TOP 20 bài Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm

1.1 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Bài thơ Chiếc lá đầu tiên gợi lên trong bạn những kỉ niệm và suy nghĩ gì về tuổi học trò Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm

TOP 20 bài Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm (ảnh 1)

Đề bài: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm tự sự hoặc tác phẩm kịch

Dàn ý Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (nhan đề, tên tác giả,...) và ý kiến khái quát của người viết về tác phẩm. Chia sẻ với người đọc lí do bạn lựa chọn tác phẩm này để phân tích, đánh giá, điều khiến bạn yêu thích tác phẩm.

2. Thân bài:

+ Tóm tắt nội dung chính của truyện.

+ Phân tích, đánh giá về chủ đề của truyện dựa trên cứ liệu dẫn ra từ tác phẩm.

+ Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phân tích, đánh giá đều cần có những chi tiết tiêu biểu được dẫn ra từ tác phẩm.

3. Kết bài:

Tóm lược các nhận định trong phần thân bài, khẳng định giá trị của tác phẩm, đưa ra một số ý tưởng mở rộng, ...

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 1

Nguyễn Tuân là một con người rất mực tài hoa, là bậc thầy về truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám. Ở giai đoạn trước ông được coi là nhà văn “duy mĩ” say mê cái đẹp và coi cái đẹp là đỉnh cao của nhân cách con người. “Vang bóng một thời” là tập truyện tiêu biểu cho sáng tác thời kì này của Nguyễn Tuân, không tin tưởng ở hiện tại và tương lai ông đi tìm vẻ đẹp quá khứ của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục, thú vui tao nhã lành mạnh trong đó có thú chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Hai con người có nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng và cảnh cho chữ lạ lùng được hiện lên trong tác phẩm làm nổi bật cho tài năng văn chương và tư tưởng của Nguyễn Tuân.

Huấn Cao trong câu chuyện là một người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình mà bị lãnh án tử hình. Trước khi xử án ông được đưa đến một trại giam có viên quản ngục và thầy thơ lại yêu quý nét chữ, trân trọng người tài Huấn Cao nên đã biệt đãi tù nhân, mong muốn ông Huấn cho chữ. Hiểu được tấm lòng ấy người tử tù có thiên lương trong sáng đã cho chữ trong hoàn cảnh éo le trước giờ chưa từng có. Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa hai con người khác biệt một bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhưng lại đối đầu với triều đình, một bên là viên quan coi ngục đại diện cho người gìn giữ trật tự xã hội phong kiến đương thời nhưng lại khao khát ánh sáng chữ nghĩa. Hai con người đối lập trên bình diện xã hội nhưng lại là tri âm, tri kỉ với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân đặt vào trong tình huống đối nghịch tạo ra kịch tính cho câu chuyện và cảnh cho chữ là nút thắt được tháo gỡ.

Huấn Cao là một con người tài hoa uyên bác, khí phách hiên ngang, anh hùng bất khuất và có một thiên lương trong sáng được hiện lên trong tác phẩm. Trước tiên là gián tiếp ở phần đầu qua cuộc đối thoại của viên quản ngục với thầy thơ lại. Tài năng viết chữ đẹp của ông được người ở vùng tỉnh Sơn ca tụng khiến cho viên quan coi ngục đau đáu một lòng với sở nguyện xin được chữ ông Huấn về treo ở nhà riêng của mình bởi “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Nguyễn Tuân đã miêu tả sở nguyện của viên quan coi ngục để làm nổi bật lên chất tài hoa nghệ sĩ mà bao nhiêu người trong thiên hạ hằng khao khát có được. Không chỉ vậy người tử tù rất anh hùng là tên cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình vì bất mãn với chính sách cai trị triều chính, là kẻ không sợ lời đe dọa của bọn lính áp giải mà tự do, hiên ngang dỗ gông để trận mưa rệp rơi xuống đất, thản nhiên nhận rượu thịt ung dung làm một người tù tự do trong nhà lao. Có mấy ai trước khi chết mà vẫn giữ được bản lĩnh và phong thái như vậy? Ông làm ra vẻ khinh bạc viên quan coi ngục với câu nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì ư? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quan coi ngục đánh mắng người tù chứ hiếm khi thấy điều ngược lại. Con người ấy hiện lên qua suy nghĩ của quan lại coi ông là một tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ chọc trời khuấy nước khi nhận được án chém vẫn bình tĩnh, tự tin đón nhận cái chết. Huấn Cao không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cường quyền và bạo lực. Ông là một nhân vật hiếm có xưa nay bởi sự hòa quyện của chất nghệ sĩ với chất anh hùng tạo nên nét riêng biệt, độc đáo khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời”. Con người ấy còn có một thiên lương trong sáng không phải ai trên đời ông cũng cho chữ, cuộc đời ông Huấn chỉ mới cho ba lần là ba người bạn tri kỉ. Nhưng khi hiểu được tấm lòng của quan coi ngục ông mỉm cười nhắc thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội được đáp lại sự chân tình ấy. Giọng Huấn Cao đã trở nên từ tốn, hòa dịu hơn rất nhiều: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ”. Cho chữ chứ không phải là viết chữ, nghe như là lời của bề trên ban xuống cho người dưới. Ông khẳng định “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Huấn Cao không màng vinh hoa phú quý cũng không sợ cường quyền mà ép mình làm điều không thích. Dù ở trong chốn ngục tù bị giam cầm về thân xác nhưng tâm hồn ông không bao giờ bị giam giữ, ông vẫn luôn tự do về nhân cách.

Ông Huấn quyết định cho chữ trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có” theo như Nguyễn Tuân nhận xét. Cảnh cho chữ thật xác đáng là một nghệ thuật đặc sắc được nhà văn miêu tả thật đáng khâm phục tài năng. Thời gian là đêm cuối của một người tù trước khi ra pháp trường. Quang cảnh cho chữ vừa lạ vừa đẹp vừa như một ảo ảnh. Lạ vì xưa nay người ta cho chữ trong căn phòng sạch sẽ, lung linh ánh nến ánh đèn, có mùi thơm của hương trầm nhưng ở đây tại nhà lao chẳng có gì ngoài “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” chỉ có ánh đuốc tẩm dầu sáng đỏ rực, khói tỏa như đám cháy nhà. Phòng giam ba người nhưng chỉ một người hoạt động. Thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Viên quản ngục hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa”, từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra, “người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Ta thấy tư thế đối nghịch nhau giữa một người tù bị giam cầm và hai người tự do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao thì ung dung, tự tại và đối lập với tư thế ấy là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run run” của thầy thơ lại. Cái “khúm núm” của quan coi ngục không phải là cái cúi đầu hèn hạ mà trái lại rất đáng trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó là một điều nên làm ở trong đời. Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại không có uy, người tử tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại nhân cách, thiên lương khi được ông Huấn cho lời khuyên nên thay chốn ở đi, “Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi” đó là lời khuyên chân thành để giữ được nhân cách cao đẹp. Trước tấm lòng chân tình ấy viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc và cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cả ba con người cùng đồng điệu, cùng chung một tấm lòng yêu tha thiết cái đẹp, cái đẹp chữ viết đi liền với cái đẹp tâm hồn và nhân cách thiên lương trong sáng.

Như vậy qua tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã cho ta thấy ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Trước tiên đó là thái độ hủy diệt. Điều đó được biểu hiện qua mấy tên lính mà nhà văn miêu tả sơ lược ở đoạn đầu với thái độ hách dịch, vô lễ với Huấn cao và bạn tù của ông. Chúng là hạng thiên lôi tàn bạo chỉ đâu đánh đó, ở trong chốn ngục tù lâu ngày bị nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Ngoài ra qua mệnh lệnh của quan trên tai to mặt lớn ở Hưng Sơn Tuyên đốc bộ đường đại diện cho chính quyền phong kiến bảo thủ, trì trệ cố hủy diệt tài năng của người tài để gìn giữ ngôi báu tàn bạo, độc ác của mình.

Thái độ thứ hai là yêu mến cái đẹp và quý trọng người tài. Thể hiện qua tấm lòng, hành động của viên quản ngục và thầy thơ lại. Họ cảm mến Huấn Cao qua lời đồn, luôn muốn biết những người tài và bất chấp cả nguy hiểm đến tính mạng để có thể hoàn thành sở nguyện cao đẹp là xin chữ ông Huấn. Họ tiếc cho một nhân tài như ông lại bị đao chém pháp trường hủy diệt. Cái đẹp thì ai cũng quý nhưng biết đẹp mà quý cũng đáng trân trọng biết bao bởi nó làm cho con người đẹp lên, phẩm chất cao hơn và thơm ngát hơn cho tấm lòng thiên lương trong sáng, thanh sạch.

Thái độ thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của bậc chính nhân quân tử, nghệ sĩ tài ba của Huấn Cao. Điều đó được biểu hiện qua nhân cách và hành động của ông được tác giả khắc họa. Huấn Cao là con người đặc biệt có một không hai trong trang viết của Nguyễn Tuân để lại cho tác giả sự trân trọng và nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho một con người tài giỏi, có nghĩa khí và nhân cách cao đẹp lại gặp không đúng thời, đúng vận mệnh. Huấn Cao ngày nay cũng rất nhiều nhưng không ít người đang dần bị vùi chôn bởi thế lực quyền uy và sức mạnh của đồng tiền. Theo như thông tin của Bộ giáo dục ngày 17/7/2018 ở Hà Giang sau khi thanh tra rà soát lại công tác chấm thi có 114 thí sinh bị hạ điểm vì điểm thi công bố bị gian lận, nâng lên quá nhiều so với năng lực thực tế của các em. Nạn chảy máu chất xám, mua điểm, mua quan bán chức… đã khiến biết bao người tài có trí tuệ tài năng thực sự bị vùi dập một cách tàn bạo. Đó là nỗi đau lớn của ngành giáo dục của cả đất nước con người Việt Nam. Hiền tài như Huấn Cao nhưng lại bị cướp trắng trợn cơ hội để cống hiến cho đất Việt.

Qua tác phẩm tác giả thể hiện được tư tưởng của mình về nghệ thuật và nhân phẩm con người. Nhân cách đẹp là sự kết hợp giữa cái tài và cái tâm và cái đẹp luôn phải gắn liền với cái thiện không thể tách rời, bản thân cái đẹp chính là đạo đức. Cái đẹp không chỉ được sáng tạo ra ở nơi thanh tao, sạch sẽ mà ngay ở trong môi trường của cái xấu và cái ác nó cũng luôn tồn tại nhưng không vì thế mà lụi tàn trái lại càng nó càng tỏa sáng rực rỡ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có cái đẹp mới có thể cảm hóa được tâm hồn con người làm cho chúng trở nên tốt hơn, cao đẹp hơn ở trên đời.

Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Tuân phải là một con người yêu mến và trân trọng tài năng, cái đẹp vô cùng mới có thể viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” với sự hiện thân của hai con người có nhân cách cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục hay đến thế.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 2

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc đời mình để săn tìm cái đẹp hướng đến chân – thiện – mỹ. Không thể phủ định được những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” là truyện ngắn đặc sắc đánh dấu tài năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mạng tháng Tám và được coi là một tác phẩm gần như đạt đến độ hoàn mĩ.

