Tài liệu soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch) Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 9. Mời các bạn đón xem:
Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch)
Cách 1:
Đề bài: Bài văn phân tích vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”.
Bài văn mẫu tham khảo
Lưu Quang Vũ là một tài năng đa tài của nền nghệ thuật Việt Nam từ các thế kỉ trước. Bằng tài năng của mình ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm hay và ý nghĩa như Tôi và chúng ta; Sống mãi tuổi 17; Nàng Sita; Ngọc Hân công chúa,... Trong đó, Hồn Trương Ba, da hàng thịt được xem là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch chính là một bài ca về vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo, dung tục và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được Lưu Quang Vũ viết vào năm 1981, công diễn lần đầu năm 1984 và nhiều lần trên sân khấu cả trong và ngoài nước.Vở kịch được gợi dẫn từ một cốt truyện dân gian, thực chất là sự cải biên một truyện cười dân gian. Trong khi tác giả dân gian chỉ tạo ra một tình huống oái oăm nhằm gây tiếng cười phê phán thì Lưu Quang Vũ đã biến nó thành một tấn bi kịch – bi kịch tâm lí. Đoạn trích phân tích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
Đến cảnh VII của vở kịch thì xung đột giữa hồn và xác đã được đẩy lên đỉnh điểm, nút thắt được siết chặt đến cao độ và cũng là lúc ta thấu hiểu tấn bi kịch mang tên: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Đầu tiên là bi kịch sống nhờ, sống gửi, tồn tại trái với lẽ tự nhiên của hồn Trương Ba. Bi kịch ấy được thể hiện rõ qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba đã tách khỏi xác anh hàng thịt, còn “thân xác bằng thịt vẫn ngồi nguyên trên chõng và lúc này chỉ còn là thân xác”. Hồn Trương Ba nhân hậu, trong sáng và thanh cao lại đặt trong thân xác của một anh hàng thịt phàm tục, thô lỗ, đầy sức mạnh bản năng tục tằn. Lúc nào hắn cũng chỉ nghĩ đến mấy “cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…”. “Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi”…
Cuộc tranh luận giữa hồn và xác diễn ra quyết liệt. Dường như có những lúc tiếng nói của xác thịt lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế bị động và một mực phủ nhận lí lẽ của xác anh hàng thịt “lí lẽ của anh thật ti tiện”. Chỉ còn biết ngao ngán thở dài một tiếng “Trời!”. Qua đó, ta thấy rằng hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ tột cùng. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải của linh hồn đã nói nói lên điều đó. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt chính là ẩn dụ về cuộc đấu tranh giữa tâm hồn và thân xác trong một con người. Đó là tiếng nói của bản năng và những tác động ghê gớm của nó vào linh hồn. Mặc dầu cho linh hồn luôn đấu tranh để vượt lên những đòi hỏi không chính đáng của thể xác nhưng khó mà tránh khỏi những tác động đó. Hồn Trương Ba có những dấu hiệu của sự tha hóa: trở nên thô lỗ tát con đến chảy máu mồm, thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…
Tiếp đó là bi kịch bị chối bỏ bởi những người xung quanh được thể hiện tập trung qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người thân. Tình trạng tồn tại bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo của Hồn Trương Ba khiến cho vợ ông đau khổ tới mức định bỏ nhà ra đi dù bà là người hiền lành, cam chịu. Cái Gái quyết liệt không chịu nhận ông nội “Tôi không phải là cháu ông…Ông nội tôi chết rồi”, “Ông nội đời nào thô lỗ và phũ phàng như vậy”, “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi”. Nó tố cáo Hồn Trương Ba làm gãy cây trong vườn, dẫm nát cây sâm quý của ông nội đã mất và còn làm hỏng mất cái diều của thằng cu Tị… Mặc dù cái Gái là đứa cháu rất yêu thương ông nội, đêm nào nó cũng khóc thương ông, nâng niu cất giữ từng chút kỷ niệm của ông. Nhưng nó vẫn chỉ là một đứa trẻ nhỏ, tâm hồn ngây thơ, trong sáng, thánh thiện không thể chấp nhận sự thô lỗ, tầm thường của linh hồn ông nội trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt. Có lẽ người thấu hiểu và thương Trương Ba nhất nhà lại là chị con dâu, nhưng trước tình cảnh đó chị cũng phải nói rằng: “mỗi ngày thầy một đổi khác đi, mất mát dần”. Càng thương bố chồng, người con dâu ấy càng đau khổ, tuyệt vọng trong câu hỏi “làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”. Than ôi! Còn gì đau đớn và hổ thẹn hơn khi mà bị chính những người thân của ta ruồng bỏ… Có lẽ đó là bi kịch dằn vặt nhất đối với Trương Ba của hiện tại.
