Bố cục bài Và tôi vẫn muốn mẹ chuẩn nhất - Kết nối tri thức

2.1 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bố cục bài Và tôi vẫn muốn mẹ Ngữ văn lớp 11 bộ Kết nối tri thức chuẩn nhất gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như bố cục, nội dung chính và tóm tắt văn bản hay nhất. Từ đó giúp học sinh nắm được những nét chính về nội dung của văn bản để học tốt môn Ngữ văn 11.

Bố cục bài Và tôi vẫn muốn mẹ chuẩn nhất

Bố cục Và tôi vẫn muốn mẹ

Văn bản Và tôi vẫn muốn mẹ gồm 3 phần:

- Phần 1 (Lớp một...không có chiến tranh): Chuyến di tản khỏi chiến tranh của nhân vật tôi.

- Phần 2 (Họ chở chúng tôi...hái tầm ma mà): Cuộc sống khó khăn, gian khổ trong chiến tranh.

- Phần 3 (Còn lại): Mong ước của nhân vật tôi.

Bố cục Và tôi vẫn muốn mẹ (Kết nối tri thức) chính xác nhất (ảnh 1)

Nội dung chính Và tôi vẫn muốn mẹ

Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích khắc họa một bức tranh chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ như nhân tôi hồn nhiên, ngây thơ nhưng mang những tình cảm thiêng liêng và tình cảm đầy sâu nặng của người mẹ. Từ đó giúp con người biết trân trọng cuộc sống hòa bình và càng yêu thương gia đình hơn.

Tóm tắt Và tôi vẫn muốn mẹ

Nhân vật tôi, như một đứa trẻ trong chiến tranh, luôn mang trong mình nỗi nhớ nhung về bố mẹ và mong muốn gặp lại họ. Dù đã trải qua rất nhiều khó khăn, đói khát, mất mát và cô độc nhưng tôi vẫn không bao giờ từ bỏ hy vọng tìm được bố mẹ của mình. Trong cuộc sống của tôi, những ký ức về chiến tranh còn vẹn nguyên như những chiếc lá khô trong mùa thu. Tôi vẫn còn nhớ đến những ngày trẻ thơ đầy hạnh phúc, nơi có bố mẹ, nơi có gia đình. Nhưng bây giờ, chỉ còn lại tôi và những đứa trẻ khác phải chịu đựng sự đau khổ trong chiến tranh. Chúng tôi phải tìm kiếm mọi cách để tồn tại, để sống sót qua những ngày đen tối. Những đêm tôi thức khuya, tôi lại nghĩ về bố mẹ. Tôi ước ao được gặp lại họ, ôm lấy họ và nói rằng tôi rất nhớ và yêu thương họ. Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc sống của tôi đã đổi thay hoàn toàn kể từ khi bước chân vào thế giới đầy khắc nghiệt của chiến tranh. Mặc dù đã tìm kiếm mọi nơi, nhưng tôi vẫn không tìm thấy bố mẹ của mình. Những nỗ lực của tôi để tìm kiếm bố mẹ đã trở thành một cuộc phiêu lưu dài và cảm giác mệt mỏi đã dần tràn ngập trong tâm hồn tôi. Mặc dù tôi đã trưởng thành và có cuộc sống mới nhưng tôi vẫn luôn nhớ về bố mẹ của mình. Tôi vẫn mong muốn có thể gặp lại họ, ôm lấy họ và nói rằng tôi rất nhớ và yêu thương họ. Nỗi nhớ về bố mẹ vẫn đeo bám tôi như một chiếc áo quá khứ và tôi vẫn luôn muốn tìm kiếm họ, mãi mãi.

Soạn bài “Và tôi vẫn muốn mẹ...” | Kết nối tri thức Ngữ văn lớp 11

Ý nghĩa nhan đề Và tôi vẫn muốn mẹ

Nhân vật chính của câu chuyện là một cậu bé, luôn mong muốn gặp lại mẹ của mình. Nhưng dù tìm kiếm đến mọi nơi, anh không tìm được mẹ của mình và đành chấp nhận sự thật đau lòng rằng mẹ của anh có thể đã mất tích trong chiến tranh. Tuy nhiên, anh vẫn giữ hy vọng và nhớ mãi về mẹ của mình.

Giá trị nội dung Và tôi vẫn muốn mẹ

Tác phẩm “Và tôi vẫn muốn mẹ…” của A-lếch-xi-ê-vích cho chúng ta thấy được một bức tranh hiện thực về chiến tranh khốc liệt, nhưng ở đó vẫn có những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, mang trong mình những tình cảm thiêng liêng. Từ đó, ta càng trân trọng cuộc sống hòa bình hiện nay và càng yêu thương gia đình hơn.

