Văn bản Ba chàng sinh viên - Cô-nan Đoi-lơ - Nội dung, tác giả, tác phẩm

117

Tài liệu tác giả tác phẩm Ba chàng sinh viên Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Ba chàng sinh viên lớp 9.

Tác giả tác phẩm: Ba chàng sinh viên - Ngữ văn 9

I. Tác giả Cô-nan Đoi-lơ

Văn bản Ba chàng sinh viên - Cô-nan Đoi-lơ - Nội dung, tác giả, tác phẩm (ảnh 1)

- Cô-nan Đoi-lơ (1859 – 1930), là một nhà văn người Xcốt-len nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám Sơ-lốc Hôm – tác phẩm được cho là một sáng kiến lớn trong lĩnh vực tiểu thuyết trinh thám.

- Lên 9 tuổi, ông được gửi tới trường dự bị Dòng Tên C

 

ơ đốc giáo ST Marys Hall, Stonyhurts.

- Năm 1875, ông rời trường và chối bỏ Thiên chúa giáo để trở thành một người theo thuyết bất khả thi.

- Từ 1876 đến 1881, ông học ngành y tại Đại học Edinburgh, gồm cả một giai đoạn làm việc tại thị trấn Aston.

- Sau khi học tại trường, ông trở thành bác sĩ trên một con tàu tới bờ biển Tây Phi, và sau đó vào năm 1882, ông lập một phòng khám tại Plymouth. Ông hoàn thành luận án tiến sĩ về Tabes Dorsalis năm 1885.

- Phòng khám của ông không thành công lắm: trong khi chờ bệnh nhân, ông bắt đầu viết truyện.

- Năm 1885, ông cưới Louisa Hawkins – bà mắc bệnh lao

 và mất năm 1906. Năm 1907, ông cưới Jean Leckie, người ông gặp lần đầu và yêu trong cùng năm 1897 nhưng vẫn duy trì quan hệ thuần khiết với bà vì chung thủy với người vợ đầu tiên.

- Năm 1890, Cô-nan Đoi-lơ học về mắt tại Viên, ông tới London năm 1891 để lập một phòng khám nhãn khoa.

- Cô-nan Đoi-lơ qua đời vì nhồi máu cơ tim ở tuổi 71.

- Trong suốt quá trình mở phòng khám, có rất ít bệnh nhân đến khám bệnh, điều này đã tạo điều kiện cho Cô-nan Đoi-lơ có nhiều thời gian viết truyện.

- Ông sáng tác ở nhiều thể loại như: tiểu thuyết lịch sử, truyện khoa học viễn tưởng, truyện ngắn, kịch… Ông nổi tiếng trên toàn thế giới với truyện trinh thám, trong đó nhân v

ật chính là Sơ-lốc Hôm. Sơ-lốc Hôm đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của Cô-nan Đoi-lơ.

- Các tác phẩm tiêu biểu: Cuộc điều tra màu đỏ (1887, tiểu thuyết), Dấu bộ tứ (1890, tiểu thuyết), Những cuộc phiêu lưu của Sơ-lốc Hôm (1892, 12 truyện ngắn), Những hồi ức về Sơ-lốc Hôm (1894, 12 truyện ngắn),…

II. Tìm hiểu văn bản Ba chàng sinh viên

1. Thể loại

- Tác phẩm Ba chàng sinh viên thuộc thể loại: truyện trinh thám.

2. Xuất xứ

- Trích trong Sơ-lốc Hôm toàn tập, tập 2, theo Lê Quang Toản dịch, NXB Văn học, Hà Nội, 2022, tr.572-588.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

4. Tóm tắt

Văn bản Ba chàng sinh viên kể về trường đại học có cuộc thi cho sinh viên lấy học bổng giá trị cao, về đề thi môn tiếng Hy Lạp là đề thi khó. Thầy ra đề đã để đề in thử trên mặt bàn và đi vắng khoảng một tiếng. Đến khi thầy quay lại thì mỗi tờ thi lại để một góc khác nhau. Thám tử Hôm đã được thầy đến xem xét và có 3 cậu sinh viên trong diện khả nghi. Và Hôm đã tìm ra được thủ phạm, cậu ấy là vận động viên nhảy xa, tuy biết đề nhưng đã từ chối không dự thi vì đã được nhận vào làm ở Sở cảnh sát. Hôm đã chúc cậu tiền đồ sáng lạn và mong  cậu có thể vươn cao trong tương lai.

