TOP 20 bài Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) 2024 SIÊU HAY

1.2 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch)

Đề bài: Viết bài văn nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch)

TOP 20 bài Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 1

Viết bài văn phân tích vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”

Lưu Quang Vũ là một tài năng đa tài của nền nghệ thuật Việt Nam từ các thế kỉ trước. Bằng tài năng của mình ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay và ý nghĩa như Tôi và chúng ta; Sống mãi tuổi 17; Nàng Sita; Ngọc Hân công chúa,... Trong đó, Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xem là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch chính là một bài ca về vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo, dung tục và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được Lưu Quang Vũ viết vào năm 1981, công diễn lần đầu năm 1984 và nhiều lần trên sân khấu cả trong và ngoài nước.Vở kịch được gợi dẫn từ một cốt truyện dân gian, thực chất là sự cải biên một truyện cười dân gian. Trong khi tác giả dân gian chỉ tạo ra một tình huống oái oăm nhằm gây tiếng cười phê phán thì Lưu Quang Vũ đã biến nó thành một tấn bi kịch – bi kịch tâm lí. Đoạn trích phân tích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

Đến cảnh VII của vở kịch thì xung đột giữa hồn và xác đã được đẩy lên đỉnh điểm, nút thắt được siết chặt đến cao độ và cũng là lúc ta thấu hiểu tấn bi kịch mang tên: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Đầu tiên là bi kịch sống nhờ, sống gửi, tồn tại trái với lẽ tự nhiên của hồn Trương Ba. Bi kịch ấy được thể hiện rõ qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba đã tách khỏi xác anh hàng thịt, còn “thân xác bằng thịt vẫn ngồi nguyên trên chõng và lúc này chỉ còn là thân xác”. Hồn Trương Ba nhân hậu, trong sáng và thanh cao lại đặt trong thân xác của một anh hàng thịt phàm tục, thô lỗ, đầy sức mạnh bản năng tục tằn. Lúc nào hắn cũng chỉ nghĩ đến mấy “cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…”. “Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi”…

Cuộc tranh luận giữa hồn và xác diễn ra quyết liệt. Dường như có những lúc tiếng nói của xác thịt lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế bị động và một mực phủ nhận lí lẽ của xác anh hàng thịt “lí lẽ của anh thật ti tiện”. Chỉ còn biết ngao ngán thở dài một tiếng “Trời!”. Qua đó, ta thấy rằng hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ tột cùng. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải của linh hồn đã nói nói lên điều đó. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt chính là ẩn dụ về cuộc đấu tranh giữa tâm hồn và thân xác trong một con người. Đó là tiếng nói của bản năng và những tác động ghê gớm của nó vào linh hồn. Mặc dầu cho linh hồn luôn đấu tranh để vượt lên những đòi hỏi không chính đáng của thể xác nhưng khó mà tránh khỏi những tác động đó. Hồn Trương Ba có những dấu hiệu của sự tha hóa: trở nên thô lỗ tát con đến chảy máu mồm, thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…

Tiếp đó là bi kịch bị chối bỏ bởi những người xung quanh được thể hiện tập trung qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân. Tình trạng tồn tại bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo của Hồn Trương Ba khiến cho vợ ông đau khổ tới mức định bỏ nhà ra đi dù bà là người hiền lành, cam chịu. Cái Gái quyết liệt không chịu nhận ông nội “Tôi không phải là cháu ông…Ông nội tôi chết rồi”, “Ông nội đời nào thô lỗ và phũ phàng như vậy”, “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi”. Nó tố cáo Hồn Trương Ba làm gãy cây trong vườn, dẫm nát cây sâm quý của ông nội đã mất và còn làm hỏng mất cái diều của thằng cu Tị… Mặc dù cái Gái là đứa cháu rất yêu thương ông nội, đêm nào nó cũng khóc thương ông, nâng niu cất giữ từng chút kỷ niệm của ông. Nhưng nó vẫn chỉ là một đứa trẻ nhỏ, tâm hồn ngây thơ, trong sáng, thánh thiện không thể chấp nhận sự thô lỗ, tầm thường của linh hồn ông nội trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt. Có lẽ người thấu hiểu và thương Trương Ba nhất nhà lại là chị con dâu, nhưng trước tình cảnh đó chị cũng phải nói rằng: “mỗi ngày thầy một đổi khác đi, mất mát dần”. Càng thương bố chồng, người con dâu ấy càng đau khổ, tuyệt vọng trong câu hỏi “làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”. Than ôi! Còn gì đau đớn và hổ thẹn hơn khi mà bị chính những người thân của ta ruồng bỏ… Có lẽ đó là bi kịch dằn vặt nhất đối với Trương Ba của hiện tại.

Bi kịch lại nối tiếp những bi kịch khi Đế Thích khuyên Trương chấp nhận vì thế giới không toàn vẹn, thể hiện cái nhìn quan liêu, hời hợt về cuộc sống con người. Và đó chính là bi kịch sửa sai càng thêm sai. Trương Ba bị chết oan uổng vì “một lầm lẫn của quan thiên đình”. Để sửa sai thì Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống trong thân xác của anh hàng thịt. Tồn tại ở tình trạng trái với tự nhiên một thời đã khiến hồn Trương Ba nhận ra rằng “có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm”. Chỉ có cách là cố gắng đừng sai mà thôi. Nếu lỡ sai rồi thì hãy làm một việc đúng khác để bù lại. Khi Trương Ba kiên quyết đòi trả xác cho anh hàng thịt, Đế Thích định cho hồn ông nhập vào cu Tị. Bằng sự quyết liệt của mình, Hồn Trương Ba đã không chấp nhận mà chỉ xin tiên Đế Thích trả lại cuộc sống cho cu Tị – một cậu bé ngoan ngoãn, đáng yêu, rất thân thiết với ông và cái Gái hồi ông còn sống. Có lẽ chính sự lựa chọn đó mới làm cho linh hồn của Trương Ba thanh thản. Ông nhận ra rằng con người là một thể thống nhất, hồn xác phải hài hòa đồng thuận. Sống phải là chính mình. Sự bất tử của con người nằm trong ý nghĩa sự sống và sự hóa thân vào cuộc sống xung quanh.

Khép lại vở kịch, Trương Ba đã chấp nhận cái chết để không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nữa. Đây là một kết cục đầy bi kịch chứ không phải kết thúc có hậu như trong cốt truyện dân gian trước đó. Nhưng đó lại là cái kết của sự chiến thắng cái ác, cái xấu và của những điều tốt đẹp, bản lĩnh. Vở kịch được đánh giá là một vở “bi kịch lạc quan” bởi tuy rằng Trương Ba không còn tiếp tục được sống nhưng những giá trị đích thực của cuộc sống được bảo toàn. Không còn trên cõi trần nhưng Trương Ba sẽ còn sống mãi trong lòng người thân, bạn bè và với tất cả những gì tốt đẹp nhất.

Dưới ngòi bút của nhà viết kịch điêu luyện Lưu Quang Vũ những bi kịch của hồn Trương Ba trong đoạn trích được thể hiện một cách sinh động, đầy kịch tính thông qua những màn đối thoại, xung đột. Sự hấp dẫn của kịch bản cùng với nghệ thuật tạo dựng tình huống độc đáo, xây dựng và dẫn dắt xung đột kịch hợp lí và nghệ thuật dựng hành động kịch sinh động góp phần đem đến sự thành công cho tác phẩm. Đặc biệt, vở kịch được tạo nên bởi yếu tố huyền thoại, nghĩa là không có thực. Qua đó nhà văn đã làm sáng tỏ một hiện thực: Trong xã hội cũ, tình trạng con người không làm chủ được bản thân mình, không được sống như mình mong muốn không phải là hiếm. Hàng loạt nhân vật của Nam Cao cũng rơi vào tình trạng bi kịch như thế như: Chí Phèo, Bà cái Tí, anh cu Lộ…

Nằm ở phần kết của vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, đoạn trích thể hiện rõ tài năng của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên rất nhiều phương diện như: sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống, hay tiếng nói phê phán gay gắt, quyết liệt những hiện thực trong xã hội cũ… Vở kịch nói chung và đoạn trích nói riêng đã đem đến cho ta những bài học quý giá: Được sinh ra trên đời là một hạnh phúc, nhưng sẽ hạnh phúc hơn khi ta được sống là chính mình, sống một cách trọn vẹn với những giá trị vốn có và sẽ mãi theo đuổi nó đến cùng.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 2

Lưu Quang Vũ là một trong những nhà văn, nhà biên kịch có ảnh hưởng lớn trong lịch sử văn học và nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Ông được biết đến với sự đa tài, từ việc viết kịch bản, sáng tác văn học đến việc làm đạo diễn. Các tác phẩm của ông không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn chứa đựng những thông điệp sâu sắc về con người và xã hội.