Ở cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết đó tác giả muốn khẳng định sự chiến thắng của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt giá nhất xưa nay chưa từng có.

Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những người có học thức, các sĩ tử,... Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra ở những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ đó có những nét chữ uyển chuyển trong đó có cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự sáng tạo của Nguyễn Tuân thì cảnh cho chữ là một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội xưa cũ và cho đến bây giờ chúng ta vẫn gọi đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng ấy đã làm cho giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn cho bạn đọc.

Không gian và thời gian trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả rất sinh động và chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, khi bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi đây. Cùng với tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên một cách chật hẹp, tù túng, ẩm thấp, mệt mỏi và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. Một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác giờ đây lại bị giam trong nhà tù tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ đẳng, tăm tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.

Một không gian tăm tối không thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong khung cảnh như vậy có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và người nhận chữ - viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một chi tiết nhỏ này thôi tác giả đã bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi tăm tối.

Có lẽ vì đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng nhiên như chậm lại, khiến cho trái tim con người rung động, như có một thứ gì đó bóp nghẹt, không ai nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù túng này. Ta có thể thấy lạ, là một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Khi nét chữ cuối cùng đã viết xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt lăn dài trên má ông chính là những giọt nước mắt thể hiện sự tiếc thương cho số phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.

Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, ở bất cứ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí là tồn tại không đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người tốt có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả là người giàu kiến thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và độc đáo. Chính vì vậy mà tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối lập nhau gay gắt, một bên là màu của khung cảnh tăm tối nơi ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.

Kết tinh bởi tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn hướng đến cái chân – thiện – mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận người anh hùng nhân hậu, khí phách và có nhân cách cao thượng.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 3

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.

Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

TOP 20 bài Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm (ảnh 2)

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 4

Truyện "Thần Trụ trời" thuộc nhóm thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ, muôn loài hay còn gọi là thần thoại suy nguyên được tác giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm. Truyện được coi là tác phẩm có nét đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

"Thần Trụ trời" kể về thần Thần Trụ trời với sức mạnh phi thường đã phân chia bầu trời và mặt đất, dùng đất đá tạo nên núi, đảo,.. Qua đó, câu chuyện đã giải thích nguồn gốc của sự hình thành các sự vật trong tự nhiên một cách sáng tạo.

Mở đầu câu chuyện, tác giả dân gian mở ra không gian vũ trụ hoang sơ "một vùng hỗn độn, tối tăm, lạnh lẽo" và thời gian chưa được xác định rõ ràng "Chưa có vũ trụ, chưa có muôn vật và loài người". Trong khoảnh khắc tối tăm mù mịt ấy, Thần Trụ trời đã xuất hiện với thân hình khổng lồ "Chân thần dài không thể tả xiết". Mỗi bước chân của thần "có thể qua từ vùng này đến vùng nọ, hay từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác". Nhờ sức mạnh phi thường ấy, thần đã tự mình đào đất, đập đá, tạo nên cái cột đá cao và to để chống trời. Cột càng đắp cao, tấm trời lại càng thêm rộng mở. Chẳng bao lâu sau, thần Trụ trời đã đẩy vòm trời lên phía mây xanh, khoảng cách giữa đất trời được phân chia rõ ràng. Sau khi trụ trời xong, thần lại phá cột đá và dùng đất đá ném ra mọi nơi, tạo thành hòn núi, dải đồi cao,... Mượn các hình ảnh thiên nhiên, tác giả dân gian đã giải thích quá trình tạo lập thế giới một cách sáng tạo. Từ đây, chủ đề của truyện trở nên gần gũi và hấp dẫn với bạn đọc.

Chủ đề và nghệ thuật của tác phẩm văn học luôn song hành và bổ sung cho nhau. Truyện "Thần Trụ trời" cũng vậy, những sáng tạo hình thức nghệ thuật về cốt truyện, nhân vật đã đóng góp vào thành công trong việc làm nổi bật chủ đề truyện. Là truyện thần thoại, cốt truyện "Thần Trụ trời" được xây dựng hết sức đơn giản và gần gũi, xoay quanh việc thần Trụ trời làm công việc phân chia đất, trời và tạo nên những dạng địa hình tự nhiên khác nhau. Dựa vào trí tưởng tượng của con người cùng những yếu tố kì ảo, truyện đã giải thích quá trình tạo lập vũ trụ và thế giới tự nhiên. Qua đó, ta cũng thấy được khát khao tìm hiểu và khám phá của con người trong buổi đầu sơ khai. Đặc sắc nghệ thuật còn được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật kết hợp sử dụng thủ pháp cường điệu, phóng đại kết hợp với các chi tiết hư cấu. Hình ảnh Thần Trụ trời có kích thước "khổng lồ" với những bước chân rộng lớn, sở hữu sức mạnh phi thường, đã giúp cho người đọc hình dung rõ ràng, sắc nét về một vị thần trong thần thoại.

"Thần Trụ trời" với những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật đã mang đến cho bạn đọc câu chuyện thú vị lí giải về nguồn gốc các sự vật trong tự nhiên. Đồng thời truyện cũng phản ánh mong muốn, khát khao được tìm tòi, khám phá của con người trong buổi đầu sơ khai. Mong rằng tác phẩm sẽ mãi để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc yêu thích văn học dân gian của dân tộc.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 5

Chiến tranh qua đi, để lại biết bao mất mát tổn thương. Đó không chỉ là những nỗi đau về vật chất mà còn là nỗi đau về tinh thần. Như vết cứa rất sâu vào trái tim của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Truyện ngắn Người ở bến sông Châu là một truyện ngắn như thế, thấm đượm giá trị nhân văn và tình yêu thương, ca ngợi con người mà đặc biệt là những người phụ nữ.

Câu truyện xoay quanh về nhân vật dì Mây. Cô gái trẻ trung xinh đẹp, tóc dì đen dài, óng mượt "Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Trước khi đi xung phong dì có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San. Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn. Hoàn cảnh trớ trêu đã đẩy chú dì vào cảnh người mỗi ngả chia li cách biệt. Có thể thấy chiến tranh, bom đạn thật tàn nhẫn khi đã đẩy họ vào hoàn cảnh tách biệt.

Khi từ chiến trường bom đạn chờ về. Dì Mây bị đạn phạt vào chân, phải đi tập tễnh, bằng chân giả. Tuy nhiên nỗi đau thể chất đó không thấm vào đâu khi ngày dì trở về cũng là ngày dì phải chứng kiến người đàn ông mình yêu thương, nghĩ tới nhiều nhất, người đàn ông mà dì viết tên hằng ngày vào cuốn nhật kí ở Trường Sơn đã đi lấy người phụ nữ khác. Thử hỏi làm sao dì có thể chịu đựng được cú sốc tinh thần dã man tới vậy, lòng người con gái giờ đây là sự hụt hẫng, bàng hoàng, trớ trêu và đầy tuyệt vọng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó ta vẫn thấy được sự kiên cường, mạnh mẽ của dì Mây. Thái độ của dì rất cương quyết, thể hiện sự bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Dì nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị “Mây, chúng ta sẽ làm lại” của chú San. Trước sự thể đã rồi dì nhận phần thiệt thòi về mình, dì chỉ muốn một người đàn bà khổ. Có thể thấy dù đau đớn, tuyệt vọng nhưng dì vẫn nén vào trong, dì là đại diện cho phẩm chất kiên cường của những người phụ nữ bước ra từ chiến tranh và bom đạn

Ở dì Mây còn nổi bật lên phẩm chất tốt bụng, vị tha và bao dung. Khi dì Mây nghe tin cô Thanh vợ chú San khó sinh cô Thanh đẻ thiếu tháng lại tràng hoa quấn cổ dì đã ngay lập tức giúp đỡ không hề suy nghĩa, đắn đo điều gì. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông.

Có thể thấy dì Mây hiện lên với rất nhiều những phẩm chất cao thượng, tốt đẹp, dì đại diện cho những người con gái Việt Nam sẵn sàng hi sinh thầm lặng, đánh đổi cả thanh xuân tuổi trẻ và hạnh phúc của cá nhân mình vì những điều lớn lao khác.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 6

Thần Trụ Trời" là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong "Lược khảo về thần thoại Việt Nam". Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.

Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.

Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là "vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,..." cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.

Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.

Truyện thần thoại "Thần Trụ Trời" vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,...vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 7

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.

Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn "Chữ người tử tù" (1939) trong tập "Vang bóng một thời" là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có", cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để "xin chữ" treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên "đại nghịch" cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy". Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: "ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ".

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được "thiên lương". Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi "ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".

Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng". Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn "Chữ người tử tù". Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

"Chữ người tử tù" không còn là "chữ" nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà "những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người". Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí "duy mĩ" của Nguyễn Tuân.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 8

Với cách lí giải nguồn gốc muôn loài một cách thú vị, "Cuộc tu bổ lại các giống vật" đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Truyện được nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm và in trong "Lược khảo về thần thoại Việt Nam". Đặc biệt, truyện còn được coi là tác phẩm độc đáo về chủ đề và đặc sắc trong hình thức nghệ thuật.

"Cuộc tu bổ lại các giống vật" xoay quanh việc Ngọc Hoàng nặn ra vạn vật trước khi tạo nên con người. Trong quá trình hoàn thành công việc, một phần do thiếu các nguyên liệu, một phần do sự nóng vội, các con vật được hình thành nhưng chưa đầy đủ bộ phận trên cơ thể. Chính vì vậy, để khắc phục những thiếu sót ấy, Ngọc Hoàng đã phái ba vị Thiên thần xuống trần gian để tu bổ, bù đắp các bộ phận còn thiếu. Qua câu chuyện, tác giả dân gian đã lí giải một cách thú vị về đặc điểm, tập quán của một số loài vật thân thuộc với cuộc sống con người như vịt, chó, chim.

