TOP 20 bài Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh 2024 SIÊU HAY

46.3 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh

Đề bài: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ cùng phong cách cổ điển: so sánh bài thơ Qua đèo ngang (Bà Huyện Thanh Quan) và bài thơ Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến)

TOP 20 bài Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh - Mẫu 1

Mùa thu, với vẻ đẹp trầm mặc, sâu lắng, luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ. Trong kho tàng thơ ca Việt Nam, có hai bài thơ đặc sắc miêu tả vẻ đẹp mùa thu, đó là "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến và "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan. Mặc dù cùng viết về mùa thu, nhưng hai tác phẩm lại mang những nét riêng biệt, thể hiện những tâm trạng, cảm xúc khác nhau của tác giả.

Cả hai bài thơ đều vẽ nên một bức tranh mùa thu đậm chất trữ tình. Tuy nhiên, mỗi bức tranh lại mang một màu sắc riêng. Nếu như "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu yên bình, tĩnh lặng với những nét vẽ tinh tế, thì "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan lại là một bức tranh thu hoang sơ, heo hút, mang đậm nỗi buồn xa xứ.

Về cảnh vật, "Thu Vịnh" tập trung vào những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống thường ngày như "sân lai cách mấy nắng mưa", "dưới những tán cây xanh". Qua đó, tác giả thể hiện một nỗi buồn man mác trước sự tàn phai của thời gian và cuộc sống. Còn trong "Qua đèo Ngang", cảnh vật hiện lên với những nét hoang sơ, hùng vĩ: "đèo cao gió hú", "trời xanh ngắt". Cảnh vật ấy như làm nổi bật lên nỗi cô đơn, lạc lõng của người khách qua đường.

Tâm trạng của các tác giả cũng khác nhau rõ rệt. Nguyễn Khuyến thể hiện một nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác, pha lẫn chút hoài niệm về quá khứ. Còn Bà Huyện Thanh Quan lại bộc lộ một nỗi buồn sâu sắc, cô đơn, thấm đượm nỗi nhớ nhà da diết. Cụm từ "ta với ta" trong bài thơ của bà đã trở thành một biểu tượng cho nỗi cô đơn của con người giữa thiên nhiên bao la.

Về nghệ thuật, cả hai bài thơ đều sử dụng những biện pháp tu từ đặc sắc. Nguyễn Khuyến sử dụng nhiều từ láy gợi tả như "lá vàng rơi", "gió heo may" để tạo nên một không gian mùa thu thật sống động. Bà Huyện Thanh Quan lại sử dụng nhiều cặp đối, câu đối để tạo nên âm điệu trầm buồn, sâu lắng.

Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh - Mẫu 2

Thơ ca Việt Nam từ lâu đã nổi danh với những tác phẩm mang đậm tâm hồn dân tộc, thể hiện sự tinh tế trong cảm xúc và ngôn ngữ. Trong số những tác phẩm tiêu biểu, "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến và "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan là hai bài thơ mang đến những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và tâm tư con người. Mặc dù được sáng tác trong những hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả hai tác phẩm đều thể hiện vẻ đẹp kỳ diệu của mùa thu cùng những suy tư trăn trở của tác giả, đồng thời bộc lộ những nét riêng biệt trong phong cách và nội dung biểu đạt.

Trước tiên, xét về nội dung, "Thu Vịnh" là một tác phẩm thể hiện tình yêu thiên nhiên rất sâu sắc của Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ, ông không chỉ miêu tả vẻ đẹp của mùa thu với hình ảnh "thềm hiên" và "hoa cúc" mà còn gửi gắm tâm hồn mình vào bức tranh thiên nhiên. Vẻ đẹp mùa thu không chỉ đơn thuần là hình ảnh bên ngoài mà còn gợi tới những nỗi niềm riêng tư. Nguyễn Khuyến làm nổi bật sự gắn bó giữa lòng người và cảnh vật, nhấn mạnh sự thanh bình trong tâm hồn. Cảm xúc trong "Thu Vịnh" nhẹ nhàng, êm đềm nhưng vẫn đầy trăn trở về cuộc đời và sự mất mát.