"Hồn Trương Ba, da hàng thịt" được viết vào năm 1981 và công diễn lần đầu vào năm 1984. Vở kịch này được coi là một kiệt tác trong nghệ thuật sân khấu Việt Nam, không chỉ vì cốt truyện gốc từ một truyện cười dân gian mà còn vì cách Lưu Quang Vũ đã biến nó thành một tác phẩm bi kịch tâm lý sâu sắc.

Trong cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, Lưu Quang Vũ tập trung vào việc phân tích sâu sắc tâm lý con người, đặc biệt là tâm trạng của nhân vật chính - Trương Ba. Thay vì chỉ tập trung vào phần kết cục hạnh phúc hoặc bi thương của câu chuyện, ông đưa ra những tình huống phức tạp, đầy rẫy sự đau khổ và khổ đau trong lòng nhân vật. Bằng cách này, ông tạo ra một bức tranh đa chiều về cuộc sống và con người.

Những tác phẩm của Lưu Quang Vũ như "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật mà còn là những bức tranh đời thực, giúp cho người đọc và người xem hiểu sâu hơn về bản chất của con người và xã hội.

Trong cảnh VII của vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt", xung đột giữa hồn và xác đạt đến điểm cao nhất, tạo ra một bức tranh đau đớn về sự phân liệt và mất mát bản chất của con người.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác của anh hàng thịt là điểm nhấn của tấn bi kịch này. Trong đó, hồn Trương Ba được miêu tả là nhân hậu, trong sáng và thanh cao, đối lập hoàn toàn với bản chất thô lỗ, phàm tục của thân xác anh hàng thịt. Trương Ba tìm thấy sự chán ghét và lạc lõng trong cơ thể phàm trần, không còn cảm thấy thuộc về chỗ ở của mình. Thôn tính về món ăn phàm trần như "tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi" chỉ là minh chứng cho việc thân xác vẫn bị ràng buộc bởi những ham muốn và nhu cầu vật chất. Trong khi đó, hồn Trương Ba thì khao khát được tự do, muốn trở về với bản nguyên của mình, xa lánh sự trần tục và giả dối. Tình huống này là một tác phẩm bi kịch đích thực, khi mà sự xung đột giữa bản nguyên và sự hiện thực, giữa tinh thần và vật chất, đạt đến đỉnh điểm của nó, tạo ra một cảm giác bất an và đau đớn đối với người xem. Đây là phần mà Lưu Quang Vũ vẽ nên một cách tinh tế, đầy sâu sắc, đánh thức sự nhân văn và triết học trong lòng người xem.

Cuộc tranh luận giữa hồn và xác trong vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" diễn ra một cách quyết liệt, tạo ra một bức tranh đầy cảm xúc về cuộc đấu tranh giữa tâm hồn và thân xác trong con người. Trong màn đối thoại này, tiếng nói của xác thịt thường xuyên lấn át tiếng nói của linh hồn, đẩy hồn Trương Ba vào thế bị động và phải đối mặt với sự phủ nhận và ti tiện từ phía thân xác. Sự ngao ngán và thở dài của linh hồn là biểu hiện của tâm trạng bức bối và đau khổ tột cùng. Những cảm thán ngắn gọn và ước nguyện khắc khoải của hồn Trương Ba thể hiện sự khao khát vượt qua những yếu kém và tầm thường của thân xác. Màn đối thoại này không chỉ là sự đấu tranh giữa tâm hồn và thân xác mà còn là một ẩn dụ về cuộc đấu tranh giữa những giá trị cao quý và những ham muốn vật chất, giữa cái đẹp và cái xấu trong con người. Hồn Trương Ba, mặc dù luôn cố gắng vượt lên những yếu kém của thân xác, nhưng không thể tránh khỏi những tác động đau đớn và cuốn hút của bản năng thô lỗ, phàm tục. Điều này thể hiện qua những dấu hiệu của sự tha hóa trong hành vi của hồn Trương Ba, như việc trở nên thô lỗ và thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, đồng thời cũng là sự thể hiện của một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa cái tốt và cái xấu trong con người.

Bi kịch trong vở kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" không chỉ là cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật chính mà còn là sự phản đối, chối bỏ từ phía những người xung quanh, tạo ra một tình huống đau đớn và cảm xúc đầy sâu sắc.

Trong màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân, tình trạng tồn tại song song của bản nguyên và sự hiện thực bên ngoài thể hiện sự bất đồng và mất mát của linh hồn. Vợ của Trương Ba đau khổ và muốn rời bỏ gia đình dù là một người hiền lành và cam chịu. Con cháu của ông cũng từ chối ông, gọi ông là "ông xấu lắm, ác lắm" và tố cáo những hành động tệ hại của ông. Mặc dù họ có tình yêu thương và những kỷ niệm tốt về Trương Ba, nhưng họ không thể chấp nhận sự thô lỗ và tầm thường của ông trong thân xác anh hàng thịt.

Chỉ có chị con dâu có thể hiểu và thương Trương Ba nhất, nhưng trước tình hình đó, chị cũng phải thừa nhận sự mất mát dần đi của ông. Sự tuyệt vọng và đau khổ của họ được thể hiện qua câu hỏi "làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia".

Đây là một phần của bi kịch đặc biệt đau đớn, khi mà người thân ruồng bỏ và từ chối nhân vật chính, làm cho sự đau đớn và tuyệt vọng trong lòng họ càng trở nên sâu sắc hơn. Đây cũng là một khía cạnh của cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa tinh thần và vật chất, cái đẹp và cái xấu trong con người.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 3

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng ở Việt Nam với một khối lượng tác phẩm và giá trị văn học phong phú. Triết lí sống và quan điểm sáng tác của ông là viết văn để bày tỏ lòng yêu nước: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”. Một trong những tác phẩm đặc sắc của ông không thể không kể đến vở kịch nổi tiếng “Vũ Như Tô”. Đoạn trích “Vĩnh

Biệt Cửu Trùng Đài” đã thể hiện rất sâu sắc quan niệm nghệ thuật của ông.

Vở kịch “Vũ Như Tô” gồm 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517. Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941, tựa đề vào tháng 6 năm 1942. Vở kịch kể về Vũ Như Tô - một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Tuy nhiên, là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết. Nhưng Đan Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài. Việc Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu cũng đồng nghĩa với việc lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi dụng tình thế đó, quận công Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn triều đình. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là bức tranh tiếp nối các sự kiện cao trào ấy.

Thể loại kịch đã không còn xa lạ với kho tàng văn chương Việt Nam. Đây là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, có sự kết hợp ăn ý của nhiều ngành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, sân khấu điện ảnh,.... Và mâu thuẫn xung đột kịch được coi là yếu tố “linh hồn” của mỗi vở kịch, một yếu tố quan trọng góp phần khắc họa nhân vật và xây dựng cốt truyện.

Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được mâu thuẫn trực tiếp cho văn bản, được thể hiện ở cuộc nổi dậy của binh lính và nhân dân chống lại triều đình. Đó là mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của Lê Tương Dực với đời sống cơ cực thống khổ của nhân dân lao động. Những mâu thuẫn ấy đã có từ trước đấy, đè nén cuộc sống cực khổ của của người dân, nhưng đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài thì nó lại càng trở nên căng thẳng hơn. Để xây dựng cửu Trùng Đài, triều đình đã tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối, thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát. Người dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt, còn Vũ Như Tô bị thợ thuyền oán trách do nhiều người chết vì tai nạn hay chết vì bị chém đầu do chạy trốn. Khi ấy, Trịnh Duy Sản cũng đã can ngăn Lê Tương Dực, đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô nhưng không thành mà còn bị đánh đòn.

Mâu thuẫn thứ hai được tác giả xây dựng là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân thể hiện ở mục đích xây dựng Cửu trùng đài của Vũ Như Tô và của triều đình Lê Tương Dực.

Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài năng, có khả năng "tranh tinh xảo với hóa công" nhưng ông không có đất dụng võ trong một xã hội thối nát, trong khi nhân dân còn đói khổ lầm than. Nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, Vũ Như đã Tô mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão xây dựng một công trình nguy nga, vĩ đại. Nhưng niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo chân thành đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân, bị những người thợ coi như kẻ thù.