Giá trị nghệ thuật Và tôi vẫn muốn mẹ

- Truyện kí một thể loại mang đậm dấu ấn về khắc họa nhân vật

- Ngôn ngữ giàu sức biểu cảm

- Câu từ dễ hiểu và hợp lí

Đọc tác phẩm Và tôi vẫn muốn mẹ

Din-na Cô-si-ắc (Zina Kosyak) – tám tuổi. Hiện là thợ tóc

Lớp Một.

Tôi học xong lớp Một vào tháng Năm năm bốn mốt, và ba mẹ tiễn tôi đi trại hè đội viên ở Gô-tô-đi-sa (Gorodisha) gần Min-xcơ (Minsk). Tôi mới bơi được một lần ở đây, hai ngày sau đã là chiến tranh. Người ta đưa chúng tôi lên tàu và chở đi. Máy bay Đức bay trên đầu, còn chúng tôi hò reo: “Ura 7”. Chúng là máy bay lạ, chúng tôi nào hiểu. Cho đến khi máy bay đánh bom. Khi đó tất cả màu sắc đều biến mất.

Tất cả sắc màu. Lần đầu tiên từ “chết chóc” xuất hiện, mọi người đều nói cái từ khó hiểu đó. Còn ba mẹ thì không bên cạnh...

Khi chúng tôi rời khỏi trại, người ta bỏ đầy áo gối mỗi đứa thứ gì đó - đứa thì ngũ cốc, đứa thì đường. Cả những đứa bé nhất cũng không được chừa, tất cả đều phải mang gì đó theo mình. Chúng tôi phải mang càng nhiều thực phẩm càng tốt trên đường đi, và dùng rất dè sẻn. Nhưng trên tàu chúng tôi thấy những người lính bị thương. Họ rên la, đau đớn đến độ chúng tôi chỉ muốn trao hết tất cả cho. Chúng tôi gọi đó là: “Cho các ba án”. Chúng tôi gọi tất cả những người đàn ông mặc đồ lính là ba.

Người ta kể với chúng tôi là Min-xcơ đã cháy, cháy rụi, quân Đức đã chiếm mất rồi, nên chúng tôi sẽ đi về hậu phương. Chúng tôi đi về nơi không có chiến tranh. Họ chở chúng tôi đi cả tháng. Đưa chúng tôi về thành phố nào đó, nhưng cứ gần tới nơi, họ lại không để chúng tôi ở đó, vì quân Đức đã gần kể. Và cứ thế chúng tôi đến tận Mô-đô-vi-a (Mordovia).

Chỗ ấy rất đẹp, xung quanh là nhà thờ. Những ngôi nhà thấp, còn nhà thờ thì cao. Không có chỗ nằm ngủ, chúng tôi đành chợp mắt trên rơm rạ. Khi mùa đông đến, bốn đứa chung một đôi ủng. Rồi nạn đói bắt đầu. Không chỉ trại mồ côi đói, mà những người xung quanh chúng tôi cũng đói, bởi mọi thứ đều chuyển ra tiền tuyến. Trong trại có hai trăm năm mươi đứa trẻ, và có lần người ta gọi đi ăn trưa, nhưng chẳng có gì để ăn. Những cô bảo mẫu và giám đốc ngồi trong nhà ăn nhìn chúng tôi, mắt họ đầy lệ. Chúng tôi có con ngựa Mai-ca (Maika). Nó già và rất dịu dàng chúng tôi dùng nó để chở nước. Ngày hôm sau, người ta giết Mai-ca. Và cho chúng tôi nước cùng một mẩu rất nhỏ thịt Mai-ca. Người ta giấu chúng tôi chuyện đó rất lâu. Không thì chúng tôi đã không thể nào ăn nổi. Không cách nào! Đó là con ngựa duy nhất trong trại trẻ chúng tôi. Và hai con mèo đói nữa. Những bộ xương! Thật tốt, sau này chúng tôi nghĩ, phúc đức làm sao, nhờ lũ mèo gầy trơ xương nên chúng tôi không phải ăn chúng. Chúng chẳng có gì để ăn cả.

Chúng tôi đi với những cái bụng ông như tôi chẳng hạn, có thể ăn cả xô xúp, bởi trong xúp chẳng có gì. Họ đổ cho tôi bao nhiêu, tôi sẽ ăn và ăn bấy nhiêu. Thiên nhiên đã cứu chúng tôi, những con vật nhai lại. Mùa xuân, trong bán kính vài cây số không một cái cây nào dâm chồi nẩy lộc. Bởi chúng tôi đã ăn hết tất cả chồi mầm, chúng tôi tước cả lớp vỏ non. Chúng tôi ăn cỏ, ăn sạch. Người ta cho chúng tôi mặc những chiếc áo khoác ngắn, chúng tôi khoét túi áo để mang cỏ theo người, mang theo và nhai đi nhai lại. Mùa hè cứu độ chúng tôi, còn mùa đông trôi qua rất nặng nề. Những đứa trẻ nhỏ, chúng tôi có khoảng bốn mươi đứa, được cho ở riêng. Ban đêm chúng tôi khóc rền. Gọi ba gọi mẹ.