Ngược lại, "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan lại mang một tấm lòng trĩu nặng, với nét buồn man mác giữa cảnh vật. Hình ảnh "đèo Ngang" trở thành biểu tượng cho những chặng đường gian nan trong cuộc sống. Qua mỗi câu thơ, bà diễn tả không chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là sự cô đơn, lẻ loi của một người phụ nữ trong dòng chảy của thời gian. Sự đối lập giữa cảnh đẹp thiên nhiên và tâm trạng nhân vật tạo nên một bức tranh đầy sắc thái, vừa bi thương, vừa nên thơ.

Về phong cách nghệ thuật, cả hai tác phẩm đều sử dụng ngôn ngữ tinh tế và hình ảnh giàu sức gợi. "Thu Vịnh" hướng tới sự nhẹ nhàng, êm dịu với những câu thơ mang đậm nhạc điệu, khiến người đọc cảm thấy thư giãn và gần gũi. Ngược lại, "Qua Đèo Ngang" lại thể hiện sự tráng lệ trong âm hưởng với những hình ảnh vừa cụ thể vừa ẩn dụ, làm nổi bật sự kết nối giữa thiên nhiên và tâm hồn con người.

Cuối cùng, cả hai bài thơ không chỉ phản ánh tình yêu thiên nhiên mà còn thể hiện nỗi lòng của người sáng tác. "Thu Vịnh" bộc lộ sự bình yên, một cách tìm về với cái đẹp đơn giản trong cuộc sống, trong khi "Qua Đèo Ngang" là tiếng khóc giữa cảnh đẹp, thể hiện sự cô đơn, bất lực trước dòng đời xô bồ.

Tóm lại, "Thu Vịnh" và "Qua Đèo Ngang" đều là những tác phẩm kiệt xuất trong nền thơ ca Việt Nam, mỗi bài thơ mang một vẻ đẹp và giá trị riêng. Qua việc so sánh hai tác phẩm, ta không chỉ thấy được khía cạnh nghệ thuật của mỗi tác giả mà còn hiểu sâu hơn về tâm tư, tình cảm và quan niệm sống của con người trong thời đại của họ. Cả hai bài thơ đều góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học lao động và tư tưởng của dân tộc, phản ánh tâm hồn Việt Nam với những vẻ đẹp tiềm ẩn và chiều sâu cảm xúc.

TOP 20 bài Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh 2024 SIÊU HAY (ảnh 2)

Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh - Mẫu 3

"Qua đèo ngang" và "Thu Vịnh" là hai bài thơ nổi tiếng của hai tác giả khác nhau trong văn học Việt Nam. Dưới đây là sự so sánh về điểm giống và khác nhau giữa hai bài thơ này:

Điểm Giống Nhau

Chủ Đề: Cả hai bài thơ đều phản ánh tâm trạng của tác giả trước vẻ đẹp thiên nhiên và bày tỏ những cảm xúc sâu lắng cá nhân.

Sử Dụng Hình Ảnh Thiên Nhiên: Cả "Qua đèo ngang" và "Thu Vịnh" đều sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Hình ảnh thiên nhiên trong hai bài thơ đều mang tính chất hoài cổ và gợi ra một không gian tĩnh lặng.

Tâm Trạng U Buồn: Cả hai bài thơ đều thể hiện một tâm trạng u buồn, tâm trạng của tác giả trước cảnh vật thiên nhiên, có sự hoài niệm và cảm xúc suy tư.

Điểm Khác Nhau

Tác Giả và Thời Gian:

"Qua đèo ngang" được viết bởi Bà Huyện Thanh Quan vào thế kỷ 19. Bài thơ được viết trong bối cảnh cuộc hành trình của tác giả qua đèo ngang, thể hiện tâm trạng của một người phụ nữ trong thời kỳ phong kiến.

"Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến, một nhà thơ nổi tiếng của thế kỷ 19, nhưng viết trong bối cảnh và thời điểm khác. Bài thơ thể hiện tâm trạng của tác giả khi chứng kiến cảnh sắc mùa thu và cảm xúc của mình đối diện với thiên nhiên.

Hình Ảnh và Đặc Trưng Thiên Nhiên:

"Qua đèo ngang" tập trung vào hình ảnh "đèo ngang" với cảnh vật hoang sơ, hùng vĩ. Cảnh vật trong bài thơ có sự kết hợp giữa vẻ đẹp hoang sơ và tâm trạng u uẩn của nhân vật trữ tình.

"Thu Vịnh" sử dụng hình ảnh mùa thu với "trời thu" và "cảnh sắc thu" để phản ánh tâm trạng của tác giả. Cảnh vật mùa thu trong bài thơ mang đến cảm giác nhẹ nhàng, thanh thản hơn.