Nguyễn Huy Tưởng đã mở đầu tác phẩm bằng cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô. Đan Thiềm đã thốt lên tiếng kêu hoảng hốt và khuyên Vũ Như Tô mau chạy trốn. Cung nữ Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu vào cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn đầy chân thành, tha thiết: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được”. Tất cả hành động của nàng đều chứng tỏ cô là một người quý trọng người tài, biết lo trước lo sau cho tài năng đất nước. Cô cầu xin, van nài, chắp tay lạy ông và khẳng định rằng: “Ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa”

Tình thế biến loạn ở kinh thành rất nguy hiểm và gay gắt nhưng ông lại nhất quyết không trốn và cho rằng: “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả ở đây, thì tôi chạy đi đâu?”. Cửu Trùng Đài là một thứ vô cùng quý giá đối với Vũ Như Tô, ông coi nó như là cả phần linh hồn và thể xác mà mình cùng với Đan Thiềm đã gây dựng nên. Tuy nhiên, nó cũng đã khiến ông mù quáng và mê hoặc đến mức không thể thoát ra khỏi ảo tưởng của mình để trở về tình thế thực tại. Ông tin rằng mình không có tội, vẫn cố cãi lý với đời: “Có lý gì để họ giết tôi?”, đứng trước quân khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người: “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỷ”. Lúc này, Vũ Như Tô đang đứng trên lập trường người nghệ sĩ mà vô tình bác bỏ lập trường của nhân dân. Ông không nghĩ mình bị nhân dân oán hận, căm ghét, ông vẫn nghĩ rằng Cửu Trùng Đài chẳng phải đang tô điểm cho đất nước đây sao?

Đến khi kinh thành bốc hỏa theo lệnh của An Hòa Hầu, Vũ Như Tô đã rơi vào tuyệt vọng khi tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì?”. Ông gào lên đầu đau đớn, đỉnh điểm sự tuyệt vọng và bất lực. Nhưng đến khi chết, ông vẫn không hiểu tại vì sao lại ra nông nỗi này: “Ta tội gì? Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài!”. Ông là một tài năng, một thiên tài có khát vọng hoài bão đem đến cái đẹp cho dân, nhưng chính vì không giải quyết được mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống nên ông đã phải trả một cái giá rất đắt. Mâu thuẫn đối lập ngay trong chính con người Vũ Như Tô.

Việc đưa ra hai mâu thuẫn trong vở kịch này, liệu đã thực sự được Nguyễn Huy Tưởng giải quyết?

Về mâu thuẫn giữa cuộc nổi dậy của binh lính và nhân dân chống lại triều đình đã được giải quyết một cách dứt khoát bằng cảnh quân nổi loạn đốt Cửu Trùng Đài và giết vua. Nhưng mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô vẫn chưa được giải quyết. Trong lời tựa đề vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng có viết: "Than ôi! Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Qua lời tựa ấy, Nguyễn Huy Tưởng đã bộc lộ chân thành những băn khoăn của mình: “Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô?”. Việc Vũ Như Tô có tội hay có công, cõ lẽ tác giả cũng không thể đưa ra một lời giải đáp thỏa đáng cho độc giả.

Bằng tài năng và cây bút tài hoa, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với hàng loạt hành động kịch dồn dập, kịch tính. Ông cũng sử dụng ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Từ đó, ông đã xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động. Tiêu biểu là Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy cao siêu muôn đời với lợi ích thiết thực của nhân dân. Thật đúng như Grandi từng khẳng định: “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Đây chính là một bài học đắt giá về nghệ thuật dành cho những người nghệ sĩ.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 4

Đoạn trích “Đổi tên cho xã” của tác giả Lưu Quang Vũ đã cho người đọc thấy được tác hại của bệnh sĩ diện và ảnh hưởng của nó đến cộng đồng, xã hội chỉ thông qua sự việc đổi tên của xã Hùng Tâm.

Xã Hùng Tâm mở cuộc họp thông báo những đổi mới của xã Hùng Tâm từ tên xã đến chức vụ của một số người. Nhân vật ông Chủ tịch xã Toàn Nha tiêu biểu cho kiểu người thích sống giả dối trong xã hội. Ông Nha là một người sống giả dối và tham vọng một cách mù quáng. Ông mong ước xây dựng và phát triển một xã khoa học để ông vẻ vang với các xã khác và với cấp trên. Ông tìm hiểu những nơi khác nhưng chỉ tìm hiểu một cách hời hợt, chưa có sự phân tích tình hình thực tế của xã mình đã vội vàng đổi mới. Ông muốn phát triển kinh tế nhưng lại vứt bỏ những thứ vốn là cần câu cơm của người dân nơi đây. Ông nói những từ ngữ khoa chương, lố bịch như " Bây giờ làm ăn mới rồi, quy mô khoa học... Đâu muốn hoạn phải mang lợn đến tận trụ sở". Ông nói rất cao siêu nhưng thực tế thì phũ phàng bởi những lời ông nói chỉ là sáo rỗng, ông phong chức một cách tràn lan nhưng thực tế thì chẳng ra đâu vào đâu, chính những người giữ chức đó còn chẳng hiểu mình sẽ làm gì.

Nhân vật trong đoạn trích có sự không tương xứng giữa thực chất bên trong và hình thức bên ngoài, giữa suy nghĩ và hành động khiến việc làm trở nên lố bịch hài hước. Ví dụ: Ông Đốp một tên hoạn lợn lại được phong cho làm chức Chủ nhiệm Trung tâm Triệt sản gia súc xã Hùng Tâm; Ông Thình vốn là đội trưởng đội làm những nghề phụ của xã lại được phong làm Chủ nhiệm Trung tâm Công nghệ...

Ngôn ngữ của ông không phù hợp với một cuộc họp mang tính chất trang nghiêm. Lời nói có nhiều từ ngữ không rõ nghĩa như: ta bung ra, ta bung ra pháo. Điều buồn cười nữa là ở chỗ ông muốn phát triển kinh tế nhưng những công việc vốn là lợi thế ở xã lại triệt để vứt bỏ, chuyển sang sản xuất pháo, thứ mà chính những người nhận nhiệm vụ quản lí cũng không hiểu rõ. Ông Nha càng cố nói những từ khoa học, thì càng lộ ra nhiều sự thiếu hiểu biết của mình như Trung tâm Công nghệ mà chỉ sản xuất có pháo.

Văn bản có sự mâu thuẫn giữa cái xấu và cái tốt. Ông Nha vẽ ra một viễn tưởng cao đẹp về một xã phát triển, giàu mạnh nhưng thực tế thì những gì ông làm đều chỉ đẩy người dân vào cái nghèo đói. Đó là sự tương phản giữa áo tưởng và thực tế. Kết quả là một loạt các chức danh mới được tạo ra nhưng không khoa học và rối loạn.

Văn bản Đổi tên cho xã đã nêu lên và phê phán một hiện tượng nhức nhối trong xã hội Việt Nam, đó là thích sĩ diện. Đoạn trích cũng sử dụng thủ pháp trào phúng, phóng đại. Ví dụ: Ông Nha vẽ lên những viễn tưởng cao đẹp về một xã phát triển khoa học, giàu mạnh những thực tế nhưng thực tế chỉ là những lời nói sáo rỗng, giả dối, lố bịch.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 5

Giữa thập kỉ tám mươi của thế kỉ XX, công chúng yêu kịch có dịp được thưởng thức những vở kịch nóng hổi tính thời sự của nhà thơ, nhà soạn kịch tài năng Lưu Quang Vũ. Những vấn đề của đất nước trong giai đoạn chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng đất nước đã được đề cập một cách khá cụ thể, có ý nghĩa khái quát trong vở kịch Tôi và chúng ta của tác giả. Vở kịch đã tạo nên một tiếng vang, gợi lên những suy ngẫm về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái bảo thủ lạc hậu và tư tưởng đổi mới táo bạo, khuyến khích cổ vũ cho những con người bằng khả năng và nhiệt tình quyết tâm thay đổi lề lối làm việc và tư duy cũ, để góp công sức cùng mọi người đưa đất nước đi lên.

Toàn bộ xung đột kịch xoay quanh lề lối làm ăn của một xí nghiệp nhà nước, gắn với hai tuyến nhân vật : một bên là giám đốc Hoàng Việt cùng người cộng sự là kĩ sư Lê Sơn – đại diện cho những người quyết tâm thay đổi tư duy cũ, tìm kiếm giải pháp cứu vãn xí nghiệp ; một bên là phó giám đốc Nguyễn Chính với tư duy cũ mòn, chạy theo thành tích, cố tìm cách củng cố địa vị và vây cánh cá nhân nhằm mưu đồ lợi ích riêng. Xung đột ấy đã tạo nên một cuộc đụng độ về quan điểm trong cuộc họp xí nghiệp, khi Hoàng Việt chính thức tuyên chiến với lề thói cũ, đổi mới phương thức sản xuất theo phương án của Lê Sơn.

Qua tình huống kịch tính này, tác giả Lưu Quang Vũ đã có những kiến giải khá táo bạo về mối quan hệ Tôi và chúng ta khác hẳn với suy nghĩ của nhiều người. Tôi và chúng ta, mối quan hệ riêng – chung ấy đặt vào hai phương diện quyền lợi và trách nhiệm thường tỉ lệ nghịch với nhau ở những kẻ cơ hội, bảo thủ. Vì thế cuộc đấu tranh diễn ra không hề đơn giản, vì chính những kẻ ấy thường nhân danh tập thể tạo áp lực cho những người muốn đổi mới tư duy, thay đổi lề lối cũ.