5. Bố cục đoạn trích

- Phần 1 (từ đầu đến…sinh viên): vụ việc mà thầy Xôm nhờ thám tử Hôm giúp đỡ.

- Phần 2 (tiếp theo đến… cho cậu): những nghi phạm trong vụ việc và cách suy luận của thám tử Hôm.

- Phần 3 (đoạn còn lại): thủ phạm lộ diện và những người liên quan đến vụ việc chép trộm.

6. Giá trị nội dung

- Bằng với khả năng quan sát và trí thông minh tài tình, Hôm đã phá được án và tìm ra thủ phạm. Để tạo ra sự hấp dẫn của chuyện trinh thám, nhà văn đã đánh lạc hướng suy nghĩ của người đọc để cuối cùng chân tướng đã lộ diện ra khiến người đọc bất ngờ. Qua đó, đề cao phẩm chất của thủ phạm là nhân vật Ghi-crit dám làm, dám nhận, nhà văn cũng để lại lời khen chúc cậu tiền đồ xán lạn và vươn cao hơn nữa trong tương lai.

7. Giá trị nghệ thuật

- Các chi tiết hấp dẫn, li kì, thu hút người đọc.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Ba chàng sinh viên

1. Sự việc, hành trình phá án của người điều tra

- Vụ việc gây lo lắng, hoảng hốt: Thầy Xôm phát hiện đã có người sao chép đề thi quan trọng của kì thi danh giá.

- Hành trình phá án của người điều tra: Hôm xuất hiện và đã xem xét từng đồ vật trong phòng cũng như đi gặp từng người để quan sát.

- Công bố sự thật: Cậu sinh viên Ghi-crít đã sao chép đề và người hầu Be-ni-xto đã che đậy cho cậu sinh viên vì bố cậu từng có ơn với người hầu.

- Cuối cùng, Hôm đã nhắn nhủ Ghi- crit bài học "Cậu đã vấp ngã một lần và tôi mong cậu có thể vươn cao trong tương lai”.

Ba chàng sinh viên - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức

2. Chi tiết vụ án xảy ra

- Vụ án xảy ra tại văn phòng thầy Xôm.

- Những dấu vết quan trọng đã được Sơ-lốc Hôm phát hiện: Trên mặt bàn có vài mảnh vỏ bút chì, một đầu chì gãy, vết rách dài độ 3 inch và một mẩu bột đen nhỏ, lấm tấm như mùn cưa. Trong phòng ngủ phát hiện mẩu nhỏ màu đen dạng hình chóp.

- Các chi tiết cho thấy áp lực về thời gian của cuộc điều tra:

+ Mai là thi rồi. Tối nay tôi buộc phải đưa ra quyết định dứt khoát. Tôi không thể để kì thi diễn ra khi đề thi bị lộ. Tôi phải làm gì đó.

+ Khi chúng tôi tới nơi, ông thầy khốn khổ đang đứng ngồi không yên. Chỉ vài giờ nữa là kì thi bắt đầu, ấy vậy mà ông ta chưa biết nên công bố sự việc hay mặc thây cho kẻ gian trá tranh học bồng đáng giá. Đầu óc căng như dây đàn khiến ông ta không ngồi yên nổi, vậy nên vừa thấy Hôm, ông ta đã chạy ào ra và dang tay đón mừng.

- Tác dụng của việc tạo ra áp lực về thời gian trong cuộc điều tra:

+ Tăng tính kịch tính cho câu chuyện: Áp lực thời gian khiến cho các nhân vật phải hành động nhanh chóng, quyết đoán, tạo nên sự gay cấn và hồi hộp cho câu chuyện. Người đọc sẽ bị cuốn hút vào mạch truyện và tò mò về kết quả của cuộc điều tra.

+ Thể hiện sự cấp bách của vấn đề: Việc đề thi bị lộ là một sự việc nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của kỳ thi và tương lai của các học sinh. Áp lực thời gian cho thấy tầm quan trọng của việc tìm ra kẻ gian và ngăn chặn hành vi gian lận.

+ Làm nổi bật khả năng suy luận và hành động của các nhân vật: Trong thời gian ngắn ngủi, các nhân vật phải thu thập thông tin, phân tích manh mối và đưa ra quyết định. Điều này giúp thể hiện khả năng suy luận logic, phán đoán chính xác và hành động nhanh chóng của các nhân vật.