Quá trình Ngọc Hoàng tạo ra muôn vật diễn ra vào buổi sơ khai, khi ấy thế gian còn chưa xuất hiện loài người "trước khi sáng tạo ra con người đã nặn ra vạn vật". Trong khoảng không gian vũ trụ rộng lớn mà buồn tẻ đó, Ngọc Hoàng mong muốn "có một thế giới ngay trong một sớm một chiều" nên đã nặn ra vạn vật. Tuy nhiên, vì không có đủ nguyên liệu và vội vàng muốn thế giới đông vui hơn, nhiều con vật được tạo ra nhưng chưa hoàn thiện về cơ thể. Để khắc phục thiếu sót ấy, Ngọc Hoàng đã phái ba vị Thiên thần xuống núi cùng các nguyên liệu để tiến hành công cuộc tu bổ. Quyết định này được truyền xuống trần gian đã làm vạn vật mừng rỡ và hạnh phúc "Tin ấy ban bố ra, mọi giống vật đều tranh nhau tìm đến nơi ở của Thiên thần để xin những thứ mà mình cần thiết". Với những cố gắng và sự tận tình, ba vị Thiên thần sau ba ngày ở hạ giới gần như hoàn thành công việc được giao phó, "cố lo làm tròn nhiệm vụ". Mọi giống vật sau khi được tu bổ đều mãn nguyện và vui vẻ bởi cuối cùng cơ thể cũng hoàn thiện "khi ra về đều lấy làm thỏa mãn". Tuy nhiên, trong thời gian bù đắp, ba loài vật là vịt, chó và chim vì đến muộn nên ba vị Thiên thần đã tận dụng các nguyên liệu còn thừa để hoàn thiện những cái chân còn thiếu của chúng. Các vị Thiên thần "bẻ tạm chân ghế chắp một chân cho con vịt và một chân sau bị thiếu cho con chó", "bẻ một nắm chân hương, gắn cho chúng mỗi con một đôi làm chân". Nhờ tấm lòng tốt bụng của ba vị Thiên thần, vịt, chó và chim đã có đầy đủ bộ phận giống như các loài vật khác. Song, chúng lại không hoàn toàn vui vẻ khi cơ thể được hoàn thiện, mà lại hết sức lo lắng "Chết nỗi. Chân như thế này thì đậu thế nào cho vững được". Qua những chi tiết như vậy, ta thấy được các quan sát tỉ mỉ của con người thời cổ về đặc điểm, tập tính của loài vật. Họ phát hiện ra những điều lý thú gắn với đặc tính trên bộ phận mỗi loài và mong muốn nhận được lời giải đáp chính xác. Cứ như thế, bằng trí tưởng tượng phong phú, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện dí dỏm gắn liền với chiếc chân sau của chó, chiếc chân còn thiếu của vịt "Vì thế mà sau này hai giống vật ấy lúc nào ngủ đều có một cẳng giơ lên cho nó khô ráo" và đôi chân mềm yếu của các loài chim cùng thói quen chới với ba lần trước khi đậu "Bao giờ muốn dùng nó thì đặt nhóm chân xuống đất xem có vững không đã rồi hãy bay đậu". Với những lý giải thú vị, chủ đề của truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" không còn khắc họa hình ảnh đào non, lấp biển, phân chia trời đất mà trở nên gần gũi, quen thuộc khi xoay quanh các sự vật, hiện tượng gắn liền với chính đời sống hàng ngày của con người.

Đặc sắc về hình thức nghệ thuật cũng góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Trước hết, truyện có cốt truyện đơn, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Nội dung chính của truyện chỉ đơn giản xoay quanh các lý giải thú vị về đặc điểm, tập quán của vịt, chim, chó,... Và để cho truyện trở nên hấp dẫn và sống động hơn, các tác giả dân gian đã sử dụng sáng tạo yếu tố kì ảo, hư cấu. Đặc biệt là trong việc khắc họa vật các vị thần Ngọc Hoàng và ba vị Thiên thần với sức mạnh phi thường "Ngọc Hoàng trước khi sáng tạo ra con người đã nặn ra các vật", "ba vị Thiên thần mang nguyên liệu xuống núi để làm công việc tu bổ, bù đắp cho những con vật nào mà cơ thể còn chưa đầy đủ". Yếu tố kì ảo cũng được vận dụng linh hoạt, thể hiện qua công cuộc tu bổ, bù đắp những thiếu sót bộ phận cơ thể của mỗi loài vật. Ngoài ra, một trong những đặc sắc về nghệ thuật phải kể đến là cách xây dựng nhân vật. Trước hết, các tác giả dân gian đã khắc họa thành công hình ảnh Ngọc Hoàng - vị thần quen thuộc trong truyện thần thoại, có sức mạnh siêu nhiên và tài năng vượt trội khi tạo ra con người và thế giới muôn loài. Tiếp đến, Ngọc Hoàng cũng là vị thần có nét gần gũi với con người khi nóng vội "muốn tạo ra thế giới ngay trong một sớm một chiều".

Qua những phân tích, đánh giá trên đây, chúng ta thấy được truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" là một truyện thần thoại có chủ đề hấp dẫn cùng các sáng tạo độc đáo về hình thức nghệ thuật. Truyện đã làm phong phú hơn nữa chủ đề lớn của thể loại thần thoại - quá trình tạo lập thế giới, muôn loài.

Truyện "Cuộc tu bổ lại các giống vật" đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc với cách lí giải thú vị của con người thời cổ về các đặc tính, tập quán của loài vật quen thuộc với đời sống. Từ đây, chúng ta càng thêm trân trọng và hiểu biết về trí tưởng tượng và các sáng tạo của dân gian xưa.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 9

Thần thoại Hy Lạp với sức sống bền bỉ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc trên toàn thế giới. Đặc biệt, "Prô-mê-tê và loài người" là một truyện kể tiêu biểu của kho tàng thần thoại ấy. Những đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật đã góp phần làm nên thành công của truyện.

Từ nhan đề "Prô-mê-tê và loài người", chúng ta dễ dàng nhận ra nội dung và chủ đề của truyện. Truyện kể về việc hai vị thần Prô-mê-tê và Ê-pi-mê-tê sáng tạo ra loài người và thế giới muôn loài, ban phát cho họ những thứ "vũ khí" để có thể phòng thân, bảo vệ cuộc sống của giống loài. Qua đó, câu chuyện đã thể hiện cách lí giải của người Hy Lạp xưa về nguồn gốc loài người và muôn vật.

So với các truyện kể dân gian khác, truyện thần thoại mang những đặc trưng riêng biệt, thể hiện qua các yếu tố như không gian, thời gian. Với "Prô-mê-tê và loài người", hai yếu tố ấy được khắc họa rõ nét qua không gian vũ trụ buồn tẻ, khung cảnh khi đó "chỉ mới có các vị thần", "mặt đất mênh mông" và thời gian chưa xác định rõ ràng "thuở ấy". Chính bởi vậy, hai anh em Prô-mê-tê và Ê-pi-mê-tê - những vị thần cai quản lúc bấy giờ đã xin phép U-ra-nôx và Gai-a tạo ra thêm nhiều thứ gì đó để thế gian có cuộc sống vui vẻ, đông đúc hơn. Nhận được sự ưng thuận, thần Ê-pi-mê-tê quá vui mừng nên tranh ngay lấy công việc và quyết định giao việc xem xét, sửa chữa cho người anh Prô-mê-tê. Ê-pi-mê-tê hoàn toàn đắm chìm trong công việc nhào nặn ra các loài vật với những thứ vũ khí riêng biệt. Có loài thì được ban đặc ân "chạy nhanh như gió", có loài thì "đôi mắt sáng xanh nhìn thấu cả đêm đen", có loài lại "thân hình khổng lồ mạnh khỏe hết chỗ nói", hay có loài "thân hình bé nhỏ nhưng lại có nọc độc ghê gớm. Nhờ sự sáng tạo, thần E-pi-mê-tê đã tạo ra thế giới muôn vật phong phú cùng những thứ vũ khí phòng thân hoàn toàn khác nhau. Mỗi loài vật đều mang trong mình sức mạnh riêng biệt để có thể phòng hộ và bảo vệ giống loài. Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thành công việc nhào nặn ra con người và muôn vật ấy, thần Ê-pi-mê-tê cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Vì sự đãng trí của bản thân, thần đã quên không ban phát vũ khí tự vệ cho loài người "chàng Ê-pi-mê-tê đần độn lại quên mất chẳng ban cho một đặc ân, một "vũ khí" gì. Đó là con người! Một con người, nhưng trần trụi, trần trụi hoàn toàn". Đứng trước hoàn cảnh như vậy, người anh Prô-mê-tê với "bộ óc thông minh, có tài nhìn xa trông trộng" đã quyết tâm khắc phục thiếu sót của em mình. Trước hết, thần Prô-mê-tê dựa theo thân hình của các vị thần mà tái tạo lại dáng đứng của con người "cho họ có một thân hình đẹp đẽ thanh tao", để họ có thể đứng thẳng và đi bằng đôi chân "để đôi tay được thảnh thơi làm nhiều việc khác". Tiếp đó, thần nhận ra sự "non yếu" của con người nên quyết định "phải làm cho con người mạnh hơn hẳn con vật thì mới có thể sống được trong thế gian này". Chính vì thế, thần đã tới tận cỗ xe lửa của thần Mặt Trời để lấy lửa và đem xuống trao cho loài người. Từ đây, loài người được ban phát thứ "vũ khí" đặc biệt và ẩn chứa sức mạnh hơn các vật khác. Cuộc sống con người dần thoát khỏi cảnh tối tăm, lạnh lẽo, đói khát của thế gian. Ngọn lửa mà Prô-mê-tê ban tặng chính là ngọn lửa thiêng liêng, bất diệt. Ngọn lửa ấy đã đưa con người đến với cuộc sống văn minh, hạnh phúc:

"Và từ đó dẫu mong manh và bấy yếu
Giống loài người đã có ngọn lửa của Prô-mê-tê
Ngọn lửa thiêng dạy cho họ biết bao nghề".

Có thể thấy, truyện "Prô-mê-tê và loài người" đã làm nổi bật chủ đề của thể loại truyện thần thoại: lí giải về nguồn gốc của loài người và thế giới muôn vật. Đồng thời, qua tác phẩm này, chúng ta cũng thấy được trí tưởng tượng phong phú cùng những sáng tạo tinh tế của người Hy Lạp xưa. Họ có cách lí giải thú vị về cuộc sống xung quanh mình và biết cách gửi gắm tấm lòng ngợi ca công lao to lớn của mỗi vị thần.

Những sáng tạo về hình thức nghệ thuật đã góp phần làm nên thành công chủ đề của truyện. "Prô-mê-tê và loài người" có cốt truyện đơn giản, quen thuộc. Truyện đã khắc họa hình ảnh hai vị thần Prô-mê-tê và Ê-pi-mê-tê một cách sống động thông qua việc sử dụng các yếu tố kì ảo. Nhờ có các yếu tố kì ảo, hai vị thần hiện lên với sức mạnh phi thường, tài năng vượt trội mà con người không thể có được "lấy đất và nước nhào nặn, trước hết, là các loài vật", "Prô-mê-tê liền băng ngay lên bầu trời cao xa tít tắp đến tận cỗ xe của thần Mặt Trời Hê-li-ôx lấy lửa của thần Mặt Trời châm vào ngọn đuốc của mình". Bên cạnh đó, nhân vật hai vị thần cũng được người Hy Lạp xưa phác họa dựa theo nét gần gũi, thân thuộc với loài người. Đó là hình ảnh thần Ê-pi-mê-tê "đần độn", đãng trí khi quên ban phát vũ khí phòng hộ cho con người. Đó còn là thần Prô-mê-tê thông minh, có tầm nhìn xa trông rộng khi khắc phục các thiếu sót mà em mình để lại. Ngoài ra, truyện còn thành công trong việc sử dụng các hình ảnh thú vị, sinh động. Hình ảnh thế giới muôn vật sau khi được thần Ê-pi-mê-tê tạo ra đã kích thích chúng ta tưởng tượng, hình dung về dáng vẻ của mỗi con vật. Hay hình ảnh thần Prô-mê-tê băng lên trời xanh, tới chỗ của nữ thần Mặt Trời để lấy lửa trao cho con người cũng giúp chúng ta cảm nhận được sức mạnh siêu nhiên của các vị thần.