Đoạn trích cảnh ba của vở kịch tập hợp những nhân vật chính trong bối cảnh một cuộc họp. Kịch tính bắt đầu ngay sau lời tuyên bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí nghiệp của giám đốc Hoàng Việt mà người trực tiếp soạn thảo là kĩ sư Lê Sơn. Ngay cả người đề ra phương án cũng không nghĩ rằng nó được triển khai một cách nhanh chóng và dứt khoát như thế. Lê Sơn là người làm chuyên môn, anh hiểu rõ những lực cản không vì những lí do kĩ thuật mà lại bắt đầu từ phía những kẻ bảo thủ cơ hội quen nếp tư duy máy móc, phụ thuộc vào cấp trên.

Vì vậy, ban đầu Lê Sơn đã tỏ ra ngần ngại vì dẫu sao anh chưa bao giờ dám đứng ra đối mặt với cả một bộ máy với sự trì trệ kéo dài. Sự lo ngại của anh đã tạo ra tâm lí bất bình của anh em công nhân, bộc lộ trực tiếp trong cảnh “Mọi người ồn ào. Tiếng ông Quých : cậu ấy nhát !”. Bởi vậy, lương tâm của một kĩ sư giỏi đã khiến anh trình bày phương án làm động chạm đến những người như phó giám đốc Nguyễn Chính và bà Trưởng phòng Tài vụ. Nút thắt ban đầu đã được gỡ, nhưng những vướng mắc chính đến giờ mới thực sự bùng phát, qua cuộc đấu khẩu của Hoàng Việt và hai nhân vật bảo thủ điển hình kia.

Đoạn đối thoại xoay quanh những vấn đề quen thuộc của một xí nghiệp sản xuất : kế hoạch, nhân sự, tiền lương gắn với quy mô sản xuất mở rộng… Tính luận chiến trong những đối thoại cho thấy sự trái ngược quan điểm giữa hai phía đổi mới và bảo thủ. Bằng những câu hỏi liên tục, Hoàng Việt đã thể hiện bản lĩnh của một người dám đứng mũi chịu sào vì quyền lợi chung của tập thể. Với quyết tâm thực hiện mục tiêu tăng kế hoạch sản xuất ít nhất là gấp năm lần, anh đã vạch ra sự vô lí từ thái độ lúng túng của Nguyễn Chính : “cấp trên cao hơn lại dựa vào cấp trên cao hơn nữa, nghĩa là các kế hoạch được đề ra một cách ngược đời. Đáng lẽ phải do từ cơ sở đưa lên, dựa trên khả năng cơ sở và yêu cầu của thị trường”. Có thể nói, sự công kích của Hoàng Việt không nhắm vào cá nhân Nguyễn Chính, mà đó cũng là lời tuyên chiến với một cơ chế cũ kĩ đã ngự trị hàng chục năm trong các xí nghiệp Nhà nước.

Đối phó lại ý kiến giám đốc, Nguyễn Chính đã biện minh bằng kế hoạch hai, kế hoạch ba – mượn danh nghĩa vì lợi ích tập thể để đổ tội cho Hoàng Việt là con nguời cá nhân độc đoán khước từ quyền lợi anh em công nhân. Nhưng lời khẳng định của Hoàng Việt đã phủ nhận cách toan tính thực dụng, chỉ thấy lợi trước mắt mà biến xí nghiệp chính quy thành một nơi giải quyết đời sống công nhân theo kiểu nặng về tư lợi mà không đếm xỉa lợi ích chung cho xã hội, cộng đồng. Một xí nghiệp chính quy là cơ sở để ổn định cuộc sống lâu dài cho công nhân, đó là một suy nghĩ đúng đắn nên không ai phản đối. Những vuớng mắc về nhân lực và quỹ lương đã nhanh chóng được người giám đốc dũng cảm ấy nhanh chóng tháo gỡ bằng những giải pháp hợp lí hợp tình.

Những tưởng vướng mắc nhanh chóng được giải quyết bằng những mệnh lệnh của giám đốc nhưng phía bảo thủ – mà đại diện tiếp theo là bà Trưởng phòng Tài vụ – đã tìm cách ngăn cản bằng những nguyên tắc tài chính, bất chấp yêu cầu cần thiết phải có ngân sách chi cho máy móc để nâng cao năng lực sản xuất. Quyết liệt hơn, ngay cả khi có lệnh giám đốc, bà ta vẫn viện cớ : “Tôi phải làm đúng những quy định”. Với loại người ấy, Hoàng Việt đã tỏ thái độ dứt khoát, kiên quyết theo nguyên tắc thủ trưởng : “Nếu không thi hành, sẽ có người khác làm thay chị” , lời nói ấy không phải là sự độc đoán chuyên quyền, bởi lẽ không phải xuất phát từ động cơ cá nhân.

Tinh thần đổi mới triệt để được thể hiện với một ý chí tiến công vào những tiêu cực để biểu dương nhân tố mới cho ta thấy rõ phẩm chất của giám đốc Hoàng Việt. Không những thế, vấn đề quan tâm hàng đầu là đời sống công nhân đã được anh xử lí linh hoạt có lí có tình. Hoàng Việt đã thể hiện đúng phẩm chất của một người lãnh đạo đơn vị sản xuất, rất linh động và cũng rất dân chủ với những quyết định của mình. Với sự tỉnh táo và sáng suốt như thế, mọi mưu toan nhằm làm trì trệ tiến trình đổi mới sẽ thất bại và anh giành được sự tín nhiệm cao của quần chúng tiến bộ.

Tính triết lí của vở kịch không chỉ dừng lại trong sự đối chọi giữa cái tôi đại diện cho cái ta với những kẻ nhân danh chúng ta để thủ lợi cá nhân. Đó còn là xung đột gay gắt trên quan điểm tiến bộ và lạc hậu, đổi mới và bảo thủ, xử lí triệt để mối quan hệ cá nhân và tập thể, đem đến một cách hiểu đúng đắn về tôi và chúng ta. Đó là khi Nguyễn Chính cao giọng ngụy biện cho cơ chế quản lí đã cũ kĩ lạc hậu : “Cái cơ chế mà đồng chí mạt sát ấy đã tồn tại hàng chục năm nay. Nhờ nó mà chúng ta có hôm nay, có chủ nghĩa xã hội như ngày hôm nay, hạt gạo đồng chí ăn, cái áo đồng chí mặc và cả chính con người đồng chí nữa đã được rèn luyện và trưởng thành trong cơ chế ấy. Đừng vội vã phủ nhận !”. Quả thật là một sự ngụy biện tinh xảo, được nói lên bởi một người từng “đánh đổ bốn đời giám đốc”, bởi lẽ Nguyễn Chính đã dựa vào “chủ nghĩa xã hội” là mục đích của tất cả chúng ta.

Nhưng bản lĩnh và quyết tâm của người giám đốc dũng cảm Hoàng Việt đã giúp anh vượt qua lực cản ghê gớm của lời xảo ngôn như buộc tội để nói đúng tâm nguyện thật sự của chúng ta– những người mong muốn chủ nghĩa xã hội thực sự phát triển : “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ, mong anh thông cảm và hiểu cho tôi”. Một lần nữa, Hoàng Việt đã chứng tỏ một cáitôiđúng đắn, không rời xa những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, vừa khẳng định ý chí của tất cả chúng tavừa vạch trần sự ngụy biện của kẻ cơ hội như Nguyễn Chính.

Đặt vào bối cảnh những năm 80 của thế kỉ XX, suy nghĩ ấy quả là táo bạo, giống như hành động của chàng hiệp sĩ Đông Ki-sốt đánh nhau với cối xay gió. Nhưng Hoàng Việt không đơn độc, những quần chúng tích cực ủng hộ anh như bà Bộng ông Quých, ngay cả Lê Sơn dù không khỏi do dự trước tình thế căng thẳng cũng đứng về phía anh như một “kị mã Xan-sô, rất yêu và không thể thiếu được Đông Ki-sốt”. Dám đương đầu thử thách khó khăn, dù biết rằng các cối xay gió sẽ cho ăn đòn nhừ tử nhưng không lùi bước, đó là vẻ đẹp phẩm chất của những con người đi tới. Nhiệt tình của hoàng Việt là sức hấp dẫn và thuyết phục mọi người tin tưởng hành động.

Thực tế phát triển đất nước ta từ sau thời kì đổi mới đã chứng tỏ những điều đặt ra trong vở kịch của Lưu Quang Vũ là đúng đắn và thể hiện khả năng dự báo của một cây bút giàu tâm huyết với đất nước. Tôi và chúng ta,mỗi người và mọi người đang gắn bó cùng nhau hướng tới mục tiêu tốt đẹp để cải thiện đời sống từng người, từng gia đình và tạo đà phát triển cho toàn xã hội. Cuộc sống rất cần những con người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của tất cả chúng ta. Vở kịch không chỉ ca ngợi một cá nhân Hoàng Việt mà còn cổ vũ cả một tập thể đồng lòng chung sức đấu tranh chống lại các thế lực cố tình ngăn cản tiến trình công cuộc đổi mới .

Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, phấn đấu cho sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, thực hiện thắng lợi những mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội trên đất nước, càng cần những con người dũng cảm chính trực như vậy. Với ý nghĩa đó, vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ còn nguyên giá trị động viên cổ vũ cho những con người không ngần ngại cống hiến tâm huyết và sức lực cho đất nước.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 6

Kịch là một trong ba thể loại chính của nền văn học Việt Nam, nhắc đến kịch thì ngoài cái tên nổi tiếng như Lưu Quang Vũ thì ta còn biết đến cái tên Nguyễn Huy Tưởng. Đặc biệt Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là một nhà viết kịch mà còn là một nhà văn. Trong những tác phẩm kịch nổi tiếng của ông phải kể đến tác phẩm Vũ Như Tô được sáng tác vào năm 1941. Qua tác phẩm này nhà văn thể hiện quan điểm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, giữa nghệ sĩ và nhân dân và thậm chí là văn hóa dân tộc.

Vở kịch là một vở nói về lịch sử gồm có năm hồi, đoạn trích Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài thuộc hồi năm của vở kịch này. Nhân vật chính của kịch là Vũ Như Tô. Ông là một nhà kiến trúc tài giỏi, tính tình cương trực trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực là một tên bạo chúa sai Vũ Như Tô xây cửu trùng đài để hắn lấy nơi vui chơi với bọn cung tần mĩ nữ và ăn chơi xa đọa. Vốn tính tình cương trực thẳng thắn Vũ Như Tô đã từ chối sự sai khiến ấy mặc cho sự đe dọa về tính mạng. Thế nhưng Đan Thiềm một cô cung nữ tài sắc bị ruồng bỏ đã khuyên Vũ Như Tô xây cửu trùng đài để cống hiến cho đất nước. Vì ông luôn muốn cống hiến cho đất nước cho nên khi nghe thế ông quyết định xây Cửu Trùng Đài, ông dùng toàn tâm toàn lực để xây dựng. Nhưng chính cái Cửu Trùng Đài ấy đã làm khổ nhân dân khiến họ không thể chịu nổi và quyết tâm nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết còn Cửu Trùng Đài bị thiêu dụi hoàn toàn.

Đoạn trích thuộc hồi V diễn ra trong cung cấm. Trong khi Vũ Như Tô vẫn nuôi ước vọng làm nên một công trình nghệ thuật để cống hiến cho đất nước của mình. Nhưng ông không hề biết đó là tiếp tay cho hôn quân ăn chơi xa đọa và làm khổ chính nhân dân. Để xây dưng lên Cửu Trùng Đài ấy biết bao xương máu của nhân dân đã phải đổ. Và kết cục cho người nghệ sĩ không nhận thức được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời cường quyền chính là cái chết. Đây là một đoạn trích vô cùng kịch tính và hấp dẫn.

Mâu thuẫn của đoạn trích này là khi nhân dân không thể chịu nổi nữa bèn đứng lên nổi loạn. Người đứng đầu cho cuộc nổi loạn ấy chính là Trịnh Duy Khản. Đó chính là mâu thuẫn thứ nhất, mâu thuẫn trực tiếp và thực tế. Nhân dân phải sống trong cảnh lầm than đã thế lại còn phải phục vụ cho việc xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua vô lại ăn chơi hưởng lạc. Điều đó làm sao có thể chịu được. Nhân dân không chỉ mất tiền mất sức mà còn mất cả mồ hôi và xương máu. Vì thế cho nên ở đây có sự mâu thuẫn giữa vua vô lại và nhân dân. Mâu thuẫn kịch ấy được giải quyết bằng một cuộc nổi loạn dẹp sạch cuộc sống xa hoa kết liễu tên vua dâm kia. Khi nhân dân nổi dậy họ đã bắt và giết tên Lê Tương dực sau đó những cung tần mĩ nữ hoàng hậu cũng bị vạ lây mà giết hết. Cuối cùng là Đan Thiềm và Vũ Như Tô họ cũng không tránh khỏi cái chết vì đã làm cho nhân dân khổ cực. Cửu Trùng Đài thì bị thiêu dụi trong ánh mắt tiếc nuối của Vũ Như Tô.

Mâu thuẫn thứ hai trong đoạn trích này chính là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy lâu đời với lợi ích thiết thực của nhân dân trong việc xây Cửu Trùng Đài. Trong tác phẩm ta thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ có tâm và hết lòng vì nghệ thuật. Chính vì thế mà ông luôn muốn cống hiến những công trình nghệ thuật của mình cho đất nước. Thế nhưng là một người nghệ sĩ ông lại không nhận thức được mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống cho nên đã mắc sai lầm và dẫn tới cái chết. Hay Đan Thiềm cô khuyên Vũ Như Tô không hề vì một mục đích nào khác. Cô là một người bạn tri âm tri kỉ với ông nên muốn tốt cho ông mà thôi. Nhưng Đan Thiềm cũng không ý thức được mối quan hệ đó cho nên cũng nhận lấy kết cục đáng buồn.

Cửu Trùng Đài là một công trình nghệ thuật lớn vì thế cho nên nó rất tốn ngân khố của quốc gia. Mà ngân khố quốc gia lại chính là nhân dân làm ra chứ không ai hết. Chính vì thế xây dựng càng lớn thì nhân dân càng khổ nhiều hơn. Không những thế mà họ còn phải trả xương máu cho công trình ấy. Thứ hai Cửu Trùng Đài xây nên chỉ để phục vụ cho vua chúa ăn chơi xa đọa chứ không phải để phục vụ cho nhân dân. Chính vì thế nhân dân hoàn toàn không có một lợi ích nào ở đây. Trong khi đó Vũ Như Tô một người nghệ sĩ tài ba có tâm lại không nhận thức được điều đó. Ông chỉ chú tâm vào xây dựng công trình nghệ thuật vĩ đại của mình cho nên điều đó đã khiến cho công trình nghệ thuật ấy xa rời thực tế cuộc sống và nhận lấy kết quả đáng buồn. Ngay cả khi Đan Thiềm khuyên ông chạy đi không thì sẽ chết nhưng ông vẫn không chạy, ông vẫn tin vào việc làm của mình là đúng và quang minh chính đại. Và cho đến khi ông bị lôi ra pháp trường ông vẫn không nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Ông vẫn không hề biết lí do tại sao mình phải chết. Điều đó là một bi kịch lớn đối với một người nghệ sĩ.

Đoạn trích này có đầy đủ các yếu tố để làm nên một vở kịch hấp dẫn, các xung đột kịch được nhà văn tổ chức lôi cuốn hấp dẫn. Không khí nhịp điệu thì cứ tăng tiến dần dần lên tạo nên một tính chất gay gắt của xung đột kịch. Nhà văn thắt núi sau đó lại mở nút nhưng kết cục vẫn là bi kịch. Qua đây nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống đời thường. Nghệ thuật không thể tách rời cuộc sống.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 7

Mô-li-e được coi là nhà viết kịch có nhiều tác phẩm đạt đến mức kinh điển của thế giới. Vở kịch “Trưởng giả học làm sang” là một tác phẩm nổi tiếng của ông, trong đó trích đoạn “Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục” là một trích đoạn tiêu biểu.

Ông Giuốc-đanh hám danh muốn trang bị cho mình cái vỏ bề ngoài như những người quý tộc. Ông thuê một kíp thợ vườn để may sắm trang phục cho mình. Kíp thợ vườn hiểu biết về giới quý tộc cũng chẳng nhiều nhặn gì hơn ông Giuốc-đanh. Đã thế, cái gì họ cũng phán bừa, làm bừa, nhưng ông Giuốc-đanh dốt nát, thiển cận đều cho xuôi ráo! Ông Giuốc-đanh có phẩm tước gì mà may áo lễ phục để mặc? Rõ ràng ông chẳng hiểu gì về trào phục, nhưng lại tấp tểnh muốn làm quý tộc, nên ông bất chấp tất cả, cứ thuê may và cứ mặc, mặc vào là phải thành quý tộc, ít nhất cũng là quý tộc áo. Ông Giuốc-đanh hám danh đến mức cứ cái gì dính líu đến quý tộc để ông giống được quý tộc là ông mê và làm theo ngay. Vì thế, đi bít tất chật, bị đứt mất hai mắt, nhưng nghe phó may phỉnh vài lời: Nó giãn ra thì lại rộng quá ấy chứ thì ông Giuốc- đanh xuôi tai liền. Đi giày tuột, kêu đau chân, nhưng phó may bảo không đau, Ngài tưởng tượng ra thế rồi phó may lờ đi, chuyển phắt sang chiếc áo lễ phục. Ông Giuốc-đanh muốn nói thêm về sự đau chân cũng không được nữa.