3. Cách thức Sơ-lốc Hôm phá vụ án thành công

- Dấu vết đầu tiên hung thủ để lại đó chính là vài mảnh vỏ bút chì, một đầu chì gãy, vết rách dài 3inch, một mẩu bột đen và Hôm nhận ra một dấu vết quan trọng là hung thủ đã ngủ trong phòng của thầy.

- Hôm đã kiểm tra kỹ càng cửa sổ phòng thầy Xôm, để ước lượng chiều cao của hung thủ, người đó phải cao tầm Hôm hoặc hơn thì mới có thể lẻn vào. Và trong ba sinh viên thì Ghi-crit là vận động viên nhảy xa nên đây là kẻ tình nghi đầu tiên của Hôm.

- Dấu vết quan trọng thủ phạm để lại đó là mẩu bột đen nhỏ như mùn cưa. Ghi- crit là vận động viên ở ngoài sân vận động, đôi giày cậu ta đeo là gìay đinh. Khi vân động ở đó, đất sẽ bám vào đinh giày và khi bỏ trốn thủ phạm đã làm mẩu đất rã ra, rơi xuống phòng ngủ và bàn làm việc của thầy.

- Vì thời gian phá án gấp rút nên ông đã lập ra một tòa án nhỏ để thủ phạm phải khiếp sợ. Hôm đã nghi ngờ kẻ tình nghi đó là ngã người hầu Be-ni- xto.

=> Với những suy nghĩ cùng với lời nói sắc bén, hùng hồn của Hôm đã khiến cho người hầu ấp úng khai ra sự việc. Và cuối cùng bằng những chứng cứ thu thập được, dấu vết hung thủ để lại và lời lẽ lập luận của mình, Sơ- lốc Hôm đã tìm ra được hung thủ là Ghi- crit.

IV. Đọc tác phẩm: Ba chàng sinh viên

BA CHÀNG SINH VIÊN

Cô-nan Đoi-lơ

(Lược một đoạn: Vào năm 1895, tại căn nhà trọ ở một thành phố của Anh, Sơ-lốc Hôm (Sherlock Holmes) và người bạn Oát-xơn (Watson) đã nghe ông Hin-tơn Xôm (Hilton Soames) – giảng viên của trường Đại học Xanh Lúc (St. Luke) – kể lại câu chuyện xảy ra ở trường mình. Theo lời ông, ngày mai, cuộc thi để học bổng sẽ được tổ chức. Đề thi môn tiếng Hy Lạp yêu cầu dịch một bài khá dài, hoàn toàn mới đối với thí sinh. Vì học bỗng có giá trị cao nên nếu thí sinh nào biết trước đề sẽ có lợi thế lớn. Do đó, thầy Xôm và các đồng nghiệp đã giữ đề thi cẩn thận. Khoảng 3 giờ chiều nay, bản in thử được gửi đến. Thầy Xôm phải soát lại để đảm bảo đề bài tuyệt đối chính xác. Tới 4 giờ 30 phút, thầy vẫn chưa đọc xong. Vì phải đi dùng trà cùng một người bạn như đã hứa, thầy để bản in thử trên bàn và vắng mặt khoảng một tiếng đồng hồ. Khi trở về, thầy kinh ngạc vì thấy chìa khoá đang cắm vào ổ khoá cửa phòng do người hầu Ben-ni-xtơ (Bannister) quên rút. Trước khi đi, thầy để ba trang đề thi ở cùng một chỗ, nhưng lúc này, thầy thấy một trang nằm trên sàn, một trang trên cái bàn kê sát cửa sổ, còn một trang vẫn ở vị trí cũ. Trên mặt bàn có vài mảnh vỏ bút chì, một đầu chì gãy, vết rách dài độ 3 inch và một mẫu bột đen nhỏ, lấm tấm như mùn cưa. Thầy Xôm cho biết thêm, có một sinh viên tên là Đao-lát Rát (Daulat Ras) đã vào phòng hỏi về cuộc thi, lúc ấy bản in thử đã được mang đến nhưng vẫn còn cuộn lại. Sơ-lốc Hôm được mời tới phòng thầy Xôm để xem xét. Phòng làm việc của thầy có một cửa sổ gắn lưới sắt nhìn ra khoảng sân rêu phong của ngôi trường cổ kính. Sơ-lốc Hôm cho rằng có người đã chép được nửa tờ thứ hai thì thấy thầy Xôm về nên vội rút lui, không kịp để đề thi về chỗ cũ. Hắn đã viết mạnh đến mức làm gãy ngòi chì, phải vót lại. Vị thám tử cũng phát hiện trong phòng ngủ của thầy Xôm có mẩu nhỏ màu đen dạng hình chóp, giống hệt mẫu trên bàn ngoài phòng làm việc. Sơ-lốc Hôm phỏng đoán kẻ chép trộm đề thi đã trốn vào phòng ngủ trong suốt thời gian thầy Xôm nói chuyện với Ben-ni-xtơ ở phòng làm việc. Theo lời thầy Xôm, có ba sinh viên ở trong nhà này và thường đi qua cửa phòng làm việc của thầy. Phòng của thầy Xôm ở tầng một. Ghi-crít (Gilchrist) - một sinh viên chăm chỉ và là vận động viên giỏi - sống ở tầng hai. Cậu ta tử tế. Cha cậu là một quý tộc nhưng bị phá sản và đã qua đời. Đao-lát Rát sống ở tầng ba. Cậu học tốt, nhưng môn tiếng Hy Lạp yếu. Sống ở tầng trên cùng là Mai Mắc Le-rờn (Miles Mc Laren). Cậu ta được xem là sáng dạ nhất trường, nhưng lại lười học, ương ngạnh, ăn chơi và vô kỉ luật. Cậu ta suýt bị đuổi học ngay trong năm thứ nhất vì dính vào một vụ bài bạc. Cả học kì này, cậu ta toàn rong chơi. Thầy Xôm cho rằng trong ba sinh viên, Mắc Le-rờn là người đáng nghi ngờ nhất. Hôm đã hỏi ông Ben-ni-xtơ việc ông quên rút chìa khóa vào đúng ngày có đề thi trong phòng, lí do ông ngồi lên cái ghế gần cửa phòng khi thấy choáng váng mà không phải cái ghế khác. Sau đó Sơ-lốc Hôm muốn xem qua phòng của ba sinh viên.)