Xuất phát từ mong muốn có cuộc sống văn minh và tươi sáng hơn, người Hy Lạp xưa đã lý giải một cách thú vị về thế giới con người và muôn vật qua "Prô-mê-tê và loài người". Với những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, truyện đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Mong rằng, mỗi người chúng ta hãy biết giữ gìn và vun đắp các truyện kể dân gian đến từ nhiều nền văn minh trên thế giới, để chúng luôn sống mãi trong kí ức của nhiều thế hệ.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 10

Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, quê ở Hải Dương, ông là "danh sĩ thời Lê Sơ". "Truyền kì mạn lục" do ông sáng tác đã đem lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Truyện được viết bằng chữ Hán gồm hai mươi truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Nguyễn Dữ đã ghi chép tản mạn những câu chuyện lạ trong dân gian thời Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ với sự gia công, sáng tạo. Nổi bật trong tập truyện này, ta có thể kể đến "Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên". Tác phẩm thể hiện rõ sự ngợi ca và khát vọng công lí của nhân dân trong đời sống, đồng thời lên án xã hội phong kiến đương thời với những kẻ tham lam, tàn bạo.

Câu chuyện kể về nhân vật Ngô Tử Văn với chiến thắng oanh liệt trước cái xấu, cái ác. Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, Lạng Giang, chàng nổi tiếng trong vùng với "tính cách cương trực, khảng khái". Ở nơi chàng sinh sống có một ngôi đền rất thiêng. Vậy mà vào cuối đời nhà Hồ, khi "quân Ngô sang lấn cướp", "viên Bách hộ họ Thôi tử trận gần đó đã chiếm lấy ngôi đền và làm yêu làm quái trong dân gian". Ngô Tử Văn rất tức giận vì điều này, vì thế, chàng đã quyết định đốt đền. Sau khi về nhà, chàng lên cơn sốt, trong cơn mê man chàng thấy hồn ma tên bại tướng phương Bắc. Mặc cho tên tướng giặc đe dọa, uy hiếp rằng nếu không trả lại ngôi đền Tử Văn sẽ gặp phải tai vạ, chàng vẫn ung dung, bình thản. Thổ Công hiện lên kể lại toàn bộ sự việc mình bị hại cho Tử Văn và những tội ác tên hung thần gây ra. Vì vậy, trước mặt Diêm Vương, chàng đã dũng cảm tố cáo hồn ma viên Bách hộ. Cuối cùng, Tử Văn được Diêm Vương cho sống lại. Sau này, để đáp lại lời đề bạt của Thổ công, chàng đã nhận chức Phán sự ở đền Tản Viên.

Nguyễn Dữ đã thành công xây dựng nhân vật Ngô Tử Văn với tính cách thẳng thắn, dũng cảm. Không thể làm ngơ trước sự quấy phá của tên hung thần, Tử Văn đã "tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền". Hành động đốt đền của chàng có chủ đích, cẩn trọng và không phải là hành động bộc phát. Chàng tin rằng hành động của bản thân xuất phát từ những mục đích tốt đẹp, chàng muốn trừ khử tên tướng giặc để người dân có cuộc sống yên bình. Điều này cho thấy Ngô Tử Văn là một người dũng cảm, Tử Văn tin hành động chính nghĩa của mình sẽ được ông trời ủng hộ. Trước lời đe dọa của tên bại tướng phương Bắc, chàng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, tự nhiên "Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ "ngồi ngất ngưởng tự nhiên". Chàng đã vạch trần tội ác của tên hung thần và trả lại ngôi đền cho Thổ Công "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng", "Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi; không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn". Từ nhân vật Ngô Tử Văn, tác giả muốn đề cao sự nhân nghĩa, dũng cảm của con người. Những đức tính này giúp con người có thể sống vì cộng đồng, vì hạnh phúc nhân dân. Việc Ngô Tử Văn nhận chức Phán sự đền Tản Viên còn thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong xã hội.

Trái ngược với Tử Văn, viên Bách hộ họ Thôi đại diện cho sự gian xảo. Một tên tướng bại trận lưu vong nơi đất khách mà cướp ngôi đền của Thổ thần để tác oai, tác quái, gây bao phiền nhiễu cho dân lành, hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những tên quỷ Dạ Xoa.

Tác phẩm còn lên án, tố cáo chế độ phong kiến đương thời với những tên tham quan, chà đạp lên đời sống của người dân. Điều này được thể hiện rõ nhất qua không gian kì ảo ở thế giới âm ti. Nhân vật kì ảo Diêm Vương được khắc họa là một người chính trực, phán xử đúng tội. Khi biết được lũ quỷ sai thông đồng với hồn ma tên hung thần, người đã "sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu U". Câu nói của Diêm Vương thể hiện sự răn đe những tên tham quan "Lũ các ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được!"

Cốt truyện kịch tính, hấp dẫn, sự đan xen giữa các yếu tố thực và ảo dày đặc cũng làm nên sức hút cho tác phẩm. Yếu tố kì áo có thể kể đến như: nhân vật kì ảo (hồn ma tên tướng giặc, quỷ Dạ Xoa, Diêm Vương, Thổ công), chi tiết kì ảo: Tử Văn chết đi sống lại; chàng nhận chức Phán sự đền Tản Viên. Yếu tố thực trong tác phẩm: địa danh có thật (vùng đất Lạng Giang), thời gian lịch sử (cuối đời nhà Hồ). Ngoài ra, lối kể chuyện lôi cuốn và việc sử dụng ngôi kể thứ ba cũng góp phần giúp người đọc hình dung ra một cách khái quát sự kiện được nhắc tới. Lời bình cuối truyện đã góp phần thể hiện quan niệm của tác giả về kẻ sĩ.

Truyện ngầm phản ánh xã hội phong kiến đương thời nhiều bao nhiêu bất công với người dân nghèo khổ. Qua cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác của Ngô Tử Văn, tác giả đã khẳng định niềm tin về sự chiến thắng của cái thiện. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện khát vọng sống công bằng của nhân dân. Truyện đem lại cho chúng ta nhiều bài học ý nghĩa trong cuộc sống về sự dũng cảm, kiên cường, khảng khái khi đấu tranh trước cái xấu, cái ác.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 11

Văn chương là một thứ tuyệt diệu mang lại cho con người nhiều cảm xúc. Nó hướng tới nhiều chủ đề khác nhau, phong phú và đặc sắc tùy theo từng phong cách viết của những tác giả. Đặc biệt, nó còn phản ánh nội tâm của người nghệ sĩ, thể hiện được cả những điều giấu kín và thậm chí người viết cũng không biết. Lời má năm xưa được tác giả Trần Bảo Định viết lên và là một tác phẩm tiêu biểu về nội tâm. Bài đọc là những cảm xúc vấn vương, làm lòng người đọc rung động.

Lời má năm xưa là nhan đề, cũng là một hoàn cảnh của câu chuyện. Đó chính là những lời dạy bất chợt của người mẹ trong quá khứ, sau này người con luôn nhớ tới và học theo nó. Cốt truyện của tác phẩm rất đơn giản nhưng lại đủ phản ánh chủ đề. Nó chỉ là những khung cảnh bình thường, nhưng lại tạo nên sự day dứt cho tác giả qua hàng chục năm. Qua sự việc bắn bị thương một chú chim, nhân vật “tôi” trong tác phẩm lại cảm thấy tội lỗi trong hàng chục năm sau đó. Tưởng chừng như đây là một tình huống đơn giản, nhưng nếu phân tích kỹ ta mới thấy nó có ý nghĩa chừng nào.

Ngay trong đoạn đầu, tác giả đã cho người đọc một thông tin: Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :

Chim thằng chài có ngày mắc bẫy

Em cho anh hay anh hãy tránh xa

Mẹ cha không thể chịu hòa

Em đâu dám cãi để mà theo anh

Đây được xem như một đặc sắc của vùng miền, cũng là một câu mở đầu độc đáo. Câu hò trên của quê hương mang trong mình đầy tình yêu thương giữa đôi tình nhân, nhưng đôi bên cha mẹ lại chẳng đồng ý. Người con gái không cãi lời cha mẹ, vậy nên mới lảng tránh người con trai lại gần mình. 

Đoạn sau, tác giả lại miêu tả về những chú chim bói cá về một số đặc điểm và cách sống của chúng. Những chú chim con không được bảo vệ dưới đôi cánh mẹ mà phải tự lập, tự kiếm ăn để sống sót. Chúng cũng có lòng thương người, thương vật, một thứ tình cảm mà chúng ta chẳng hề nghĩ tới. Chúng bảo vệ lẫn nhau, chúng nhường cá tôm đầy đặn cho kẻ chài già yếu trong đàn. 

Trong truyện, nhân vật chính đại diện cho tác giả thường đi chơi với lũ bạn. Những lúc đó, bọn trẻ nghịch ngợm thường lấy ná thun bắn vào những con chim bói cá. Những chú chim ấy cũng thường được gọi là thằng chài. Những con chim tội nghiệp đó con bị thương, con thì chết, những đứa trẻ ngây ngô cứ lấy đó làm trò tiêu khiển. Chẳng ai trong số chúng nghĩ rằng, những chú chim đó sẽ đau khổ như thế nào, sinh mạng của chúng sẽ mất đi vì những trò đùa của bọn nhỏ. Có lẽ lúc đó, chúng chưa hiểu được, cũng không muốn hiểu vì đang độ tuổi ham chơi, nghịch ngợm. Vậy là, chúng vô tình làm tổn thương những loại động vật nhỏ bé, hiền lành. 

Câu nói của nhân vật người mẹ đã thức tỉnh nhân vật tôi là  “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”. Chỉ một câu hỏi đơn giản, nhưng người mẹ đã làm cho con bỗng hiểu được hành động của mình là sai trái. Mẹ bắt ông đi ra sông, vớt thằng chài vừa bị bắn lên bờ, chăm sóc nó, nhưng chú chim nhỏ lại như giận dỗi mà không thèm ăn những miếng mồi nhân vật tôi đút. Đây cũng là một hành động thể hiện cho sự “quay đầu” của một đứa nhóc nghịch ngợm. Hình ảnh người mẹ trong chi tiết này thật nổi bật. Mẹ là người đỡ đầu, dạy con những điều đúng sai, nên và không ở đời. Chính nhờ sự dạy dỗ của người mẹ, một sinh mệnh nhỏ được cứu, và sau này cũng có thể là nhiều sinh mệnh khác.