Những tràng cười bít tất rách, giày chật chân đau vừa đứt, người xem được những tràng cười khác khi ông mặc lễ phục. Ông Giuốc-đanh phát hiện hoa trên áo bị may ngược, nhưng nghe phó may phỉnh bừa vì những người quí phái đều mặc như thế này cả, thì ông Giuốc-đanh vững tâm ngay. Người xem không thể nhịn được cười khi phó may và thợ bạn cởi quần đùi, lột áo cánh để mặc áo trào cho ông Giuốc-đanh. Ông ta như một thằng hề, súng sính đi lại theo nhịp đàn, vì đó là nghi thức dành cho quý tộc. Ông Giuốc-đanh nhận ra rằng ăn mặc ra người quý phái có hơn vì mặc áo trào mà ông được gọi ngay là Ông lớn, rồi Cụ lớn, rồi Đức ông! Ông Giuốc-đanh lấy làm khoái chí với những tiếng tôn xưng ấy và liên tục móc tiền để ban thưởng, hay nói cách khác, ông đã bỏ tiền ra mua những tiếng mà bấy nay ông hằng khao khát! Trong thâm tâm, ông còn định ban thưởng cho bọn thợ may cả túi tiền nếu được tôn xưng là Tướng công! Nhưng nực cười là ông Giuốc-đanh sực tỉnh, tự thú với chính mình: như thế là phải chăng, nếu không ta đến mất tong cả tiền. Vậy ra Giuốc-đanh cũng chẳng hào phóng gì, ông muốn mua danh nhưng cũng sợ mất nhiều tiền, ông chỉ dừng ở tiếng Đức ông để giữ lại tiền và cũng là để giữ lấy cải bản chất tham tiền và hà tiện của ông!

Mô-li-e đã sắp xếp các pha cười theo từng cung bậc khác nhau trong những tình huống được chọn lựa khá đắt để cho mỗi pha cười khắc họa được một nét đặc biệt của anh trưởng giả nhố nhăng muốn học đòi làm quý tộc. Tiếng cười đối với bọn phó may hám lợi cũng không kém phần rôm rả. Bản thân bọn phó may cũng chẳng có hiểu biết gì về trang phục của giới quý tộc, vì chúng chỉ là hạng thợ vườn, nhưng bọn này biết lợi dụng triệt để để tính hám danh của gã trưởng giả để moi tiền. Mô-li-e đã cho người xem những mẻ cười về bọn này ở những khía cạnh sau đây:

Tính ba hoa khoác lác: Phó may bảo rằng hắn phải cho hai mươi thợ bạn làm cái áo lễ phục cho ông Giuốc-đanh. Hắn tuyên bố đây là cái áo đẹp nhất trong triều, may đúng kiểu nhất và dám chấp nhận các thợ may giỏi nhất, hắn còn đố họa sĩ nào vẽ được một cái nào vừa vặn hơn cái áo này. Hắn biện bác đủ cách để lừa ông Giuốc-đanh thiển cận. Áo may ngược hoa nhưng phó may lại bảo là người sang trọng đều mặc thế, rồi nếu ông Giuốc- đanh kêu giày chật, đau chân thì phó may bảo ông tưởng tượng ra như vậy, ông Giuốc-đanh cãi thì hắn lảng đi để bắt vào chuyện chiếc áo lễ phục, ông Giuốc-đanh phát hiện phó may ăn bớt vải và mặc áo bằng vải ăn bớt đó ngay trước mặt ông ta, thì phó may trơ tráo thừa nhận, rồi lấn lướt không trả lời câu hỏi của ông Giuốc-đanh, hắn mời ông ta thử áo. Rõ ràng đây là hạng lừa phỉnh đã thành nghề để kiếm ăn. Tệ xun xoe nịnh bợ: Bọn thợ may biết rõ gan ruột ông Giuôc- đanh đang muốn gì. Chúng vòi vĩnh ông cho ít nhiều để uống rượu, vì đã may cho ông chiếc áo lễ phục nhưng ông Giuốc-đanh lại thương cho chúng vì tiếng Ông lớn. Biết thóp thế, bọn thợ bạn lại tuôn ra những tiếng Cụ lớn rồi Đức ông! Chúng có tiếc gì mấy cái tiếng nịnh bợ, tâng bốc ấy đâu, chỉ cốt làm mát lòng ông Giuốc- đanh hám danh và để vơ tiền một cách hợp lý mà thôi.

Mô-li-e đã đem đến cho người xem những tiếng cười có ý nghĩa phê phán thật giá trị. Ông phê phán, những thói rởm cả trong tầng lớp quý tộc, cả trong bọn giả danh của giai cấp tư sản, bọn trưởng giả muốn học làm sang, và đứng về phía nhân dân tỉnh táo – tức khán giả – để chửi thẳng vào bọn dốt nát, ngu xuẩn đó. Ông đã dựng lên hai loại người với những nét tâm lý khác nhau, nhưng lại biết kiếm chác những cái cần thiết. Ông Giuốc-đanh thừa tiền, vô học, muốn kiếm cái danh vì ông rất háo danh. Bọn phó may vô tài, biển lận, muốn kiếm thật nhiều tiền vì chúng rất hám tiền. Hai bên đều đạt mục đích cả. Một bên được cái danh hão, còn một bên được tiền thật. Cái đáng mỉa mai hài hước cũng toát lên từ đó.

Sự chênh lệch, mất cân xứng giữa nội dung và hình thức, giữa cái bên trong và bên ngoài là nguyên tác cơ bản để nhà văn tạo ra cái hài. Ở lớp kịch này cũng vậy, Mô-li-e đã xây dựng một nhân vật hài kịch bất hủ khi tạo ra sự khập khiễng, bất hoà giữa cái ngu dốt, ngớ ngẩn và cái sang trọng học đòi ở nhân vật ông Giuốc-đanh, với hàng loạt các tình tiết gây cười: bộ lễ phục với những bông hoa ngược, tiền thưởng cho những tiếng tôn xưng quý phái hão, vẻ vênh vác rởm hợm của ông Giuốc-đanh khi mặc lễ phục cũng như khi được tôn xưng… qua đó nhà văn chế giễu thói học đòi làm sang vẫn thường thấy trong xã hội.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 8

Lưu Quang Vũ đã dùng bút pháp sắc sảo và tư duy đương đại để dàn dựng vở kịch “Tôi và chúng ta”. Tác phẩm  phản ánh một mặt hiện tại của nền sản xuất xã hội, là sự đấu tranh giữa bóng tối và ánh sáng, những ý tưởng đổi mới thường bị coi là điên rồ và vấp phải sự phản đối của những người có quan điểm lạc hậu và bảo thủ, đặc biệt là những người được “chống lưng” cảm thấy có quyền.

Đoạn trích “Tôi và chúng ta” là cảnh thứ ba của vở kịch, đánh dấu sự xung đột ý kiến ​​đầu tiên về việc thay đổi cách tiếp cận và phương thức hoạt động trong một doanh nghiệp nhà nước mang tên Thắng Lợi. Một bên là tư duy bảo thủ, lạc hậu, tuân thủ một cách mù quáng các quy tắc, quy định do cấp trên đặt ra mà không xem xét liệu chúng có còn phù hợp hay không. Điều này được đại diện bởi Nguyễn Chính (Phó giám đốc) và Trường (Giám đốc sản xuất). Hai cá nhân này được Trần Khắc (đại diện Thanh tra) hậu thuẫn nên thường xuyên công khai chống lệnh cấp trên, thậm chí phớt lờ những gì Giám đốc Hoàng Việt nói, cho rằng đó là điên rồ, trái quy định.

Mở đầu đoạn trích là cuộc họp của toàn thể nhân sự trong công ty, giám đốc Hoàng Việt tuyên bố lý do cuộc họp và mở màn cho Lê Sơn, người đề xuất kế hoạch cải tổ của mình. Lê Sơn vốn nhút nhát nhưng có năng lực, nhiều lần phải cố gắng phát biểu, nhưng với sự hướng dẫn đặt câu hỏi của Hoàng Việt, cuối cùng anh cũng nói được ý tưởng sáng tạo của mình, điều có lẽ hoàn toàn mới đối với mọi người có mặt. Những đại diện khác của tư tưởng cải cách tiến bộ, những người đã nhận ra những bất cập và những quy định cứng nhắc đang kìm hãm sự phát triển của công ty và bóp nghẹt đời sống của người lao động, có Thành (tổ trưởng tổ sản xuất 1) và nhiều công nhân khác.

Theo Lê Sơn, xí nghiệp có thể tăng mức sản xuất gấp 5 lần nếu mở rộng mặt hàng và nguyên liệu máy móc, cần thêm từ 300 đến 500 công nhân. Đây là những con số chưa từng được suy nghĩ trước đó và chỉ tiêu biên chế được cấp trên cho phép chỉ có 15 chỉ tiêu như vậy, không thể thay đổi theo ý kiến của Lê Sơn.

