Lời giải bài tập Lịch Sử lớp 9 Bài 11: Khu vực Mỹ La-tinh từ năm 1945 đến năm 1991 sách Cánh diều hay, ngắn gọn sẽ giúp học sinh xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập môn Lịch sử 9. Mời các bạn đón xem:
Giải bài tập Lịch sử 9 Bài 11: Khu vực Mỹ La-tinh từ năm 1945 đến năm 1991
Trả lời:
- Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mỹ ở Mĩ Latinh bùng nổ, đã giành được thắng lợi to lớn. Sau khi khôi phục độc lập, giành được chủ quyền, các nước Mĩ Latinh bước vào thời kì xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Một số nước đã trở thành nước công nghiệp mới (viết tắt theo tiếng Anh là NICs) như Braxin, Áchentina, Mêhicô.
- 1959, cách mạng Cu-ba giành thắng lợi, nước Cộng hòa Cu-ba ra đời. Từ 1959 - nay, Cu-ba bắt tay vào xây dựng và phát triển đất nước, đạt được nhiều thành tựu.
I. Khái quát khu vực Mỹ La-tinh từ năm 1945 đến năm 1991
Câu hỏi trang 53 Lịch Sử 9: Mô tả đôi nét về các nước Mỹ La-tinh từ năm 1945 đến năm 1991.
Trả lời:
- Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Mỹ La-tinh trở thành “sân sau” của Mỹ, tồn tại nhiều chế độ độc tài.
+ Năm 1959, cách mạng Cu-ba giành thắng lợi bằng đấu tranh vũ trang. Sự kiện này có tác động lớn đến các nước trong khu vực.
+ Những năm 60 - 80 của thế kỉ XX, phong trào đấu tranh ở Mỹ La-tinh bùng nổ mạnh mẽ và giành thắng lợi. Mỹ La-tinh được ví như “Lục địa bùng cháy”.
- Cùng với cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài, các nước Mỹ La-tinh đã tiến hành xây dựng và phát triển đất nước, đạt được được nhiều thành tựu quan trọng như: củng cố độc lập chủ quyền, dân chủ hoá sinh hoạt chính trị, tiến hành các cải cách kinh tế….
- Các nước Mỹ La-tinh thành lập các tổ chức liên minh khu vực cùng hợp tác và phát triển kinh tế.
II. Cu-ba
Trả lời:
- Tháng 3-1952, với sự giúp đỡ của Mỹ, tướng Ba-ti-xta làm đảo chính, thiết lập chế độ độc tài quân sự ở Cu-ba. Chính quyền Ba-ti-xta đã xoá bỏ bản Hiến pháp tiến bộ, cấm các đảng phái chính trị hoạt động và bắt giam hàng vạn người yêu nước. Trong bối cảnh đó, các tầng lớp nhân dân Cu-ba đã bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền độc tài.
- Tiến trình cách mạng Cu-ba:
+ Ngày 26/7/1953, 135 thanh niên do Phi-đen Cát-xtơ-rô chỉ huy tấn công pháo đài Môn-ca-đa nhưng không thành công.
+ Năm 1955, Sau hai năm bị giam cầm, Phi-đen Cát-xtơ-rô được trả tự do, sang Mê-hi-cô gây dựng lực lượng, mua sắm vũ khí, thành lập tổ chức "Phong trào 26-7".
+ Tháng 11-1956, Phi-đen Cát-xtơ-rô cùng 81 chiến sĩ yêu nước trở về trên con tàu Gran-ma, nhưng bị chặn đánh, phải rút lui lên núi lập căn cứ.
+ Cuối năm 1958, nghĩa quân tổng công kích tiến xuống đồng bằng, giải phóng các đô thị và nhiều vùng nông thôn.
+ Ngày 1-1-1959, nghĩa quân tiến vào giải phóng thủ đô La Ha-va-na. Chế độ độc tài Ba-ti-xta bị lật đổ, cách mạng Cu-ba giành thắng lợi. Nước Cộng hoà Cu-ba được thành lập.