Tâm Trạng và Cảm Xúc:

"Qua đèo ngang" thể hiện sự u buồn và hoài niệm của tác giả khi đứng trước cảnh vật đèo ngang hùng vĩ. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn và tâm trạng xa lạ của một người lữ hành qua vùng đất mới.

"Thu Vịnh" diễn tả tâm trạng của tác giả khi cảm nhận vẻ đẹp mùa thu, với sự thư thái và chiêm nghiệm về cuộc sống và thời gian. Nguyễn Khuyến phản ánh tâm trạng của một người yêu thích sự yên tĩnh, thanh bình của mùa thu.

Tâm Tư và Tầm Nhìn:

Trong "Qua đèo ngang", Bà Huyện Thanh Quan thể hiện tâm tư và cảm xúc cá nhân trước cảnh đẹp của thiên nhiên, có phần liên quan đến hoàn cảnh xã hội và cuộc sống của chính mình.

Trong "Thu Vịnh", Nguyễn Khuyến tập trung vào việc chiêm nghiệm vẻ đẹp thiên nhiên và cảm xúc của mình trong bối cảnh mùa thu, thể hiện sự sâu lắng và triết lý sống của một trí thức yêu thích thiên nhiên.

Tóm lại: Cả hai bài thơ đều sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Tuy nhiên, chúng khác nhau về bối cảnh, hình ảnh thiên nhiên, và tâm trạng của tác giả. "Qua đèo ngang" phản ánh sự u buồn và cảm giác xa lạ trong khi "Thu Vịnh" thể hiện sự chiêm nghiệm và thư thái trước vẻ đẹp mùa thu.

Nghị luận so sánh bài thơ Qua đèo ngang và bài thơ Thu Vịnh - Mẫu 4

Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân, cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ:

"Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”

trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.”

trích trong bài thơ “Sóng“ của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như thế.

Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại được nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình.

Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình, chính trị; mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thương mến; đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết, luôn khát vọng về một hạnh phúc đời thường.

Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hướng tới đề tài tình yêu lứa đôi.

Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tình lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trích trong bài Việt Bắc là lời người ra đi đáp lại người ở lại.

Bốn câu thơ giống như một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trước sau như một mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bào Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình - ta” được sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng như “mình”. Tình cảm của người về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng. Tình cảm ấy còn được khẳng định bằng một hình ảnh thơ so sánh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của người Việt Nam nước trong nguồn là dòng nước không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. Ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu,… bấy nhiêu”. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận.

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ được viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhưng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu.

Ở khổ thơ trên “Sóng” được khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngược”. Sóng dù xuôi về hướng Bắc, dù ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn hướng về bờ:

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.”

Thông thường người ta hay nói xuôi Nam, ngược Bắc nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam, dường như cái lô-gic của lí trí thông thường đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau. Cách nói ấy cũng khiến người đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vượt qua.

Con “sóng” kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngược tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hướng về “phương anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đưa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phương trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thơ anh vẫn mới là bến bờ hạnh phúc, là nơi duy nhất em tìm về. Ý thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy. Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phương nào thì em cũng hướng về phương anh. Câu thơ giống như một lời nguyện thề thủy chung, da diết, đằm thắm.

Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch "lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thương, mong nhớ, có cả phấp phỏng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩ thường xuyên, thường trực trong lòng, canh cánh trong lòng. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là sự suy tư, chín chắn, sâu sắc. Người con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong tình yêu.

Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của người phụ nữ, sự thủy chung son sắt duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng người yêu thương phải xứng đáng với mình.

Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thương của một tình yêu con người, đất nước trong lòng người bởi một tình cảm đẹp, sự thủy chung son sắt không đổi thay. Trên phương diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhưng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhưng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh như một lời thề.

Tình cảm trong đoạn thơ Việt Bắc là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt Bắc ân tình đùm bọc, cưu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến. Còn tình cảm trong “Sóng” là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một phụ nữ đang yêu vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hướng về một nơi ở phương anh một cách chung thủy, sắt son.

Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng - đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt, sâu sắc.

Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn với ca dao đậm đà, còn Xuân Quỳnh thì mãnh liệt, nồng nàn. Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam yêu thương đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung, son sắt.

Đánh giá

5

1 đánh giá

1