng, khiến ta có cảm giác màu xanh như càng được tô đậm thêm, chảy tràn khắp đất trời. Thế rồi, những cánh cò trắng xuất hiện xé tan màu xanh u tịch ấy. Từ “bỗng” thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, bất ngờ tột độ của nhà thơ. Hai câu thơ đầu đoạn làm hiện ra trong tâm trí người đọc hình ảnh những cánh đồng lúa thân thương trong ca dao:
“Cánh cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng.”
Sắc màu tươi đẹp nhất trong bức tranh đã xuất hiện, chính là màu đỏ thắm từ chiếc yếm của người con gái. Sự “giật mình” của cô gái dẫu nhỏ bé mà cũng đủ làm sống dậy quang cảnh xung quanh, đem đến sức sống cho buổi chiều xuân. Cách dùng từ “Cúi cuốc cào cỏ” rất độc đáo với việc sử dụng phụ âm đầu “C” liên tiếp, thể hiện những tâm thế lao động cần mẫn, động tác thuần thục của người thiếu nữ. Cô đang gieo trồng sự sống trên những thửa ruộng sắp ra hoa.
Như vậy, bằng thể thơ tự do, cách ngắt nhịp linh hoạt, ngôn ngữ thơ trong sáng, hình ảnh thơ giản dị, nhịp điệu thơ chậm rãi và hơn hết là bút pháp tả cảnh với những nét chấm phá điêu luyện, Anh Thơ đã vẽ nên bức tranh chiều xuân ở nông thôn Bắc Bộ rất đỗi hữu tình, nên thơ. Qua trái tim nhạy cảm, yêu cái đẹp của một người thiếu nữ, từng nét mưa, nét hoa cũng trở nên thoáng gợi buồn. Từ đó, ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của nhà thơ.