Trả lời:
- Từ năm 1961 đến năm 1991, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cu-ba bước đầu đạt những thành tựu như:
+ Xây dựng được một nền công nghiệp với hệ thống cơ cấu ngành phù hợp;
+ Nền nông nghiệp đa dạng; giáo dục, y tế, văn hoá và thể thao phát triển.
+ Cu-ba có quan hệ mật thiết với các nước xã hội chủ nghĩa, ủng hộ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
- Đến những năm 80 - 90 của thế kỉ XX, trước chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ cùng biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô, nhân dân Cu-ba đứng trước những khó khăn, thách thức lớn. Trong hoàn cảnh đó, Cu-ba vẫn kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Luyện tập - Vận dụng
Trả lời:
(*) Sơ đồ 1: Tình hình các nước Mỹ Latinh
(*) Sơ đồ 2: Cách mạng Cu-ba
Trả lời:
(*) Tham khảo:
Có thể nói, trong lịch sử thế giới đương đại, hiếm có mối quan hệ nào đặc biệt như quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Cuba. Mối quan hệ tốt đẹp này đã được các nhà lãnh tụ cách mạng tiền bối José Martí, Fidel Castro, Hồ Chí Minh, cũng như các thế hệ lãnh đạo Cuba và Việt Nam dày công vun đắp. Chính Anh hùng dân tộc José Martí là người đầu tiên gieo mầm cho những tình cảm thân thiết giữa Việt Nam - Cuba và nhân dân hai nước qua tác phẩm “Một cuộc dạo chơi trên mảnh đất những người An Nam” đăng trên Tạp chí “Tuổi vàng” dành cho thiếu nhi Cuba từ cuối thế kỷ XIX. Tổng Tư lệnh cách mạng Cuba Fidel Castro - người học trò và cũng là người kế tục xuất sắc nhất tư tưởng của Anh hùng dân tộc José Martí - đã khẳng định, Việt Nam và Cuba tuy về mặt địa lý cách nhau nửa vòng trái đất, nhưng có rất nhiều điểm chung. Theo Tổng Tư lệnh Fidel Castro, tình hữu nghị anh em giữa hai nước đã được sinh ra và lớn lên trong tương đồng lịch sử của hai dân tộc cùng đấu tranh chống kẻ thù chung.
Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, kể từ ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1960), hai dân tộc Việt Nam - Cuba đã luôn kề vai sát cánh trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước.
Việt Nam mãi mãi ghi nhớ với lòng biết ơn sâu sắc về sự ủng hộ mạnh mẽ và giúp đỡ chí tình mà Đảng Cộng sản và nhân dân Cuba anh em đã dành cho nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tình đoàn kết thủy chung, trong sáng, đầy tinh thần quốc tế cao cả đó của Cuba được thể hiện vô cùng sinh động trong những câu nói bất hủ của Tổng Tư lệnh Fidel Castro: “Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”, “Trong hòa bình, Cuba sẵn sàng đổ mồ hôi để góp phần xây dựng lại Việt Nam mười lần to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn”. Về phần mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “Việt Nam và Cuba cách xa nhau hàng vạn dặm nhưng lòng dân hai nước gần gũi như anh em một nhà”(1). Thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Việt Nam luôn khẳng định: “Đoàn kết, ủng hộ Cuba là lương tâm và trách nhiệm của những người cộng sản và toàn thể nhân dân Việt Nam!”.
Xem thêm các bài giải bài tập Lịch Sử lớp 9 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Bài 10. Châu Á từ năm 1945 đến năm 1991
Bài 11. Khu vực Mỹ La-tinh từ năm 1945 đến năm 1991
Bài 12. Việt Nam trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Bài 13. Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1954
Bài 14. Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975
Bài 15. Việt Nam từ năm 1975 đến 1991