Trở về thực tại, sau rất nhiều năm, khi nhắc về câu chuyện đó vẫn khiến cho tác giả, lúc này đã trưởng thành hối hận và day dứt rất nhiều năm. Đặc biệt, câu nói của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” xuất hiện lặp đi lặp lại và xuyên suốt cả câu chuyện như một lời dạy, lời nhắc nhở thấm đẫm tình người làm ta không thể nào quên. Lời nói đó làm nổi bật lên chủ đề và nhan đề của tác phẩm, cũng khiến người đọc cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng.

Tác giả sử dụng phép điệp lặp lại câu hỏi tu từ nhiều lần làm nổi bật lên nội dung truyện. Bên cạnh đó, ông cũng sử dụng một loạt các biện pháp tu từ khác như liệt kê, nhân hoá đã khiến cho những hình ảnh trong truyện trở nên chân thực. Bằng việc xây dựng cốt truyện cảm động và dòng thời gian hợp lý, những cảm xúc của nhân vật được thể hiện rất rõ. 

Thứ mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc qua bài viết này cũng là bài học mà người mẹ đã dạy con mình: phải biết yêu thương các loài vật, coi chúng như con người. Tác phẩm Lời má năm xưa để lại nhiều loại cảm xúc trong lòng người đọc, qua đó cũng làm bật lên nội dung và chủ đề của truyện. 

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 12

"Đi san mặt đất" trích "Mẹ Trời, Mẹ Đất" là tác phẩm thần thoại bằng thơ nổi tiếng của người Lô Lô. Cũng như các thần thoại khác, tác phẩm ra đời nhằm giải thích hiện tượng tự nhiên và thể hiện ước mơ khám phá thế giới, chinh phục chúng của người Lô Lô. Bằng sự quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, người Lô Lô đã sáng tạo ra những câu chuyện thần thoại bằng thơ ấn tượng, đi sâu vào lòng người đọc.

Trong nhận thức của người Lô Lô xưa, quá trình tạo lập thế giới do bàn tay con người tái tạo. Tuy người Lô Lô xưa có nhận thức khá nguyên sơ nhưng họ đã thể hiện ý thức cải tạo thiên nhiên để phục vụ cuộc sống. Tác phẩm như một khúc ca khẳng định vai trò của con người trong quá trình tạo lập thế giới.

"Đi san mặt đất" ca ngợi công lao của con người trong quá trình cải tạo thiên nhiên. Ngay từ đầu tác phẩm, ta có thể nhận thấy đặc trưng của truyện thần thoại qua các yếu tố không gian, thời gian. Người Lô Lô xưa đã khắc họa thời gian, không gian sống của con người khi chưa san phẳng bầu trời và mặt đất một cách sinh động, gần gũi. Thời gian mang tính chất cổ xưa được tái hiện trong tác phẩm "Ngày xưa, từ rất xưa/ Người già không nhớ nổi/ Mấy trăm, mấy nghìn đời/ Ngày xưa, từ rất xưa/ Người trẻ không biết tới/ Mấy nghìn, mấy vạn năm". Từ "xưa" được lặp lại bốn lần kết hợp với các cụm từ "mấy trăm", "mấy nghìn đời", "mấy nghìn", "mấy vạn năm" làm thời gian như dài ra vô cùng vô tận. Không gian lịch sử của tác phẩm nổi bật lên là không gian bản làng, không gian sinh tồn của cộng đồng, dân tộc. Đó là không gian miền núi với thượng nguồn, núi non về cây cối "Người mặt đất ăn chung/ Cùng đi và cùng ở/ Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá/ Người mặt đất sống chung/ Cùng ở và cùng đi".

Bởi vì "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" ảnh hưởng việc sinh sống và đi lại nên con người phải đi san phẳng để làm ăn. Cách nói này cũng thể hiện khát vọng tìm kiếm những vùng trời, vùng đất mới còn nhấp nhô để người Lô Lô mở rộng và chinh phục. Và việc san phẳng bầu trời, mặt đất là việc chung vì vậy cần có sự hỗ trợ của muôn loài. Bằng ngôn từ tinh tế, thể thơ năm chữ và nhịp thơ linh hoạt, tác giả dân gian đã khắc họa quá trình san phẳng bầu trời và mặt đất một cách sống động. Trước tiên họ chọn trâu sừng cong, dài, sau đó đeo cái ách cho trâu để trâu đi cày, bừa san mặt đất "Kiếm con trâu sừng cong/ Chọn con trâu sừng dài/ Đẽo cho trâu cái ách/ Đục lỗ ách luồn dây. Chão dẻo làm dây cày/ Thừng dài làm dây bừa/ Trâu cày bừa san mặt đất". Cách diễn tả này khiến ta hình dung quá trình san mặt đất của người Lô Lô xưa chính là cách họ lao động, trồng trọt kiếm sống. Cuộc đi san mặt đất của họ gắn liền với con trâu - con vật gần gũi cho người làm nông "con trâu là đầu cơ nghiệp".

Các loài động vật được nhân hóa cũng góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Những loài vật: trâu, chuột chũi, cóc, ếch đều tham gia vào quá trình đi san mặt đất "Người tìm hang chuột chũi/ Gọi hắn, hắn rung râu/ "Suốt ngày trong lòng đất/ Tôi có thấy trời đâu"/ Người lại tìm cóc, ếch/ Đứa tặc lưỡi ngồi nhìn/ Đứa thì kêu ộp oạp:/ "Chân tay tôi đều ngắn/ San mặt đất sao nên?/ Để chúng tôi gọi lên/ Xin trời đổ nước xuống!". Người Lô Lô chung tay san mặt đất để làm ăn, họ không quản ngại mệt nhọc, khó khăn. Họ nghĩ rằng đó là việc của chung, muốn chinh phục thiên nhiên cần có sự đoàn kết "Chẳng quản gì nhọc mệt/ San đất là việc chung", "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy/ Nhiều sức, chung một lòng/ San mặt đất cho phẳng/ Nhiều tay chung một ý/ San mặt đất làm ăn". Nếu thần thoại "Thần Trụ Trời" của người Kinh thần linh là hình tượng trung tâm thì trong "Đi san mặt đất", con người đã trở thành chủ thể.

Xuyên suốt văn bản thể hiện nguyên nhân và quá trình con người phải đi san phẳng bầu trời và mặt đất. Với trí tưởng tượng sáng tạo, người Lô Lô xưa đã khiến thần thoại bằng thơ của họ đi sâu vào lòng người nghe. Những câu thơ không chỉ thể hiện khao khát, ước mơ của người dân trong quá trình chinh phục thiên nhiên mà còn phản ánh đời sống sinh hoạt người Lô Lô xưa một cách tinh tế.

Thần thoại "Đi san mặt đất" đã bộc lộ cái nhìn ngây thơ, hồn nhiên của người xưa về thế giới tự nhiên. Tác giả dân gian cũng gửi gắm trong tác phẩm tình cảm yêu mến, ngợi ca đối với công ơn của các thế hệ ông cha đi trước. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về cách giải thích thế giới tự nhiên của người Lô Lô cổ đại.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 13

Trong nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ bao đời nay, ông cha ta luôn lưu truyền những câu chuyện thần thoại kỳ ảo huyền bí để có thể giải thích cho sự hình thành quê hương đất tổ. giải thích được cho con cháu đời sau về sự hình thành của trời đất, của nước non hùng vĩ. Trong hệ thống thần thoại đó, ông cha ta đã giải thích về việc sáng lập vũ trụ. Và tác phẩm Thần Trụ Trời là mở đầu, tiếp theo là một loại các thần thoại khác như Thần Mưa, Thần Biển, Thần Mặt Trời, Mặt Trăng lần lượt ra đời. Tiếp chân của những thần thoại khai phá ra vũ trụ kia là các thần thoại về các vị thần sáng tạo ra muôn loài….

Qua tác phẩm Thần Trụ Trời, ta có thể biết được để tách biệt trời đất như ngày nay. Thần trụ trời đã phải đào đất, khiêng đá đắp thành cột để chóng trời, từ đó mới hình thành ra các vị thần khác cùng thần trụ trời cai quản. và một trong các vị thần cùng cai quản và nối tiếp cho khoảng vũ trụ được hình thành đó có sự sống thì phải kể đến vị Thần Mưa - vị thần tạo ra sự sinh thái cân bằng cho trời đất, là tiền đề duy trì sự sống cho muôn loài do các vị thần sáng tạo ra muôn loài tạo lên.

Đầu tác phẩm, tác giả đã giải thích vị Thần Mưa có hình rồng, thường bay lượn xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời để tạo ra mưa. Qua lời giải thích đó, ta có thể biết được vị thần có hình dáng là một con rồng, được Trời giao phó là hút nước dưới trần thế để tạo ra mưa cho loài người cày cấy, sinh hoạt. Cho cây cỏ sinh sôi và phát triển, muôn thú có nước để duy trì hệ sinh thái của mình. Đây là một công việc vô cùng quan trọng, ấy nhưng vị thần này lại có tính hay quên, có vùng đất cả năm không ghé mặt để phân phát nước khiến nhiều vùng bị hạn hán nghiêm trọng. Muôn thú, cỏ cây khó có thể duy trì sự sống. Điều đó được tác giả nói rõ “Thần Mưa có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Do đó mà có lần ở hạ giới phải lên kiện trời vì Thần Mưa vắng mặt lâu ngày”. Qua đó ta có thể thấy rõ vị Thần này đãng trí đến nỗi khiến Muôn loài ở các vùng đất hạn hán đó bất mãn đến mức nào, khiến họ phải kiện đến cả trời xanh. Điều này được thể hiện khá rõ tại tác phẩm “cóc kiện Trời”, bởi sự trễ nải này mà khiến cỏ cây héo úa, muôn thú khát khô cả cổ chỉ vì sự văng mặt lâu ngày của Thần Mưa.

Nhưng tiếp đó, tác phẩm cũng đã giải thích một phần lí do sự trễ nải này của thần Mưa “Công việc phân phối nước cho khắp mặt đất rất nặng nề, một mình thần Mưa có khi không làm hết”. Một phần vì tính hay quên của Thần, một phần vì trời đất bao la rộng lớn quá, công việc nặng nhọc này cũng chỉ có mỗi Thần đảm nhiệm nên nhất thời lo không xuể. Chính vì lo không hết khiến công việc quá tải, muôn loài oán than. Vì để giảm bớt gánh nặng cho Thần Mưa, cũng như xoa dịu được sự nóng giận của muôn loài dưới hạ dưới, nên Trời đã mở cuộc thi chọn loài giúp sức cho công việc của Thần Mưa qua việc mở cuộc thi chọn giống loài thủy tộc có tài năng để giúp Rồng hút nước tạo mưa. Cuộc thi được Nhà Trời chọn đại điểm là ở cửa Vũ (Vũ Môn) thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay để có thể lên Thần hóa rồng trợ giúp Nhà Trời và Thần Mưa tạo mưa cho muôn loài.