- Tôi muốn ngó qua từng người một - Hôm nói. - Vậy có được không nhỉ?

- Dễ thôi - Xôm trả lời. - Dãy phòng này thuộc loại cổ nhất trong trường, vì vậy chuyện có khách tới tham quan cũng không hề lạ. Mời các ông đi theo tôi, tôi sẽ dẫn đường.

- Ông nhớ đừng gọi tên chúng tôi đấy nhé! - Hôm nói khi chúng tôi gõ cửa phòng Ghi-crít.

Một thanh niên cao gầy, tóc hoe vàng ra mở cửa rồi niềm nở mời chúng tôi vào khi biết mục đích chuyến viếng thăm. Phòng vẫn còn lại vài bức phù điêu đẹp đẽ thời Trung cổ. Hôm mê mẫn một bức đến độ đòi vẽ nó vào cuốn sổ tay cho kì được. Anh làm gãy bút chì nên đành hỏi mượn một cái của chủ nhân căn phòng, rồi sau đó mượn thêm dao để chuốt. Vận xui kì lạ đó tiếp tục bám theo anh tại phòng cậu người Ấn. Đó là một gã trầm lặng, nhỏ thó, mũi khoằm, cứ gườm gườm nhìn chúng tôi suốt và mừng ra mặt khi Hôm nghiên cứu xong mấy bức phù điêu. Tuy nhiên tại cả hai phòng, tôi đều không thấy Hôm bắt được manh mối cần tìm. Đến phòng thứ ba, mánh của Hôm thất bại từ trong trứng nước. Chúng tôi gõ cửa nhưng chủ nhân căn phòng không chịu mở, đã thế còn tặng chúng tôi một tràng chửi rủa.

- Tôi cóc cần biết mấy người là ai. Mấy người đi phứt cho nhờ! - Giọng giận dữ gầm lên. - Tôi bận ôn thi, các người nghe rõ chưa?

- Một gã thô lỗ. - Người dẫn đường của chúng tôi nói, đỏ mặt giận dữ khi chúng tôi xuống nhà.  Tất nhiên cậu ta không biết tôi là người gõ cửa. Nhưng kể cả vậy thì cậu ta cũng quả là bất lịch sự và lối cư xử đó thật đáng ngờ trong hoàn cảnh này.

Phản ứng của Hôm khá kì lạ.

- Ông có thể cho tôi biết chiều cao chính xác của cậu này không? - Anh hỏi.

- Ông Hôm, tôi quả thật không biết chắc. Cậu ta cao hơn cậu người Ấn nhưng thấp hơn Ghi-crít. Chắc tầm năm foot sáu.