Khi Hoàng Việt hỏi về nguồn gốc của kế hoạch sản xuất được nhắc đến, Trưởng phòng tổ chức lao động trả lời rằng nó được cấp trên đưa xuống. Tuy nhiên, mọi người không biết cấp trên đó là ai và Hoàng Việt nhận thấy sự phi logic của vấn đề này. Anh cho rằng việc đưa ra kế hoạch ngược đời và việc lập kế hoạch phải do cơ sở đưa ra rồi mới được cấp trên xem xét và duyệt là hợp lý hơn. Vì vậy, Hoàng Việt quyết định từ nay chủ động đặt ra kế hoạch cho chính xí nghiệp.

Câu nói của Hoàng Việt đã khiến mọi người bất ngờ và gây ra nhiều khó khăn. Đầu tiên là vấn đề về chỉ tiêu biên chế, Hoàng Việt đã tuyển thợ hợp đồng để giải quyết vấn đề này. Sau đó, anh ta đã tạm dừng việc xây dựng nhà khách để ứng tiền trả lương trước cho công nhân. Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn là tài chính, với Trưởng phòng tài vụ không muốn chi tiền dù đã được giám đốc ký. Hoàng Việt đã đứng ra chịu trách nhiệm và thay thế người này bằng cô Loan kế toán, để thực hiện quyết định của mình một cách quyết liệt nhưng cần thiết, bởi không thể làm được gì nếu có người cứng đầu và không chấp nhận thay đổi.

Câu chuyện chưa dừng lại ở đó. Đến lúc này, Nguyễn Chính, thủ lĩnh của tư tưởng bảo thủ, lạc hậu bắt đầu lên tiếng và liên tục chất vấn Hoàng Việt bằng những câu hỏi hóc búa. Tuy nhiên, Hoàng Việt với tư cách là giám đốc cũng không dại gì đến mà không chuẩn bị trước và đã chuẩn bị sẵn mọi lời giải thích hợp lý cho phó giám đốc. Ông chỉ ra những tiêu cực của việc “đối xử với những người chăm chỉ và những người lười biếng như nhau” và kết luận “đây là loại chủ nghĩa xã hội gì?” Cuối cùng, ông đề xuất nguyên tắc “làm nhiều nhận nhiều, làm ít nhận ít”, công nhân nhiệt liệt hoan nghênh. Trưởng phòng tài chính chị Trường tiếp tục ‘nhai đi nhai lại’ nguyên tắc không biết chán nhưng với Hoàng Việt.

Về phần giám thị Trường, ông chỉ bắt đầu phản đối khi nghe Hoàng Việt nói sẽ bỏ chức giám sát vì thấy thừa và phí thời gian. Anh cảm thấy điều này là phi logic vì trong nhận thức của anh, vị trí giám sát viên rất quan trọng. Tuy nhiên, chỉ với một câu nói, Hoàng Việt đã khiến Trường im lặng: “Chức vụ không quan trọng. Chỉ quan trọng hiệu quả công việc”. Cuối buổi chỉ còn anh Quý và chị Bông ở lại động viên, hỗ trợ Hoàng Việt. Nguyễn Chính luôn dùng lý luận như nguyên tắc, quy định, đặc biệt khẳng định “quy định mà đồng chí thảm sát tồn tại bền vững hàng chục năm” là hết sức bảo thủ, lạc hậu.

Hoàng Việt đã hoàn toàn đúng khi khẳng định với Nguyễn Chính một quy luật khách quan “Vạn vật không đứng yên, cuộc đời không đứng yên một chỗ, cái đúng hôm qua đã trở thành vật cản của ngày hôm nay, chúng ta phải tìm cách vượt qua nó .” Chắc hẳn ông đã hiểu sâu sắc những quy luật vận động của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Chính không còn tranh cãi gì nữa, tức giận bỏ đi, buông lời thách thức: “Được… đồng chí tự tin quá! Để xem!” Có lẽ anh đang mong có ngày Hoàng Việt thất bại để anh chế giễu, nhưng điều đó khó có thể xảy ra. Trong phòng chỉ còn lại Lê Sơn và Hoàng Việt tâm sự với nhau. Lê Sơn nhắc Hoàng Việt về Nguyễn Chính, nhưng Hoàng Việt không nản vì anh rất vững vàng, tin vào kế hoạch của mình và tin tưởng Lê Sơn.

Đoạn trích này là khởi đầu cho sóng gió ở doanh nghiệp nhà nước Thắng Lợi. Ở đây diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng giữa hai phe đối lập, một bên là bảo thủ, lạc hậu, một bên là đổi mới tư duy, cách làm, hướng tới trình độ sản xuất cao hơn, bảo đảm chi tiêu của người lao động. Và thắng lợi bước đầu của cuộc đấu tranh mà phe có khát vọng đổi mới, dám nghĩ dám làm chính là nhờ sự vững vàng và thông minh của đạo diễn Hoàng Việt. Đây cũng là tiền đề cho những xung đột, đấu tranh gay gắt hơn nữa chờ đợi ở phần sau của vở kịch.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 9

Những truyện ngắn của Nguyễn Dữ mang đậm những ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống con người. Các sáng tác của ông đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, không chỉ về nội dung mà còn về mặt nghệ thuật. Một ví dụ điển hình trong tập truyền kỳ mạn lục của ông là tác phẩm “Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên”. Có thể nói đây là một truyện xuất sắc.

Ban đầu, tác phẩm nổi bật về mặt nội dung. “Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên” đã xây dựng lên những nhân vật tượng trưng cho các loại người tồn tại trong xã hội thực tế của con người.

Đầu tiên là Ngô Tử Văn, một nho sĩ tôn vinh cái thiện và đối diện với cái ác. Chàng là biểu tượng của nhân loại, của con người luôn thèm khát chiến đấu vì cái thiện, vì cái chính, vì sự công lý và sự thật trong cuộc sống. Dù biết rõ rằng việc đốt đền có thể đánh mất mạng sống, chàng vẫn không chùn bước. Ngô Tử Văn thể hiện lòng kiên định và tinh thần hi sinh cho lẽ đúng, cho chân lý. Không chỉ thế, chàng còn đại diện cho hình mẫu anh hùng, sẵn sàng hi sinh vì mục tiêu lớn lao trong cuộc đời. Đời người ai cũng sẽ qua thế, nhưng để lại tiếng vang vĩnh hằng.

Tiếp theo là họ Lôi và đám quan tham ăn hối lộ, là biểu tượng của sự xấu xa và tham lam trong xã hội. Chúng không chỉ cướp bóc, mà còn cả ganh đua để cùng nhau làm lớn mưu đồ ác của chúng. Điều này khiến người có công với đất nước không thể đối đầu. Ông lão kia chỉ một mình, còn chúng thì quá đông đảo. Ông cảm nhận sự vô vọng, chỉ biết chờ thời cơ. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng tương tự, cái ác thường to lớn. Để sống một cuộc sống tốt lành, chúng ta phải đấu tranh, phải can đảm.

Truyện không chỉ đặc sắc về nội dung, mà còn thể hiện sự độc đáo trong nghệ thuật. Yếu tố kỳ ảo được thể hiện rõ nét, là điểm đặc sắc trong câu chuyện này. Ngô Tử Văn, một người sống thực tế, lại có thể đối mặt với hồn ma của kẻ địch, hay sống lại sau khi đã mất hơn hai ngày. Tác giả sử dụng nghệ thuật kỳ ảo để tăng thêm sự huyền bí, mang tính thần thoại vào câu chuyện. Đồng thời, tác phẩm cho thấy vị trí của con người trong vũ trụ và đời sống tinh thần của người Việt xưa.

Như vậy, có thể khẳng định rằng “Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên” không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Nguyễn Dữ đã thừa hưởng nét kỳ ảo của truyền thuyết dân gian để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Điều này càng làm cho tác phẩm truyền đạt nội dung một cách hiệu quả đến người đọc.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 10

Câu chuyện ngụ ngôn kể về năm thầy bói đến xem con voi. Họ quyết định cùng đóng góp tiền để biếu người quản voi và xem xem con voi có hình dạng như thế nào.

Mỗi người thầy xem một phần khác nhau, và sau cùng, họ tranh cãi với nhau. Không ai thừa nhận ý kiến của người kia: một người sờ vòi và nói rằng voi giống con đỉa; người khác sờ ngà và cho rằng nó giống cái đòn càn; một người khác sờ tai và nói nó giống cái quạt thóc; người kia sờ chân và nói rằng voi to như một cái cột đình; cuối cùng, người thứ năm sờ đuôi và nói rằng voi như một cái chổi sể cùn. Cuối cùng, sau cuộc cãi vã không thể giải quyết, năm người thầy đánh nhau dữ dội, chảy máu. Cách tiếp cận “xem voi” như vậy thật kỳ quặc và đầy những sai lầm cơ bản. Bài học rút ra từ câu chuyện này rất hữu ích.