Bi kịch lại nối tiếp những bi kịch khi Đế Thích khuyên Trương chấp nhận vì thế giới không toàn vẹn, thể hiện cái nhìn quan liêu, hời hợt về cuộc sống con người. Và đó chính là bi kịch sửa sai càng thêm sai. Trương Ba bị chết oan uổng vì “một lầm lẫn của quan thiên đình”. Để sửa sai thì Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống trong thân xác của anh hàng thịt. Tồn tại ở tình trạng trái với tự nhiên một thời đã khiến hồn Trương Ba nhận ra rằng “có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm”. Chỉ có cách là cố gắng đừng sai mà thôi. Nếu lỡ sai rồi thì hãy làm một việc đúng khác để bù lại. Khi Trương Ba kiên quyết đòi trả xác cho anh hàng thịt, Đế Thích định cho hồn ông nhập vào cu Tị. Bằng sự quyết liệt của mình, Hồn Trương Ba đã không chấp nhận mà chỉ xin tiên Đế Thích trả lại cuộc sống cho cu Tị – một cậu bé ngoan ngoãn, đáng yêu, rất thân thiết với ông và cái Gái hồi ông còn sống. Có lẽ chính sự lựa chọn đó mới làm cho linh hồn của Trương Ba thanh thản. Ông nhận ra rằng con người là một thể thống nhất, hồn xác phải hài hòa đồng thuận. Sống phải là chính mình. Sự bất tử của con người nằm trong ý nghĩa sự sống và sự hóa thân vào cuộc sống xung quanh.
Khép lại vở kịch, Trương Ba đã chấp nhận cái chết để không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba da hàng thịt” nữa. Đây là một kết cục đầy bi kịch chứ không phải kết thúc có hậu như trong cốt truyện dân gian trước đó. Nhưng đó lại là cái kết của sự chiến thắng cái ác, cái xấu và của những điều tốt đẹp, bản lĩnh. Vở kịch được đánh giá là một vở “bi kịch lạc quan” bởi tuy rằng Trương Ba không còn tiếp tục được sống nhưng những giá trị đích thực của cuộc sống được bảo toàn. Không còn trên cõi trần nhưng Trương Ba sẽ còn sống mãi trong lòng người thân, bạn bè và với tất cả những gì tốt đẹp nhất.
Dưới ngòi bút của nhà viết kịch điêu luyện Lưu Quang Vũ những bi kịch của hồn Trương Ba trong đoạn trích được thể hiện một cách sinh động, đầy kịch tính thông qua những màn đối thoại, xung đột. Sự hấp dẫn của kịch bản cùng với nghệ thuật tạo dựng tình huống độc đáo, xây dựng và dẫn dắt xung đột kịch hợp lí và nghệ thuật dựng hành động kịch sinh động góp phần đem đến sự thành công cho tác phẩm. Đặc biệt, vở kịch được tạo nên bởi yếu tố huyền thoại, nghĩa là không có thực. Qua đó nhà văn đã làm sáng tỏ một hiện thực: Trong xã hội cũ, tình trạng con người không làm chủ được bản thân mình, không được sống như mình mong muốn không phải là hiếm. Hàng loạt nhân vật của Nam Cao cũng rơi vào tình trạng bi kịch như thế như: Chí Phèo, Bà cái Tí, anh cu Lộ…
Nằm ở phần kết của vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, đoạn trích thể hiện rõ tài năng của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên rất nhiều phương diện như: sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống, hay tiếng nói phê phán gay gắt, quyết liệt những hiện thực trong xã hội cũ… Vở kịch nói chung và đoạn trích nói riêng đã đem đến cho ta những bài học quý giá: Được sinh ra trên đời là một hạnh phúc, nhưng sẽ hạnh phúc hơn khi ta được sống là chính mình, sống một cách trọn vẹn với những giá trị vốn có và sẽ mãi theo đuổi nó đến cùng.