- Chuyện đó rất quan trọng - Hôm nói. - Còn giờ xin chúc thầy Xôm ngủ ngon.

Người dẫn đường của chúng tôi kêu lên tỏ ý kinh ngạc và thất vọng.

- Ôi, ông Hôm, ông không định bỏ tôi đường đột thế này chứ? Hình như ông chưa nhận ra tình thế. Mai là thi rồi. Tối nay tôi buộc phải đưa ra quyết định dứt khoát. Tôi không thể để kì thi diễn ra khi đề thi bị lộ. Tôi phải làm gì đó.

- Ông cứ để nguyên vậy đi. Sớm mai tôi sẽ ghé rồi bàn về việc này, có thể lúc đó tôi đã nắm được những tình tiết mới giúp ông thoát khỏi tình cảnh này. Còn từ giờ tới đó, ông đừng thay đổi gì cả.

- Đành vậy.

- Ông yên tâm. Nhất định chúng tôi sẽ tìm được cách giúp ông thoát khỏi rắc rối. Tôi sẽ đem hai mẫu đất đen và mảnh vỏ bút chì về. Xin chào ông!

Bước ra khoảng sân tối om, chúng tôi ngước nhìn ngôi nhà một lần nữa. Cậu người Ấn vẫn đi tới đi lui trong phòng, nhưng chúng tôi không thấy bóng dáng hai người kia đâu.

- Oát-xơn này, anh nghĩ sao? - Hôm hỏi khi chúng tôi tiến ra đường lớn. - Tôi thấy chúng ta như đang chơi trò loại trừ vậy. Anh có ba người. Thủ phạm phải là một trong số họ. Anh chọn đi. Anh chọn ai nào?

- Gã ăn nói lỗ mãng ở tầng trên cùng. Hắn là kẻ “có tiếng” nhất. Nhưng gã người Ấn có vẻ ranh ma. Và sao cậu ta cứ đi lại trong phòng suốt vậy?

- Cũng không có gì đâu. Nhiều người thường làm vậy khi học thuộc lòng.

- Cách cậu ta nhìn chúng ta rất đáng ngờ.

- Anh cũng sẽ như vậy nếu bị một toán người lạ làm phiền trong khi ngày mai anh có một kì thi quan trọng và mọi phút chuẩn bị đều đáng quý. Không, những chi tiết đó cùng với bút chì và dao, tất thảy đều thoả đáng. Nhưng gã đó lại khiến tôi rối trí.

- Ai?

- Gã người hầu Ben-ni-xtơ chứ ai! Ông ta đang toan tính gì đây?

- Tôi thấy ông ta là người trung hậu.

- Tôi cũng thấy vậy. Đó chính là chỗ khó hiểu. Sao một con người trung hậu như vậy lại ... A, có một tiệm văn phòng phẩm lớn này. Ta sẽ bắt đầu tìm hiểu từ đây.

(Lược một đoạn: Sơ-lốc Hôm vào các tiệm bán văn phòng phẩm trong thành phố để tìm cái bút có vỏ giống mảnh vỏ bút chì ở hiện trường nhưng không tìm được. 8 giờ sáng hôm sau, Sơ-lốc Hôm giục Oát-xơn đi Xanh Lúc vì thám tử đã giải được bí mật vụ án. Hôm nói rằng mình đã dậy từ 6 giờ sáng, đi bộ suốt hai giờ và mang về một mẫu đất sét hình chóp màu đen. Mẫu đất thứ ba được lấy chính từ nơi có hai mẫu đầu tiên.)

Khi chúng tôi tới nơi, ông thầy khốn khổ đang đứng ngồi không yên. Chỉ vài giờ nữa là kì thi bắt đầu, ấy vậy mà ông ta chưa biết nên công bố sự việc hay mặc thây cho kẻ gian trá tranh học bổng đáng giá. Đầu óc căng như dây đàn khiến ông ta không ngồi yên nổi, vậy nên vừa thấy Hôm, ông ta đã chạy ào ra và dang tay đón mừng.

- Ơn trời ông đến rồi! Tôi chỉ sợ ông cũng bó tay. Tôi phải làm gì đây? Kì thi có tiếp tục không?

- Có. Bất luận thế nào cũng phải để nó diễn ra.

- Nhưng còn tên vô lại kia?

- Hắn sẽ không thi.

- Ông biết hắn là ai rồi sao?