Các cô bảo mẫu và giáo viên cố không nhắc đến từ “mẹ” khi có mặt chúng tôi. Họ kể cho chúng tôi chuyện cổ tích và chọn những quyển sách không có từ này. Nhưng nếu ai đó bất ngờ nhắc đến “mẹ”, lập tức tất cả khóc oà. Gào khóc không nguôi.

Tôi học lại lớp Một, bởi cơ sự thế này: Tôi đã kết thúc lớp Một với bằng khen, nhưng khi tới trại mồ côi và người ta hỏi em nào bị thi lại, tôi đáp là em, vì tôi nghĩ: Thi lại tức là bằng khen. Đến lớp Ba, tôi trốn khỏi trại. Tôi đi tìm mẹ. Đói là và kiệt sức, tôi được ông già Bôn-sa-cốp (Bolshakov) tìm thấy trong rừng. Biết tôi từ trại mồ côi, ông mang tôi về gia đình mình. Cùng với bà, ba người chúng tôi sống đáp đổi qua ngày. Khi dần khoẻ lên, tôi bắt đầu giúp họ việc nhà: dọn cỏ, thu hoạch khoai tây - làm hết mọi việc. Chúng tôi ăn thứ bánh mì có rất ít bột mì. Nó đắng – đẳng làm sao.

Chúng tôi cho vào bột tất tần tật những gì xay ra được: rau muối, hoa hồ đào, khoai tây. Đến giờ tôi vẫn không thể thản nhiên nhìn cỏ mọng và ăn rất nhiều bánh mì. Tôi không cảm thấy no. Sau hàng chục năm trôi qua.

Dẫu sao tôi vẫn nhớ bao nhiêu chuyện. Tôi còn nhớ nhiều... Tôi nhớ một bé gái điên, lẻn vào vườn ai đó, tìm thấy một cái hang và đứng đó canh chuột. Em muốn ăn. Tôi nhớ gương mặt em, thậm chí cả cái áo không tay mà em mặc. Có lần tôi lại gần em, ern kể tôi nghe về con chuột. Rồi chúng tôi cùng ngồi canh con chuột đó.

Suốt cuộc chiến tôi đã đợi, đợi khi nào chiến tranh chấm dứt, sẽ thắng con ngựa của ông đi tìm mẹ. Khi những người tản cư ghé qua nhà, tôi luôn hỏi họ: “Mọi người có gặp mẹ cháu không?”. Người sơ tán đồng lắm, đồng đến nỗi mỗi nhà đều có một nồi nước tầm ma. Để người tị nạn có chút gì đó ấm áp mà hớp khi họ ghé qua. Ngoài ra chẳng có gì cho họ cả. Những cái nồi tầm ma ở mỗi nhà... Tôi nhớ rất rõ. Tôi là người đi hái tầm ma mà.

Chiến tranh kết thúc. Tôi đợi một, rồi hai ngày, nhưng không ai đến đón tôi. Mẹ không đến, và ba thì tôi biết, đang ở trong quân ngũ. Tôi đợi như thế suốt hai tuần, đến khi không còn sức để đợi nữa. Tôi lẻn trốn dưới gầm ghế một con tàu và ra đi...

Đi đâu? Tôi không biết. Tôi ngỡ (đó vẫn còn là nhận thức tuổi thơ) rằng tất cả các chuyến tàu đều đến Min-xoa. Và ở Min-xcơ mẹ đang chờ tôi! Sau đó ba tôi sẽ về.

Như một anh hùng! Với các huân chương mề đay,...

Nhưng họ đã mất tích đâu đó trong một trận bom.

Sau này những người láng giềng kể lại, cả hai đã lao đi tìm tôi. Họ chạy ra ga...

Tôi đã năm mươi mốt tuổi, tôi có hai con. Và tôi vẫn còn muốn mẹ.

 (Xvét-la-na A-léch-xi-ê-vích. Những nhân chứng cuối cùng – Solo cho giọng trẻ em, Phan Xuân Loan dịch, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2017, tr. 21 – 24)

Xem thêm các bài bố cục tác phẩm Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Bố cục Ai đã đặt tên cho dòng sông

Bố cục Và tôi vẫn muốn mẹ

Bố cục Cà Mau quê xứ

Bố cục Cây diêm cuối cùng

Bố cục Nữ phóng viên đầu tiên

Đánh giá

0

0 đánh giá