Cách 2:
Đề bài: Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận, trích trong vở kịchRô-mê-ô và Giu-li-ét(Uy-li-am Sếch-xpia)
Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616), sinh ra trong một gia đình thương nhân bình dân ở thị trấn Tây Nam nước Anh. Ông được mệnh danh là nhà viết kịch thiên tài, là "người khổng lồ" của nhân loại trong thời kỳ Phục Hưng. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm rất đồ sộ gồm 37 vở kịch và đều được được xếp vào hàng kiệt tác với nhiều thể loại khác nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch kinh điển về tình yêu, là kiệt tác văn học ra đời dựa trên mối thù hận có thực của hai dòng họ Môn-ta-giu và Ca-piu-lét tại I-ta-li-a thời trung cổ.
Sếch-xpia bằng tiếng nói nhân văn và tư tưởng tiến bộ, khát vọng tự do mãnh liệt đã mang đến một tình yêu trong sáng nhưng không kém phần mãnh liệt, dùng tình yêu tuyệt vời ấy để hóa giải đi mối hận thù của hai dòng họ vốn đã in sâu trong tâm trí hai con người trẻ tuổi. Đoạn trích Tình yêu và thù hận trích trong lớp hai, hồi II của vở kịch là những lời tâm sự tận đáy lòng của đôi trai tài gái sắc, hai trái tim cùng hướng về thứ tình yêu đích thực, sẵn sàng từ bỏ, vượt qua những rào cản thù hận dòng họ để đến bên nhau.
Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét là tình yêu trên nền thù hận, với Giu-li-ét sự thù hận của hai dòng họ được nhắc đến như một nỗi sợ, nỗi ám ảnh thường trực, nàng không thể giấu nổi sự lo lắng, hoang mang lặp đi lặp lại trong từng lời thoại. Nàng lo lắng cho tình yêu mới chớm nở, lo lắng cho số phận của người mình yêu và của cả chính bản thân nàng. Khác với Giu-li-ét, Rô-mê-ô khi đối mặt với tình yêu và với thù hận của dòng họ, chàng lại có cách nghĩ và một thái độ khác hẳn, mà có lẽ rằng đó là đặc điểm riêng của phái mạnh, mang trong mình sự dũng cảm, cứng cỏi. Chàng luôn mang tâm thế sẵn sàng, vượt lên trên thù hận với thái độ quyết đoán, sẵn sàng từ bỏ cả tên họ, từ bỏ cả dòng tộc vì tình yêu với Giu-li-ét, đối với chàng trai trẻ tình yêu của chàng có thể vượt lên trên tất cả, vượt lên cái bóng đen u ám mãi quanh quẩn giữa hai dòng tộc.
Thế nhưng Rô-mê-ô cũng lại có một mối lo lắng khác, điều đó nằm ở tình yêu của Giu-li-ét, chàng quẩn quanh bởi những câu hỏi, những băn khoăn về vị trí của mình trong trái tim nàng, bởi nếu yêu mình sao nằng còn lo lắng và cứ mãi ậm ờ, không dứt khoát như thế. Rô-mê-ô nói "Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ", hóa ra trong đôi mắt chàng trai trẻ, chỉ có duy nhất Giu-li-ét khiến chàng không an tâm, khiến chàng phải e dè, bởi chàng đã yêu nàng quá sâu đậm, một lời từ chối của nàng cũng khiến Rô-mê-ô đau đớn hơn là vài chục lưỡi kiếm cắt vào da thịt. Có thể thấy rằng tuy cả hai nhân vật có những suy nghĩ khác nhau nhưng họ đều nhắc đến hận thù, nhưng không phải để khơi dậy hay khoét sâu nó mà nhắc tới để tìm cách vượt lên trên hận thù, để vun đắp tình yêu mới chớm nở của mình bằng tất cả trái tim và hi vọng cháy bỏng.
Trong đoạn trích chúng ta có thể nhận thấy rằng có hai kiểu đối thoại một là độc thoại nội tâm, và một là màn đối thoại trực tiếp của hai nhân vật. Trước hết màn độc thoại của từng nhân vật chính là những lời sâu tận đáy lòng mà họ muốn bộc bạch cùng trăng sao, họ muốn nói ra cho thỏa nỗi lòng mong nhớ. Những lời muốn ngỏ của Rô-mê-ô rất nhiều và được thể hiện qua những lời độc thoại rất dài khi chàng ngắm trộm Giu-li-ét bên khung cửa sổ "Kẻ chưa từng bị thương thì há sợ gì sẹo...mơn trớn đôi gò má ấy". Bối cảnh gặp gỡ của hai người là một đêm trăng sáng, không gian tĩnh mịch thanh vắng, trên trời những vì sao nhỏ lấp lánh, có thể nói đây là không gian vô cùng thích hợp để đôi lứa hẹn hò.