- Tôi nghĩ vậy. Vì chuyện này phải được giữ kín nên chúng ta sẽ tự lập ra một toà án nho nhỏ vậy. Thầy Xôm, mời thầy ngồi đằng kia! Oát-xơn, anh ngồi đây! Tôi sẽ ngồi ở ghế bành chính giữa. Chúng ta đã đủ oai nghiêm để làm thủ phạm phải hoảng hốt rồi đấy. Xin thầy vui lòng rung chuông! Ben-ni-xtơ vào, ông ta suýt té ngửa vì ngạc nhiên và hốt hoảng trước phong thái pháp đình của chúng tôi. [ ... ]

- Giờ thì Ben-ni-xtơ, ông vui lòng khai thật cho chúng tôi biết sự việc hôm qua chứ?

Ông này tái mét tới tận chân tóc.

- Thưa ông, tôi đã thưa cả rồi.

- Không còn gì để kể thêm sao?

- Không, thưa ông.

- Nếu vậy, tôi đành gợi ý cho ông vài điều. Hôm qua khi ngồi xuống chiếc ghế đó, phải chăng ông có chủ đích che giấu một vật có thể tiết lộ danh tính kẻ đột nhập?

Ben-ni-xtơ tái mặt.

- Không, thưa ông. Không hề.

- Chỉ là gợi ý thôi mà - Hôm khéo léo nói. - Thú thật là tôi không thể chứng minh điều đó. Nhưng chuyện đó xem ra rất có thể, vì thầy Xôm vừa rời nhà là ông liền thả kẻ nấp trong phòng ngủ đi mất. Ben-ni-xtơ liếm đôi môi khô nẻ.

- Tôi không thả ai, thưa ông. [ ... ]

- Vậy là ông không thể cho chúng tôi thêm thông tin rồi. Ông vui lòng ở lại trong phòng nhé! Mời ông đứng gần cửa phòng ngủ. Thầy Xôm, thầy vui lòng lên phòng cậu Ghi-crít và bảo cậu ta xuống đây.

Một loáng sau, ông thầy đã trở lại và dẫn theo chàng sinh viên nọ. Cậu ta có dáng dấp đẹp đẽ, cao ráo, uyển chuyển và nhanh nhẹn, bước đi thoăn thoắt và gương mặt cởi mở, dễ gần. Đôi mắt xanh tràn ngập lo âu nhìn từng người trong chúng tôi, rồi cuối cùng bàng hoàng dừng lại ở Ben-ni-xtơ đang đứng trong góc đằng xa.

- Đóng cửa lại đã - Hôm nói. - Này cậu Ghi-crít, ở đây chỉ có chúng ta và không ai ngoài kia biết gì về chuyện này. Chúng ta hoàn toàn có thể thẳng thắn nói chuyện với nhau. Cậu Ghi-crít, chúng tôi muốn biết làm sao mà một con người trọng danh dự như cậu lại làm cái chuyện như hôm qua chứ.

Chàng trai khốn khổ loạng choạng bước lui và ném về Ben-ni-xtơ một cái nhìn hoảng sợ pha lẫn trách móc.

- Không, không phải tôi đâu, thưa cậu Ghi-crít. Tôi không hề nói một lời nào - không hé răng một lời nào hết! - Ông người hầu kêu lên.

- Phải, nhưng ông vừa nói đấy thôi - Hôm cất tiếng. - Còn cậu, hẳn cậu thấy rằng sau lời nói vừa rồi của Ben-ni-xtơ, cậu đã rơi vào tình thế vô vọng và cậu chỉ còn một cơ may duy nhất nếu thành khẩn khai thật.

Ghi-crít giơ một bàn tay lên và cố kìm nén vẻ uất ức hiện lên gương mặt trong chốc lát. Sau đó, cậu ta quỳ thụp xuống cạnh bàn, hai tay ôm mặt và bật khóc.

- Nào, nào - Hôm nhẹ nhàng nói. - Đời chẳng có ai là không phạm sai lầm và ít ra không ai có thể quy kết rằng cậu đã phạm tội ác tày trời. Có lẽ sẽ dễ hơn cho cậu nếu tôi kể lại sự vụ và nếu tôi sai ở chỗ nào thì cậu cứ đính chính. Vậy được chứ? Thôi, cậu không cần trả lời đâu. Hãy nghe và cậu sẽ thấy tôi không hề nói oan cho cậu.