Mồng ba cá đi ăn thề,

Mồng bốn cá về cá vượt Vũ Môn

Qua hai câu thơ trên, cho thấy Nhà Trời rất coi trọng cuộc thi này, vì trước kia khi mới sáng lập ra trời và đất, công việc tạo mưa là do đích than Trời làm để cho muôn loài, cỏ cây phía dưới tồn tại sinh sống và làm ăn. Sau đó vì đất trời tạo ra bao la quá, công việc khó nhọc không thể đảm nhiệm được nữa nên mới sai rồng lấy nước để làm ra mưa. Nhưng trong chính tác phẩm cũng đã nêu rõ vì số lượng rồng trên trời quá ít không thể đảm nhiệm nổi công việc nên Trời đã ban lệnh Xuống cho Thủy Phủ để kén chọn loài có thể cùng rồng làm công việc điều hòa sự sống cho muôn loài.

Qua lời bộc bạch của tác giả qua từng câu chữ trong tác phẩm, ta có thể thấy được yếu tố kỳ ảo của tác phẩm, sự sinh động từng câu chữ khiến cho tác phẩm thật sinh động hiện ra trước mắt để có thể đi sâu vào tâm hồn người đọc.

Tác phẩm thể hiện rõ yếu tố truyền kỳ qua từng câu chữ qua việc vua Thủy Tể loan tin để cho muôn loài dưới Thủy cung ganh đua mà dự thi. Cuộc thi được phân chia làm ba kỳ, mỗi kỳ lại nâng một độ khó khác nhau mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức đủ tài, vượt được cả ba đợt, thì mới lấy đỗ mà cho hóa Rồng” có thể thấy tính chất của cuộc thi nghe thì dễ nhưng mà thực hiện thì khó qua việc phải vượt qua cả ba đợt song mới lấy làm đỗ để có thể hóa rồng. Cả một đoạn của tác phẩm đã thể hiện cản tượng tranh tài của bao loài Thủy sinh dưới nước thể hiện hết sức mình nhưng đều bị loại cả vì không thể vượt qua đợt sống. Từ “sống” được đặt ở cuối câu như vậy để thể hiện tính chất của cuộc thi thật khắc nghiệt, để có thể vượt qua cuộc sát hạnh này, với mong muốn được hóa rồng mà có thể nhiều loài đã từ bỏ mạng sống của mình. Có loài cá rô nhảy qua được một đợt nên chỉ được một điểm, điều này khiến cá rô nhà ta mất đi cơ hội hóa rồng đành phải về yên vị ở đồng như trước. Tiếp đến, có con tôm nhảy qua được hai đợt hóa được một nửa rồng rồi, điều đó được tác giả nêu rõ “Có con tôm nhẩy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi đã gần hóa Rồng thì đến lượt thứ ba, đuối sức ngã bổ xuống lưng cong khoăm lại và chất thải lộn lên đầu.” Qua câu từ như vậy, ta cũng có thể hiểu được lí do tại sao tôm lại bơi giật lùi, thân cong và chất thải lại bị lộn lên đầu như vậy. Qua lời kể trên, ta đã học hiểu được nhiều điều qua lời kể đầy xúc tích, dễ hiểu đến như vậy qua việc diễn tả tôm, cá rô, cá chép vượt qua như thế nào. Điều đó ngầm ý muốn cho khung cảnh cuộc thi trở lên sinh động trước mắt người đọc.

Sau nhiều đợt tuyển chọn, tưởng chừng chẳng có con vật nào có thể qua được. Đến lượt cá chép vào thi thì thì vô cùng thuận lợi. Tác giả đã dung từ “ào ào” đề diễn tả sự thiên tàng địa lợi của cá chép, cá chép nhờ đó mà vượt cả ba phần sát hạch và vào được cửa Vũ Môn. Qua lời miêu tả của tác phẩm, cá chép đỗ, đuôi, râu, sừng tự nhiên đầy đủ như rồng. Một hình dáng oai nghi, cùng với Thần mưa đảm nhiệm công việc ban phát mưa xuống trần thế.

Việt Nam ta hình thành qua bao nhiêu đời nay luôn gắn liền với một kho tàng thần thoại khổng lồ gắn liền với sự hình thành của Đất Việt - sự trường tồn, phồn vinh và lưu truyền muôn đời để thế hệ mai sau có thể biết được sự thiêng liêng của Đất Nước, trong các tác phẩm đó thì Thần Mưa cũng là một trong những thần thoại to lớn luôn trường tồn với thời gian. Nó vẫn luôn tồn tại những giá trị tinh thần mà người xưa muốn gửi gắm lại cho đời sau những giá trị nhân văn của dân tộc, nói lên ước mơ khát vọng vượt qua khó khăn để đạt được danh vọng qua nhân vật Cá chép. Qua đó, mong thế hệ mai sau tiếp nối, giữ gìn và thực hiện.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 14

Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện "Cây khế". Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.

Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Truyện "Cây khế" phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỷ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ "rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để " khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động "nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang" đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí... còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than " ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu..." rồi hành động "chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về" cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.

Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 15

Nếu phải chọn ra ý nghĩa cao cả nhất của văn chương, thì đó là việc văn chương đã cống hiến cho cuộc đời này những câu chuyện đẹp đẽ về con người và cuộc sống. Những rung cảm mạnh mẽ và những thông điệp đầy ý nghĩa qua lăng kính của cảm xúc trong tâm hồn người nghệ sĩ. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của nhà văn Trần Bảo Định qua đoạn trích Lời má năm xưa. Đến nay vẫn còn vấn vương trong lòng biết bao độc giả bởi những câu từ đầy ý nghĩa.

 Văn bản Lời má năm xưa có cốt truyện đơn giản, xoay quanh những vấn đề thường thấy và trải qua đối với mỗi con người chúng ta và cả tác giả. Đây là một văn bản đầy ý nghĩa qua những lời dạy bảo của người má và cả nỗi ân hận day dứt của tác giả từ ngày ấy cho đến bây giờ. Tác phẩm đã bày tỏ nỗi ân hận của nhân vật xưng “tôi” khi kể lại câu chuyện 70 năm trước đã bắn bị thương một con chim thằng chài. Khi đi sâu vào phân tích văn bản, ta có thể thấy văn bản ý nghĩa đến nhường nào.

Mở đầu đoạn trích tác giả đã giới thiệu cho chúng ta những câu hò xuất xứ từ làng quê thân thương của mình: Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :

Chim thằng chài có ngày mắc bẫy

Em cho anh hay anh hãy tránh xa

Mẹ cha không thể chịu hòa

Em đâu dám cãi để mà theo anh

Có thể thấy đây là câu hò mang đậm tính chất về tình yêu đôi lứa, Chim thằng chài hay còn gọi là chim bói cá, một loài chim sống đơn giản; thường lao đầu xuống mặt nước hoặc bay trên mặt nước để bắt những con mồi.trong câu hò trên mà tác giả trích dẫn “ chim thằng chài có ngày mắc bẫy” với tập tính săn bắt đó của mình thì loài chim ấy rất dễ bị mắc bẫy do con người hoặc do những kẻ thù tạo ra. Nhưng Đã có lời nhắc nhở của “Em” em cho anh hay anh hãy tránh xa những mối nguy hiểm đó để khỏi mắc bẫy của kẻ thù. Vì mẹ vì cha nên em chẳng thể nào dám bỏ theo anh. Đó là những câu ca dao mang đậm tính chất tình yêu đôi lứa nhưng cũng không quên xen kẽ về tình cảm gia đình.

Với những câu văn của tác chúng ta có thể hiểu thêm phần nào về loài chim bói cá. Một loài chim khiến cho chúng ta có thể thấy cảm động với cuộc sống của chúng. Chúng chẳng có mẹ ấp trứng, chẳng có mẹ để nuôi dưỡng và săn sóc, chúng tự thích nghi với môi trường và tự rèn luyện kĩ năng sống. Khi lớn lên chúng kết giao với đồng loại và tự bảo vệ cho nhau. Chúng nhường mồi cho bạn tình hoặc đồng loại thiếu cái ăn. Và nhường mặt nước đầy tôm cá cho những thằng chài già yếu bệnh tật. Khi chúng ta đọc đến đây, có lẽ sự mạnh mẽ, sự tự lập của chúng khiến cho ta trầm trồ thán phục, bởi chỉ là một loài chim nhưng chúng chẳng cần vòng tay của mẹ chẳng cần ai dạy dỗ mà tự mình lớn lên và hoàn thiện. Không những thế chúng còn là một loài chim tình cảm và cũng có cảm xúc yêu đương như con người chúng ta.

Quay ngược thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả, tác giả đã ngậm ngùi chia sẻ lại câu chuyện cũ với biết bao xúc cảm. Khi còn là một đứa trẻ, ông cùng với tụi bạn đi rình mò dùng cái ná thun với những viên đạn được vo tròn bằng đất sắt để bắn vào những con chim bói cá, có con may mắn thì bị thương còn không thì chết. Một loài chim sống tình cảm đáng trân quý, một loài chim như vậy ấy vậy mà lại bị những con người vô thức làm hại, khi nghĩ lại những chuyện ấy tác giả cảm thấy thật trớ trêu thay, cảm giác hối hận, ray rứt lại bắt đầu dằn xé trong tâm trí ông. Chim rình cá, người rình chim, cớ sự từ cái rình theo cuộc.

Chắc hẳn mỗi chúng ta ai cũng mẹ, và chính mẹ là người đã dạy dỗ chúng ta mỗi khi mắc sai lầm. Và tác giả cũng thế; bởi chỉ sau khi nghe câu hỏi của má: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” đã thức tỉnh nhân vật tôi. Người thực sự cứu chim thằng chài chính là người má: “Tôi bị má đánh đòn khi bắn thằng chài rơi bên sông…. Má bảo tôi ra bến vớt nó lên”. Sau đó là một loạt hành động của nhân vật tôi chăm sóc và cứu sống chim thằng chài. Khi người mẹ của ông nhìn thấy chính tay ông bắn thằng chài rớt bên sông, ông bị má đánh đòn. Với câu nói nhẹ nhàng sâu lắng của người má: “sao con cướp đi sự sống của nó, rồi ai cướp đi sự sống của con” chính câu nói ấy đã khiến tác giả cảm thấy ân hận và ray rứt thâm tâm đến tận bây giờ. Với những lời của người mẹ, nhân vật tôi đã làm theo những lời chỉ bảo ấy, ông đem về nhà, trị thương băng bó cho nó. Nhưng trớ trêu thay khi ông đút cá cho nó, nó lại không ăn; cá chính là món mồi mà nó vẫn mạo hiểm đi săn bắt mỗi ngày ấy vậy mà giờ đây nó lại làm ngơ trước miếng mồi ấy, đút thứ khác nó cũng không thèm ăn, phải chăng đây chính là sự tức giận trong nó, nó đang trầm trách rằng tại sao lại cướp đi sự sống của nó chăng. Chính vì điều đó đã làm cho nhân vật tôi hối hận và bối rối hơn bao giờ hết, giá như lúc đó mình không bắn nó thì có lẽ giờ nó đã được tự do bay lượn cùng với đồng loại chứ không phải là bị thương tật và nằm ngay đây đến tận mấy ngày sau vết thương đã lành nhưng thể xác của nó cũng không như trước, nó ốm nhôm và không thể bay được có lẽ vì đuối sức.