Có một điều đáng chú ý là trong mắt chàng Rô-mê-ô vẻ đẹp của Giu-li-ét sánh ngang với "mặt trời", điều ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trước hết là từ vị trí đứng của Rô-mê-ô khi chàng hướng mắt lên bắt gặp vẻ đẹp của người con gái trẻ trung, rực rỡ, vẻ đẹp ấy giống như ánh dương ấm áp sáng chói tâm hồn hồn chàng. Đặc biệt, nếu như trước khi nàng xuất hiện không gian chỉ có mình ánh trăng thanh lãnh thì đến khi Giu-li-ét đến bên cửa sổ, vẻ đẹp của nàng tỏa ra thứ ánh sáng cạnh tranh với thiên nhiên, thậm chí lấn át của ánh trăng khiến cho nó trở nên nhợt nhạt xanh xao, điều ấy khiến Rô-mê-ô chỉ có thể liên tưởng đến mặt trời, thứ ánh sáng độc nhất, vĩ đại nhất. Ngoài ra, xuất phát từ thần thoại La Mã về mặt trăng, mà bản thân Rô-mê-ô lại ao ước một tình yêu thực tế, tươi đẹp gần sát với trần thế, như vậy Giu-li-ét của chàng phải xứng đáng với hình tượng mặt trời ấm áp.
Thêm nữa, Giu-li-ét lại xuất hiện trong cuộc đời chàng, lúc chàng rơi vào tuyệt vọng, chán chường bởi nỗi buồn thất tình, chính tình yêu của nàng đã hồi sinh tâm hồn chàng, khiến chàng trở lại sự tươi vui, rực rỡ. Chàng Rô-mê-ô đã có một sự so sánh ngầm rằng, chính Giu-li-ét đã mang đến sức mạnh, củng cố nguồn sống, là sự hiện diện tuyệt đối cần thiết trong cuộc đời chàng, tựa như mặt trời với Trái Đất, nhờ có sức mạnh ấy mà chàng có thể vượt lên trên thù hận của gia tộc, rũ bỏ hết tất cả, kể cả họ tên để dũng cảm theo đuổi tình yêu. Bên cạnh vẻ đẹp tựa ánh sáng mặt trời, vẻ đẹp của Giu-li-ét hiện lên trong ánh mắt si tình của chàng Rô-mê-ô được đặc tả qua đôi mắt, chàng so sánh đôi mắt ấy tựa như hai vì tinh tú sáng nhất trên bầu trời, từ đó dùng làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp nữ thần trong mắt chàng.
Có thể thấy rằng, rất cả các cách so sánh, cách gọi của Rô-mê-ô dành cho người con gái anh yêu đã thể hiện một đặc điểm của chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, vẻ đẹp của con người đã được tôn vinh để sánh ngang với vẻ đẹp của vũ trụ, mang tầm vóc vũ trụ, thậm chí còn vượt trội hơn cả vẻ đẹp của thiên nhiên. Và vẻ đẹp của Giu-li-ét đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu đương mãnh liệt ở Rô-mê-ô và cũng từ vẻ đẹp ấy đã thức dậy những khao khát được thổ lộ, được gần gũi được chia sẻ, được thấu hiểu, điều ấy thể hiện qua lời thoại của chàng "Ôi, giá nàng biết nhỉ".