Vì họ là những thầy bói mù, họ không thể nhìn bằng mắt mà chỉ có thể “sờ” bằng tay. Con người có năm giác quan, nhưng những người thầy này bị mất đi giác quan quan trọng nhất trong việc “xem”, đó là thị giác. Nhưng cuối cùng, họ chỉ có thể sử dụng giác quan duy nhất để làm công việc đó: xúc giác. Điều này dẫn đến việc họ “xem” voi bằng cách sờ! Và do con voi quá lớn, nên tất cả điều đó dẫn đến việc mỗi thầy chỉ có thể sờ một phần nhỏ của nó, không thể nhận biết được toàn diện về đối tượng. Vì vậy, cùng một con voi, những ý kiến của các thầy không giống nhau.

Thái độ của các thầy không phải là tự tin mà chủ quan đến mức cực đoan: mỗi người đều cho rằng mình đúng nhất, người sau đó phản bác ý kiến của người trước để khẳng định quan điểm của mình, không ai chịu ai, và điều này dẫn đến các cãi vã, cuối cùng là một cuộc đánh nhau dữ dội, máu chảy.

Rõ ràng, sai lầm của các thầy bói nằm ở chỗ: thay vì chỉ xem một phần của con voi, họ nên xem toàn bộ con voi thì mới có thể đưa ra đúng đắn. Dù vòi, chân, tai, ngà, đuôi đều là của con voi, nhưng chỉ riêng lẻ một phần, chưa phải là toàn bộ con voi.

Quan trọng hơn, nếu các thầy lắng nghe ý kiến của nhau, hỏi ý kiến của người quản lý, kết hợp với sự mô tả và nhận thức của mỗi người, họ sẽ hiểu rõ hơn về con voi!

Câu chuyện ngụ ngôn của người xưa mang lại cho người đọc những bài học quý giá trong cuộc sống. Trong việc xem xét một sự vật hoặc sự việc, ta cần kết hợp cả những giác quan khác nhau như thính giác, thị giác… Nhưng nếu không có điều kiện sử dụng đầy đủ các giác quan, thì phải xem xét một cách toàn diện, không lấy một phần nhỏ để đại diện cho toàn bộ. Đặc biệt, không nên quá chủ quan khi xem xét, đánh giá một sự vật hay sự việc, mà cần phải lắng nghe ý kiến của người khác, kết hợp với phân tích, đánh giá và tổng hợp của bản thân.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 11

Đoạn trích “Đổi tên cho xã” của Lưu Quang Vũ là một tiểu thuyết mang tính chất phê phán xã hội, nói về hiện tượng “sĩ diện” và sự ảnh hưởng xấu của nó đối với cộng đồng và xã hội. Đoạn trích này là một ví dụ minh họa rất rõ nét về những hệ quả của hiện tượng này.

Tại cuộc họp thông báo đổi tên xã Hùng Tâm và thay đổi chức vụ của một số người, chúng ta thấy nhân vật chính, ông Chủ tịch xã Toàn Nha, là một người rất tiêu biểu cho kiểu người sống giả dối trong xã hội. Ông ta mơ ước xây dựng một xã khoa học, phát triển để tỏ vẻ vang và được công nhận. Tuy nhiên, ông lại thiếu sự phân tích cụ thể và hiểu biết về tình hình thực tế của xã. Ông Nha muốn phát triển kinh tế nhưng lại vứt bỏ những yếu tố cơ bản, như việc lo lắng cho cơm áo của người dân nơi đây.

Ngôn ngữ của ông Chủ tịch Toàn Nha không phù hợp với cuộc họp trang nghiêm. Lời nói của ông thường rất cao siêu và khoa trương, nhưng thực tế lại rất phũ phàng và không mang lại giá trị thực tế. Ví dụ, ông nói: “Bây giờ làm ăn mới rồi, quy mô khoa học… Đâu muốn hoạn phải mang lợn đến tận trụ sở.” Từ ngữ khoa chương, lố bịch của ông chỉ là sáo rỗng và không thể hiện sự hiểu biết thực sự. Ông Chủ tịch xã Toàn Nha là một cái ví dụ điển hình cho những người sống giả dối trong xã hội. Ông ta mơ ước xây dựng một xã khoa học để tỏ vẻ vang và được công nhận. Tuy nhiên, ông ta chỉ tìm hiểu một cách hời hợt và thiếu sự phân tích cụ thể về tình hình thực tế của xã. Ông Nha muốn phát triển kinh tế nhưng lại vứt bỏ những yếu tố cơ bản cần cho cuộc sống của người dân. Lời nói của ông thường rất cao siêu và khoa trương nhưng thực tế lại rất phũ phàng và không mang lại giá trị thực tế. Ngôn ngữ của ông không phù hợp với cuộc họp trang nghiêm, thường có nhiều từ ngữ không rõ nghĩa và khiến người nghe cảm thấy lố bịch.

Sự không tương xứng giữa hình thức và thực chất, suy nghĩ và hành động của ông Chủ tịch Toàn Nha tạo nên tình huống hài hước và trớ trêu. Ví dụ, ông Đốp, một người không được xem trọng, lại được phong làm Chủ nhiệm Trung tâm Triệt sản gia súc xã Hùng Tâm. Ông Thình, người làm công việc phụ trong xã, lại được phong làm Chủ nhiệm Trung tâm Công nghệ. Điều này làm cho việc làm của họ trở nên trái ngược với hiểu biết và năng lực thực tế.

Cuối cùng, đoạn trích “Đổi tên cho xã” phản ánh một cách hài hước và lố bịch tác hại của hiện tượng “sĩ diện” trong xã hội, qua việc tạo ra sự không tương xứng giữa hình thức và thực chất, suy nghĩ và hành động của nhân vật. Tác phẩm này cũng nhấn mạnh về sự tương phản giữa cái xấu và cái tốt, giữa áo tưởng và thực tế, và tạo ra những tình huống trớ trêu và gây tiếng cười trào phúng.

Nghị luận phân tích tác phẩm văn học (kịch) - Mẫu 12

Trích đoạn chèo Thị Mầu lên chùa là một trích đoạn đặc sắc của nghệ thuật chèo nói riêng và của nghệ thuật kịch hát Việt Nam nói chung. Sự đặc sắc của Thị Mầu lên chùa là sự đặc sắc đến từ đề tài, nội dung đến hình thức nghệ thuật thể hiện.

Cái hay trong đề tài của trích đoạn Thị Mầu lên chùa nằm ở chỗ, Thị Mầu đã say đắm và tìm cách hãm hại tiểu Kính Tâm. Nghĩa là, giữa lề cấm, lễ giáo phong kiến đè nặng lên người con gái, vẫn có một Thị Mầu dám khát khao và bộc lộ tình cảm của mình ra bên ngoài. Thị Mầu đã là một sự đặc sắc, sự khác biệt với Thị Kính. Cái độc đáo khác ở đây là, Thị Mầu đã đi yêu tiểu Kính Tâm! Thật ngược đời, éo le. Nhưng dẫu trớ trêu như thế nào thì trích đoạn này cũng tràn đầy sự vui tươi, đặc sắc so với các trích đoạn khác trong vở chèo Quan âm Thị Kính. Quan điểm của tác giả dân gian, như cách để cởi trói những người đàn bà trong xã hội cũ, khỏi các ràng buộc của vòng nô lệ, đã được thể hiện thông qua nhân vật Thị Mầu.

Nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật của trích đoạn chèo được thể hiện rõ ràng nhất chính là ở sự thể hiện. Nói một cách khác là nghệ thuật sân khấu. Nếu chỉ soi xét về cốt truyện của Thị Mầu lên chùa, ta sẽ thấy được những điều đáng tiếc. So với nghệ thuật Tuồng, ngôn ngữ trong Chèo dễ hiểu hơn, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Đó là những câu thơ, điệu hò mà có thể lồng ghép, chèn vào được thơ cổ, mang nặng tâm tình người Việt.

Cái hay là của chèo cũng khác biệt với kịch nói ở chỗ đó là có thêm nhạc đệm. Tiếng gọi này là sự đồng cảm của khán giả, là một sự cộng hưởng, thuộc tác giả. Giới hạn của nghệ sĩ và khán giả ở Việt Nam bị bó hẹp. Trong khi đó, ở kịch nói mà chủ yếu là tác động từ phương Tây, khán giả không được quyền lên tiếng, đồng sáng tác với vở kịch ấy. Điều này cũng đã được thể hiện trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa.

Có thể thấy, những nét độc đáo trong nghệ thuật chèo đã được thể hiện khá rõ ràng qua trích đoạn Thị Mầu lên chùa. Những sự độc đáo ấy đến từ đề tài trữ tình có phần trái ngược (một cô gái đang tán tỉnh chú tiểu), và từ sự thể hiện của loại hình chèo. Kịch nói là sự ảnh hưởng, du nhập của phương Tây trong quá trình hiện đại hoá văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Thế nhưng, kịch hát cũng có sức hút riêng biệt, không chỉ bởi đó là nét riêng, mà còn bởi giá trị nghệ thuật của nó.

Đánh giá

0

0 đánh giá