Thầy Xôm, từ lúc thầy nói rằng không có ai, kể cả Ben-ni-xtơ, biết đề thi ở trong phòng thầy, vụ này đã bắt đầu tựu hình rõ rệt trong đầu tôi. Chúng ta có thể gạt thợ in ra khỏi diện nghi vấn. Nếu muốn, anh ta có thể chép lại đề thi ngay trong nhà mình. Tôi cũng không nghi ngờ cậu người Ấn, vì bản in thử được cuộn lại nên cậu ta không thể biết đó là gì. Mặt khác, tôi không tin có người tình cờ bước vào và vô tình thấy đề thi. Người vào phải biết đề thi có ở đó. Nhưng làm sao hắn ta biết?

Trước khi vào nhà, tôi có kiểm tra cửa sổ phòng làm việc của thầy. [ ... ] Lúc ấy, tôi đang ước lượng xem người này phải cao chừng nào mới có thể thấy giấy tờ để trên bàn giữa phòng là gì khi đi ngang qua. Tôi cao sáu foot, ấy vậy mà cũng phải cố lắm tôi mới nhìn ra được.

Vậy nên kẻ kia phải cao tầm tôi hoặc hơn. Giờ hẳn thầy đã rõ vì sao trong ba cậu sinh viên, tôi lại nghi ngờ cậu Ghi-crít nhất. Tôi vào nhà và nói cho thầy nghe các suy đoán của tôi về cái bàn kê gần cửa sổ. Tôi không rút ra kết luận gì về cái bàn giữa phòng cho đến khi thầy nói Ghi-crít là vận động viên nhảy xa. Bấy giờ, toàn bộ sự việc ngay tức khắc hiện lên trong đầu tôi và việc tôi cần làm chỉ còn là tìm ra vài bằng chứng chứng thực. Chẳng mấy chốc tôi đã có được chúng.

Chuyện xảy ra như thế này: Cả buổi chiều chàng trai kia ở ngoài sân vận động để luyện nhảy xa. Cậu ta đi đôi giày nhảy về, mà như thầy biết đấy, đây là loại giày đinh. Lúc đi ngang cửa sổ phòng thầy, nhờ lợi thế chiều cao nên cậu ta thấy mấy bản in thử trên bàn và đoán ra chúng là gì. Chuyện xấu đã chẳng xảy ra nếu khi đi qua cửa phòng thầy, cậu ta không thấy cái chìa khoá người hầu sơ suất để quên. Cậu ta bị thôi thúc phải vào xem cái cậu ta thấy có phải đề thi ngày mai không. Hành động đó không hề mạo hiểm vì nếu bị bắt gặp, cậu ta có thể nói mình có chuyện cần hỏi thầy.

Khi thấy đó đúng là đề thi, cậu ta đã đầu hàng sự cám dỗ. Cậu ta đặt giày lên bàn. Cậu để gì bên ghế gần cửa sổ vậy?

- Đôi găng tay - chàng trai nói.

Hôm đắc thắng nhìn Ben-ni-xtơ.

- Cậu ta để găng tay trên ghế rồi lấy từng tờ đề thi để chép lại. Cậu ta tưởng thầy sẽ về qua cửa chính nên ngồi bên bàn cạnh cửa sổ để trông chừng. Như chúng ta đã biết, thầy vào bằng cửa hông. Cậu ta rất bất ngờ khi nghe tiếng thầy mở cửa ngoài. Cậu ta không còn đường thoát. Cậu ta chộp lấy đôi giày và chạy ào vào phòng ngủ nhưng để quên đôi găng tay. Thầy quan sát thấy rằng vết rách khá nông ở một bên, nhưng lại hằn rõ theo hướng của phòng ngủ. Chỉ riêng điều ấy cũng đủ cho ta thấy chiếc giày bị kéo về hướng đó và thủ phạm trốn trong phòng ngủ. Đất bám quanh một đinh giày vương lên bàn và mẩu đất thứ hai rã ra, rơi xuống sàn phòng ngủ. Xin được nói thêm, sáng nay tôi đã ra sân vận động, thấy rằng loại đất sét đen cứng này được đổ trong hố nhảy cùng một ít vỏ cây mịn hay mùn cưa rải lên trên để vận động viên không bị trượt ngã. Tôi nói đúng chứ, cậu Ghi-crít?

Anh sinh viên đứng thẳng dậy.

- Vâng, ông nói đúng - cậu ta nói.

- Chao ôi, cậu không còn gì để nói nữa ư? - Thầy Xôm kêu lên.