Có thể thấy chẳng có gì thiêng liêng bằng tình mẫu tử và hình ảnh người má của nhân vật tôi – người đã thực sự cứu sống chú chim thằng chài trong cơn nguy kịch với sự lương thiện, thông minh, sâu sắc và thấu hiểu của một người mẹ đã thức tỉnh đứa con ngây dại của mình.

Trở về với câu chuyện cũ của tác giả, khi ông đem thằng chài để dưới gốc mận gần cầu nước, nó được những thằng chài khác, nó được những thằng chài khác bu quanh đút mồi, nó ăn một cách ngon lành, ngon đến nỗi khiến tác giả cũng phải thèm theo. Qua hình ảnh của tác giả, một lần nữa đã gợi lên cho chúng ta thấy lối sống tình cảm keo sơn đùm bọc của những con chim bói cá mãnh liệt đến nhường nào. Chỉ là một loài chim nhưng lại sống tình cảm như tác giả đã từng nghĩ đây là một loài “thú điện nhơn tâm” tuy hình hài là một con chim, gương mặt là một con chim nhưng lòng dạ tấm long trái tim là của một con người, thật sâu sắc và ý nghĩa đến nhường nào.

Quay lại với thực tại, quên đi câu chuyện cũ kia, nhưng đã gần bảy mươi năm kể từ khi xảy ra câu chuyện ấy, vậy mà giờ đây khi nhắc lại câu chuyện cũ ông không sao không thể dứt ra được sự hối hận và bối rối mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, và đặc biệt không thể nào quên được câu hỏi của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”. Câu hỏi của người má: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” được lặp lại hai lần trong văn bản. Việc lặp lại câu hỏi ấy vừa góp phần làm nổi bật tính chất của câu chuyện bởi đây là chuyện được kể lại, vừa nhằm nhấn mạnh tâm trạng hối hận, nỗi nhớ không quên được về lời má dặn của nhân vật tôi. Đây vừa như lời trách móc vừa như một lời dạy bảo: tại sao con lại làm thế với con chim? Nó không có tội gì, không làm gì đến con. Con phải hiểu rõ. Người má như muốn dạy nhân vật chính sự thấu hiểu, lòng thương cảm đối với loài vật như con chim thằng chài

Những từ ngữ, câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhân vật tôi: Tôi hối hận và bối rối, tôi tần ngần nhìn bầu trời xanh, tôi không thể nào quên câu nói của má, tận đáy lòng, tôi không thể dứt ra được sự hối hận và bối rối. Với thủ pháp liệt kê một số từ ngữ, câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhân vật “tôi”: “tôi hối hận và bối rối”; “tần ngần”; “hối hận và bối rối”. Có thể thấy tác phẩm là những chuỗi cảm xúc đầy ý nghĩa với bài học đầy nhân văn của tác giả muốn truyền tải đến cho mỗi chúng ta, hãy yêu quý, bảo vệ thiên nhiên, động vật, đừng làm gì tổn hại đến chúng bởi sẽ có ngày nào đó chúng ta cảm thấy ray rứt và hối hận mỗi khi nhớ đến dù những chuyện đã qua đi rất lâu. Đây cũng là bài học mà người mẹ muốn dạy cho nhân vật chính và nhân vật chính ấy lại muốn truyền tải đến cho bao bạn đọc.

Giữa con người và thiên nhiên, loài vật có mối quan hệ có thể tác động lên nhau. Ở đây chính là cái cảm xúc. Cảm xúc của con người sẽ quyết định cái nhìn, hành động của họ đối với thiên nhiên, loài vật. Con vật cũng vậy, cảm xúc của chúng sẽ được quyết định từ hành động của con người. Ví dụ như là việc con chim thằng chài” vươn vai, hót mấy tiếng như muốn cảm ơn tôi”

Con người, thiên nhiên và cảnh vật là những yếu tố có mối quan hệ gần gũi với nhau bởi tất cả đều luôn hiện hữu xung quanh nhau. Bởi vậy, không có lí do gì để con người phá vỡ mối quan hệ đó. Hãy đón nhận và xem đó giống như một đại gia đình, và những người trong gia đình luôn biết yêu thương và không hãm hại nhau, con người và thiên nhiên đều có quyền được sống, quyền bảo vệ sự sinh tồn của chính mình. Con người không thể tự cho mình quyền tước đoạt sự sống của thiên nhiên, loài vật.

Bằng ngòi bút của mình, ông đã kể lại câu chuyện cũ với những xúc cảm của mình Văn bản đã bộc lộ tâm trạng ăn năn, hối hận và day dứt của nhân vật “tôi” khi nhớ lại hành động mình đã làm với chú chim thằng chài, từ đó cho thấy cậu bé là một người giàu tình cảm, giàu lòng trắc ẩn và lương thiện. Văn bản gợi lại câu chuyện tuổi ấu thơ của một chàng trai khi còn là một cậu bé đã lỡ bắn một con chim thằng chài bên bến sông. Nhờ có sự khuyên bảo của má, anh đã vớt nó về, băng bó chữa trị vết thương rồi cố gắng cứu sống nó, nhưng sự áy náy và ân hận về hành động này vẫn còn và đi theo anh đến mãi sau này. Văn bản cho thấy mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là mối quan hệ gần gũi, gắn bó thân thiết và khuyến khích con người nên biết gìn giữ, bảo vệ môi trường.

Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học thế nên, Andersen đã từng nói : “không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống mình viết ra”.Quả đúng như vậy, nhà văn Trần Bảo Định với những trải nghiệm của riêng mình đã phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới,tìm ra cái đẹp kín đáo bị che lấp để cho người đọc có thể ngắm nhìn và thưởng thức thông qua tác phẩm của mình.Và đoạn trích lời má dặn chính là câu chuyện đẹp đẽ về thiên nhiên cũng như lời thủ thỉ của người mẹ. Tác phẩm lời má dặn để lại những ấn tượng trong lòng bạn đọc, rồi vượt lên mọi giới hạn của thời gian không gian để mãi trường tồn và đọng sâu trong lòng người đọc.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 16

Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh lầ một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.

Đàu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lũ hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta. Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp, lại nết na, hiền dịu có tên là Mị Nương. . Nay nàng đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Một người là ''chúa vùng non cao''. Một người là ''vua vùng nước thẳm''. Vì đưa được sính lễ tới trước là ''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao'' nên Sơn tinh đã cưới được Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc , Thủy Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh.Thủy Tinh dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thủy Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt; còn Sơn Tinh là nhân vật biểu trưng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường bất khuất, sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên tai, số phận.

Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa nhiều yếu tố kỳ ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể , ta có thể tháy đươc là núi non, nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu . Vua Hùng đặt ra sính lễ là''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao''. Những lễ vật này có thể thấy được là dễ dàng tìm ở vùng núi rừng chứ không phải biển cả. Sơn tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thủy TInh. Sau đó, một loạt những chi tiết kỳ ảo như ''Thủy tinh hô mưa, gọi gió.'', ''Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu.'' như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao, dân ta càng gắng sức chiến đấu, chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc tấn công của Thủy tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.

Câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh được khắc họa qua các chi tiết kỳ ảo, sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện gắn mãi với bao thế hệ, luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 17

Văn chương là nơi thể hiện những câu chuyện về cuộc sống và con người, là nguồn gốc của những cảm xúc mạnh mẽ và những thông điệp đầy ý nghĩa về tâm hồn người nghệ sĩ. Tác giả Trần Bảo Định đã mang tất cả những giá trị vĩnh cửu này đến với độc giả thông qua trích đoạn "Lời má năm xưa," tạo ra những dấu ấn khó quên trong lòng độc giả.

Trong bài viết "Lời má năm xưa," Trần Bảo Định tả lại một câu chuyện đơn giản nhưng mang ý nghĩa sâu sắc. Đó là câu chuyện về sự hối hận và sự hiểu biết về giá trị của cuộc sống. Tác phẩm này nhấn mạnh sự quan trọng của tình mẫu tử và lời dạy của người má, người đã cứu một con chim thằng chài khỏi sự nguy hiểm và đã đánh thức lòng tử tế trong nhân vật chính.

Nhân vật chính chia sẻ câu chuyện từ tuổi thơ, khi anh cùng bạn bè bắn trúng một con chim thằng chài. Tuy rằng đó chỉ là một con chim bói cá đơn giản, nhưng câu chuyện này thể hiện sự cảm thông và hiểu biết về cuộc sống tự nhiên. Một loài chim đơn giản có thể đánh thức tình cảm và ý nghĩa tương tác giữa con người và thiên nhiên. Đây là sự hiểu biết rằng con người không nên gây hại đối với thiên nhiên và loài vật xung quanh, mà nên thể hiện lòng nhân ái và tử tế.

Mặc dù sự việc xảy ra đã lâu, nhân vật chính vẫn mang trong lòng sự hối hận và day dứt về việc đã làm mất đi một phần của cuộc sống của con chim. Câu hỏi của người má, "Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?" đặt ra cho nhân vật chính là một lời nhắc nhở về tình cảm và trách nhiệm của mỗi người đối với tự nhiên. Sự hiểu biết và học hỏi từ sai lầm của tuổi thơ được thể hiện qua việc nhân vật chính bất quyết cứu sống con chim thằng chài, chăm sóc và trị thương nó.

Tác phẩm "Lời má năm xưa" là một câu chuyện đẹp về tình cảm gia đình, sự hiểu biết về tự nhiên và loài vật, và sự hối hận về việc đã gây tổn thương đối với cuộc sống xung quanh. Nó là một lời nhắc nhở cho chúng ta về tầm quan trọng của việc đối xử với môi trường và loài vật một cách tử tế và trách nhiệm.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 18

Đối với tôi văn chương đã cống hiến cho cuộc đời này rất nhiều mẩu chuyện ý nghĩa và đẹp đẽ về con người về cuộc sống. Và khi nhắc tới nhà văn Trần Bảo Định ta không thể không kể tới đoạn trích Lời má năm xưa. Cho đến nay, với những câu từ tràn đầy ý nghĩa, tác phẩm ấy để lại sự lắng đọng, nỗi vấn vương trong lòng biết bao độc giả

Lời má năm xưa là một tác phẩm có cốt truyện đơn giản. Là một văn bản đầy ý nghĩa đó là những lời dạy bảo của người mẹ, đồng thời là nỗi ân hận day dứt không nguôi của tác giả từ ngày ấy cho tới tận bây giờ.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu những câu hò thân thương nơi quê hương yêu quý của mình: Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :

“Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
Em cho anh hay anh hãy tránh xa
Mẹ cha không thể chịu hòa
Em đâu dám cãi để mà theo anh”

Có thể thấy đây là những câu hò dân ca, thể hiện tình yêu của đôi lứa. “Chim thằng chài” hay có tên gọi khác là chim bói cá, chúng thường hay lao đầu xuống hoặc bay phía trên trên mặt nước nhằm bắt những con mồi. Nhưng với tập tính săn bắt ấy, thì loài chim này thường rất dễ bị mắc bẫy, đã được tác giả thể hiện rõ qua câu hò trên “Chim thằng chài có ngày mắc bẫy”. Nhưng “em” đã có lời nhắc nhở rằng anh hãy tránh xa, chớ sa vào bẫy của kẻ thù. Người con gái vì mẹ cha không cho phép nên chẳng dám theo chàng bỏ đi. Những câu ca dao ấy vang vừa thấm đậm thứ tình tình yêu đôi lứa vừa xen kẽ thêm tình cảm gia đình.