Nếu như Rô-mê-ô chỉ đơn giản là chìm đắm trong sự say mê của tình yêu bay bổng thì Giu-li-ét lại bị níu kéo bởi thực tế, một thực tế đau lòng, đó là mối thù sâu như biển giữa hai gia tộc. Ta có thể thấy rõ điều đó thông qua lời thoại nội tâm của nàng, "Ôi chao!" một lời thoại rất ngắn ngủi, tuy nhiên chúng ta có thể thấy những cảm xúc chất chứa dồn nén ở trong ấy, đó là tình cảm gói ghém dành cho mối tình đầu tiên của mình, nhưng cũng là tiếng thở dài lo lắng khi nghĩ đến việc chàng là con trai của dòng họ Môn-ta-giu. Ngoài ra đó cũng là nỗi băn khoăn của nàng về tình yêu của Rô-mê-ô dành cho mình liệu đã đủ lớn lao, đủ chân thành hay chưa. Đến lời thoại thứ hai, nàng gọi tên người yêu một cách rất thiết tha "Ôi Rô-mê-ô, chàng Rô-mê-ô", thể hiện tình cảm trong mình một cách mãnh liệt, nhưng kèm theo đó lại là một câu hỏi đầy xót xa "Sao chàng lại là Rô-mê-ô nhỉ?".
Đồng thời nàng cũng lập tức nghĩ ra ngay giải pháp là một trong hai người họ phải từ bỏ dòng họ, có thể thấy rằng tình yêu của Giu-li-ét dành cho Rô-mê-ô là vô cùng lớn lao, là lời mách bảo chân thành của trái tim. Tuy nhiên sau khi nói ra những giải pháp ấy, Giu-li-ét đã dùng những lý lẽ để bảo vệ, biện minh cho việc từ bỏ dòng họ vì tình yêu "Chỉ có tên họ...đổi lấy cả em đây!". Dường như Giu-li-ét đã không còn là cô bé 14 tuổi nữa mà đã vụt trưởng thành, chín chắn, có thể nói tình yêu của nàng cũng chẳng kém Rô-mê-ô mãnh liệt sâu sắc và chân thành.
Sau khi kết thúc phần độc thoại nội tâm, hai nhân vật có có cuộc chạm mặt chính thức, trong những lời mà Giu-li-ét nói đều thể hiện một nỗi sợ hãi thường trực, nàng luôn gợi nhắc về mối thù của hai đại gia tộc mà hiện thân của nỗi lo lắng ấy chính là bức tường rào nhà nàng. Bức tường đá ấy bao quanh khu lâu đài nhà Ca-piu-lét để bảo vệ dòng họ khỏi sự đột nhập của những kẻ có ý đồ bất chính, bên cạnh nghĩa tả thực thì bức tường này còn mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, đó là sự ngăn trở tình yêu, là rào cản, là mối thù sâu đậm của hai dòng họ, nó còn là biểu tượng cho nỗi lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của Rô-mê-ô, tình yêu của chàng liệu có đủ chân thành, đủ lớn để vượt qua những ngăn trở hay không, và ngược lại. Đặc biệt Giu-li-et còn thể hiện nỗi lo lắng luôn thường trực khi gọi chính khu vườn nhà mình là "tử địa" và cảnh báo cho Rô-mê-ô rằng nếu chàng bị bắt gặp chàng sẽ bị giết chết không nghi ngờ.
Trái lại Giu-li-ét thì suy nghĩ của Rô-mê-ô lại thoáng và nhẹ nhàng hơn rất nhiều, nếu như Giu-li-ét nhắc về thù của hai dòng họ, thì Rô-mê-ô đã lập tức khẳng định chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ để xóa bỏ mối thù. Chàng cũng xóa tan mọi băn khoăn lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của chàng bằng cách khẳng định chắc chắn về tình yêu mãnh liệt dành cho nàng "mấy bức tường đá ấy làm sao ngăn nổi tình yêu", "người nhà em ngăn sao nổi tôi",... hình bóng bức tường trở thành đòn bẩy, là công thức chính minh cho tình yêu của Rô-mê-ô.
Mối tình của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã khẳng định một cách mạnh mẽ sức sống và sự vực dậy mạnh mẽ vươn lên trên mọi nghịch cảnh của cuộc sống, mọi giới hạn của con người. Dẫu có là bi kịch nhưng tác phẩm của Sếch-xpia đã đem đến cho toàn nhân loại những nhận thức lớn về tình yêu, về sự khắc nghiệt của chế độ phong kiến, sự thù hận của tình người và quan trọng nhất chính là chủ nghĩa nhân văn sâu sắc mà ông muốn đề cao.
Xem thêm các bài soạn văn lớp 9 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Thực hành tiếng Việt trang 131
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (kịch)
Âm mưu và tình yêu (trích, Giô-han Cơ-rít-xtốp-phơ Phri-đơ-rích Si-lơ)