- Có, thưa thầy, tôi còn có điều muốn nói, nhưng nỗi kinh hoàng bị vạch trần nhục nhã này làm tôi rối trí. Thầy Xôm, hồi sớm nay sau một đêm thao thức, tôi đã viết một lá thư gửi thầy. Tôi viết trước khi biết tội lỗi của mình bị vạch trần. Nó đây ạ. Trong thư tôi có viết: Tôi quyết định không dự thi. Tôi được nhận vào làm ở Sở Cảnh sát Rốt-đơ (Rhodes) nên sẽ đi Nam Phi ngay.

- Tôi thật lòng rất vui khi biết cậu không định lợi dụng sơ sót của tôi. - Thầy Xôm nói. - Nhưng sao cậu lại đổi ý?

Ghi-crít chỉ Ben-ni-xto.

- Chính người này đã đưa tôi vào đường ngay. - Cậu ta nói.

- Giờ nói đi, Ben-ni-xtơ. - Hôm nói. - Sau điều tôi vừa giải thích, hẳn ông đã thấy rõ chỉ có ông mới có thể cho chàng trai này ra khỏi phòng, vì sau lúc thầy Xôm đi, chỉ còn lại mình ông trong phòng và ông hằn đã khoá cửa khi ra. Tôi không tin cậu ta thoát ra ngoài qua đường cửa sổ phòng ngủ. Ông có thể làm sáng tỏ điểm cuối cùng trong bí ẩn này và cho chúng tôi biết lí do ông hành động như vậy chứ?

- Nếu ông biết về tôi, ông sẽ thấy lí do rất đơn giản, nhưng tuy thông minh là thế ông không thể biết chuyện. Thưa ông, khi xưa tôi làm quản gia cho ông Gia-bớt Ghi-crít (Jabez Gilchrist), cha của cậu đây. Khi ông ấy khánh kiệt thì tôi đến trường làm, nhưng tôi không bao giờ quên ông chủ quá cố. Tôi chăm lo cho con trai ông ấy để trả ơn. Vâng thưa ông, hôm qua khi thầy Xôm gọi tôi vào phòng, cái tôi thấy trước tiên là đôi găng tay màu nâu của cậu Ghi-crít trên cái ghế đó. Tôi biết rõ đôi găng nên hiểu ra ngay. Nếu thầy Xôm thấy chúng, tất cả sẽ hỏng bét. Tôi vội ngồi xuống ghế đó và không nhúc nhích cho đến khi thầy Xôm chạy đi tìm ông. Sau đó cậu chủ tội nghiệp, người từng ngồi trong lòng tôi, bước ra và thú nhận tất cả. Thưa ông, lẽ tự nhiên tôi phải cứu cậu ấy chứ? Và cũng là lẽ tự nhiên tôi phải nói phải trái với cậu Ghi-crít như người cha quá cố của cậu ấy, để cậu ấy hiểu mình không thể trục lợi bằng cách đó, đúng không? Ông có chê trách tôi không, thưa ông Hôm? - Đúng, tôi không thể chê trách ông. - Hôm nói rất thành thực và đứng dậy. - Thầy Xôm, tôi nghĩ chúng tôi đã làm sáng tỏ vấn đề nho nhỏ của ông và bữa điểm tâm đang chờ chúng tôi ở nhà. Đi nào, Oát-xơn! Còn về phần cậu, tôi mong một tiền đồ xán lạn đang chờ cậu ở Rốt-đơ. Cậu đã vấp ngã một lần và tôi mong cậu có thể vươn cao trong tương lai.

V. Văn mẫu

Đề: Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) trình bày suy nghĩ của em về nhân vật Be-ni-xtơ hoặc Ghi-crít trong truyện Ba chàng sinh viên.

Trong văn bản “Ba chàng sinh viên” của tác giả A-thơ Cô-nan Đoi-lơ, em ấn tượng với nhân vật Be-ni-xtơ. Nhân vật là một người hầu trong ngôi nhà trọ. Khi phát hiện Ghi-crít sao chép đề thi và trốn trong phòng, ông đã cố gắng che đậy cho cậu sinh viên. Không phải vì nhân vật muốn bao che cho những sự việc gian dối mà vì bố của cậu sinh viên này có ơn với ông và ông cần phải quan tâm và chăm sóc cậu thay bố của cậu. Sau khi đã giúp cậu sinh viên bao che xong, ông đã nói rõ phải trái cho cậu sinh viên hiểu. Điều này chứng tỏ ông là một người rất tốt bụng, nhớ ơn người giúp mình và hướng về điều đúng đắn.

Đánh giá

0

0 đánh giá