Qua những câu văn, tác giả đã phần nào giúp chúng ta hiểu thêm về đặc điểm và cách sinh tồn của loài chim bói cá. Từ nhỏ chúng đã phải sống tự lập, tự thích nghi với môi trường, chẳng có mẹ chăm sóc, nên khi lớn lên chúng kết giao với đồng loại của mình và cùng sinh sống, bảo vệ cho nhau. Tuy là loài vật, nhưng chúng cũng có lòng thương người, thương đồng loại, sẵn sàng nhường mồi cho bạn tình hoặc những chú chim thiếu cái ăn và hơn hết chùng còn nhường mặt nước đầy tôm cá cho kẻ chài ốm yếu bệnh tật. Khi chúng ta đọc đến đây độc giả không khỏi xúc động và phải thán phục trước sự mạnh mẽ, tự lập cũng như tấm lòng nhân hậu của loài chim này.

Theo thời gian quay ngược về thời thơ ấu, tác giả đã ngậm ngùi mà chia sẻ lại câu chuyện cũ với biết bao niềm bâng khuâng, xúc cảm. Khi còn nhỏ, ông thường cùng với tụi bạn thường lấy những viên đạn được tạo nên bằng đất sắt rồi bắn vào những chú chim bói cá, con nào may mắn thì chỉ bị thương còn không bay kịp thì chết. Khi nghĩ về về quá khứ, tác giả không khỏi hối hận, và ray rứt khi bản thân từng hại một loài chim sống tình cảm như thế.

Và khi thấy con mình mắc sai lầm như vậy, má đã hỏi một câu khiến tác giả được thức tỉnh: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” Chỉ một câu hỏi đơn giản ấy, người con đã nhận ra hành động sai trái của mình. Sau đó má đã bắt tác giả ra sông, vớt thằng chài mình vừa bắn, mang lên bờ và chăm sóc nó. Ông mang chú chim nhỏ về nhà, rồi trị thương cho nó. Cá chính là món ăn mà nó thích nhất, thứ mà nó mạo hiểm đi săn bắt mỗi ngày, nhưng giờ đây khi ông đút cho nó lại chẳng ăn. Phải chăng giờ phút này nó như đang thể hiện sự giận dỗi đối với nhân vật tôi. Điều đó đã làm cho nhân vật tôi bối rối và hối hận về hành động của bản thân, giá như khi ấy mình chẳng bắn nó, thì giờ đây chú chim nhỏ thầy đã được thoải mái, tự do bay lượn ngoài kia. Qua đó độc giả có thể nhận thấy sự “quay đầu” của nhân vật tôi- một đứa trẻ nghịch ngợm, nhờ lời dạy dỗ của mẹ, một sinh mệnh nhỏ đã được cứu chữa kịp thời.

Tuy vết thương đã lành, nhưng thằng chài rất yếu, người ốm nhom, nó không còn đủ sức để bay lượn nữa. Thấy vậy tác giả đã đem thằng chài ra gốc mận gần cầu nước, ở đây, nó gặp được đồng loại, gặp được những người bạn cũ của mình, nó được những thằng chài khác bu xung quanh và đút mồi cho, có lẽ vì quá vui sướng mà hạnh phúc nên nó ăn rất ngon lành khiến cho tác giả đứng nhìn cũng phải thèm theo.Qua chi tiết này, một lần nữa lại đã gợi cho chúng ta thấy một lối sống tình cảm, đoàn kết gắn bó, keo sơn đùm bọc của những chú chim bói cá da diết, mãnh liệt đến nhường nào. Tuy chỉ là chim nhưng chúng lại sống rất tình cảm.

Quay trở về với thực tại, câu chuyện cũ kia đã xảy ra từ bảy mươi năm trước, nhưng giờ đây khi nhắc lại trong lòng vẫn cảm thấy hối hận, bối rối biết bao. Và đặt câu hỏi của má mới là thứ làm ông nhớ nhất “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”.Câu hỏi hỏi này được lặp lại hai lần trong văn bản, vừa góp phần làm nổi bật nhan đề và chủ đề của tác phẩm đồng thời cũng nhấn mạnh sự hối hận da diết, mà nỗi nhớ khôn nguôi về lời má dạy bảo. Người má muốn dạy cho con mình biết cách thấu hiểu, yêu thương và trân trọng các loài vật.

Bằng những từ ngữ, câu văn bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc kết hợp cùng thủ pháp liệt kê, tác phẩm mang bao ý nghĩa là bài học đầy nhân văn mà nhà văn muốn truyền tải tới các bạn đọc: hãy biết yêu quý, trân trọng và bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ các loài động vật. Bới chúng cũng có cảm xúc, cũng biết đau, biết buồn, đừng làm gì tổn hại đến chúng vì có thể sau này khi nhìn lại chúng ta sẽ chìm trong những cảm xúc ray rứt và hối hận.

Tác phẩm Lời má dặn đã để lại trong lòng bạn độc ấn tượng rất sâu nặng, văn bản này đã thành công vượt lên giới hạn của thời gian và không gian để trường tồn và đọng sâu mãi trong lòng độc giả.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 19

Nhắc đến những câu chuyện ngụ ngôn nước ngoài, ta không thể bỏ qua truyện Con cáo và chùm nho của nhà văn nổi tiếng Hy Lạp Aesop (Aisōpos, khoảng năm 620-564 trước CN). Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện ngụ ngôn nước ngoài hay và đặc sắc về chủ đề cùng những hình thức nghệ thuật xuất sắc.

Truyện kể về con cáo vào một hôm xuống triền núi và thấy phía trước là một vườn nho căng tròn mọng nước khiến anh ta thèm thuồng tới mức nước bọt cứ trào ra. Vì thế, cáo đã tìm mọi cách để có thể chén được no nê những chùm nho đó. Nhưng thật không may mắn, từ cây cao đến cây thấp, cáo vẫn không thể nhảy đến chùm nho. Thậm chí, chùm thấp nhất khiến Cáo tự đắc rằng không gì có thể làm khó được nó cũng thất bại. Sau một hồi cố gắng, Cáo đành thở dài và cho rằng những chùm nho vỏ xanh kia chắc là chưa chín, vừa chua vừa chát, không ăn được. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.

Đọc Con cáo và chùm nho của nhà văn Hy Lạp Aesop, ta có thể dễ dàng nhìn ra rằng giá trị của truyện trước hết thể hiện qua chủ đề và bài học cuộc sống mà nó gửi gắm. Hình ảnh con cáo đã được tác giả hình tượng hóa để đề cập đến vấn đề về sự biện hộ và tự cao của cá nhân. Điều mà câu chuyện muốn cảnh tỉnh là đừng quá đề cao bản thân, mình phải tự biết khả năng của mình đang nằm ở vị trí hay con số nào; khi sai lầm hoặc thất bại, hãy tự biết nhận lỗi, rút ra bài học cho bản thân và đừng bao giờ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Bản chất là một truyện ngụ ngôn, Con cáo và chùm nho đã mượn câu chuyện về con vật để ám chỉ về lối sống của con người. Chủ đề của truyện mang tính chất khái quát bởi không chỉ đúng trong đất nước hay con người Hy Lạp – nơi nó được sinh ra, mà đó là lời nhắn nhủ, cảnh tỉnh dành cho tất cả mọi người. Chúng ta đừng như con cáo kia, đừng cho mình là nhất bởi ngoài kia còn rất nhiều người giỏi hơn và khi thất bại cũng đừng đổ lỗi cho bất kì ai, bất kì điều gì; hãy phát huy điểm mạnh bạn đang có, khắc phục điểm yếu, từ thất bại rút ra những bài học kinh nghiệm để vươn tới thành công.

Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong Con cáo và chùm nho thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.

Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Thông thường, khi muốn thể hiện lối ứng xử, tính cách của nhân vật, tác giả truyện ngụ ngôn sẽ đặt nhân vật của mình vào những tình huống nhất định. Con cáo và chùm nho cũng không ngoại lệ, Aesop đã xây dựng tình huống về cuộc gặp gỡ giữa con cáo với những chùm nho căng mọng nước trong vườn và cách xử lí của nó để có được một bữa ăn no nê. Tình huống tuy khá đơn giản nhưng qua đó người đọc thấy được cách ứng xử của con cáo khi gặp khó khăn và chủ đề mà người kể chuyện muốn nói đến ở đầu truyện càng được làm sáng rõ.

Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng là một thủ pháp nghệ thuật khá quan trọng trong thể loại truyện ngụ ngôn. Cáo là biểu trưng cho những người luôn cho mình là nhất, mình luôn đúng trong mọi chuyện, nếu sai thì cũng chỉ do hoàn cảnh tác động, không dám chấp nhận sự thật về sự thất bại của bản thân. Chùm nho tượng trưng cho những yếu tố ngoại cảnh. Trong truyện, con cáo không với tới chùm nho nên đã tự nhủ nho còn xanh, chua và chát để biện hộ cho việc không hái được nho của mình, tức là do tác động của ngoại cảnh chứ không phải mình vô dụng.

Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua lời thoại. Trong Con cáo và chùm nho, tác giả đã để nhân vật tự độc thoại với chính mình và tính cách sẽ được bộc lộ qua từng câu chữ, lời nói đó. Khi thấy những chùm nho khác thấp hơn, Cáo đã tự đắc không có gì làm khó được mình nhưng kết quả vẫn là sự thất bại. Sau nhiều lần cố gắng, Cáo đã buông xuôi và nói: “Làm sao mình lại cứ phải ăn mấy chùm nho như này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa chín rồi. Không biết chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được”. Từ đó ta thấy được Cáo là một người luôn tự đắc và chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh. Chính những lời độc thoại đó càng làm nổi bật nhân cách, điểm mạnh, điểm yếu của nhân vật.

Những phân tích ở trên đây cho thấy Con cáo và chùm nho là một truyện ngụ ngôn tiêu biểu trong kho tàng các sáng tác truyện của Aesop. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống thắng lợi tinh thần. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, lời thoại để nhân vật bộc lộ rõ nhất tính cách của mình để qua đó các bài học nhân sinh được lột tả.

Đọc câu chuyện này, dường như em cảm thấy có đôi lúc em cũng giống như con cáo kia và bây giờ mình cần phải thay đổi để xóa bỏ tính cách không tốt đó.

Nghị luận phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm - Mẫu 20

Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.

Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.

Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.

Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.

Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trở gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí. Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố kì ảo và sự bền bỉ với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích, nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhám ca ngơi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của khởi nghĩa Lam Sơn Tên họ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.

 

Đánh giá

0

0 đánh giá