Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích tác phẩm văn học Tự trào I Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo gồm 3 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Phân tích tác phẩm văn học Tự trào I
Đề bài: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học - Tự trào I.
Dàn ý phân tích bài Tự trào
I. Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả và tiêu đề bài thơ.
+ Nêu ngắn gọn nội dung chính của bài thơ.
II. Thân bài
a. Xác định số lượng và loại câu thơ trong bài.
+ Phân tích cách sắp xếp câu thơ, nhịp điệu và âm điệu của bài thơ.
b. Phân tích ngôn ngữ và hình ảnh trong bài thơ tự trào
+ Tìm hiểu các từ ngữ, ngữ cảnh và ý nghĩa của chúng.
+ Phân tích hình ảnh được sử dụng trong bài thơ và ý nghĩa mà chúng mang lại.
c. Phân tích ý nghĩa và thông điệp của bài thơ tự trào
+ Tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của bài thơ.
+ Phân tích thông điệp mà tác giả muốn truyền tải qua bài thơ.
d. Nhận xét về bài thơ tự trào
+ Đánh giá về cách viết, cấu trúc và ngôn ngữ của bài thơ.
+ Nhận xét về sức mạnh và hiệu quả của bài thơ tự trào.
III. Kết bài:
+ Tóm tắt lại những điểm chính đã phân tích trong bài.
+ Đưa ra nhận định cuối cùng về bài thơ tự trào của Nguyễn Khuyến.
Phân tích tác phẩm văn học Tự trào I - Mẫu 1
Nhìn vào thế giới mỹ học tiếng cười Việt Nam thì hầu như nhà trào phúng lớn nào cũng tự trào, lấy mình ra làm đối tượng để mà tự chế giễu, tự mỉa mai mình. Trong đó Nguyễn Khuyến “tự trào” nhiều nhất, cũng đa dạng sắc thái nhất, chiếm khoảng hơn 30% tổng số tác phẩm của ông. Tiếng cười trẻ trung, lạc quan, trong sáng có từ thời trẻ và sau này là hóm hỉnh, tinh quái thấm đậm vào trong từng cái nhìn, từng ý, từng chữ.
Có một giọng cười như ngang ngạnh, gàn dở, say mèm: “Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang/ Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng/ Mở miệng nói ra gàn bát sách/ Mềm môi chén mãi tít cung thang…” . Một loạt những hình ảnh tự họa như rất xa lạ để làm hiện ra một con người bi kịch. Bi kịch muốn từ quan để giữ lấy sự trong sạch nhưng bị giằng xé với “ân vua”, muốn phục vụ vua.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Cười mình là kẻ “chạy làng” vô trách nhiệm trước thời cuộc cũng là tự giễu cợt sự bất lực của bản thân. Trong khi người đời lo lắng thì mình lại vô tâm, chẳng giúp gì đời, cũng chẳng làm gì hại đời. Thế nên có lúc thấy mình vô tích sự, là “người thừa”. Đấy là tiền đề cho tiếng cười tự mình mỉa mai mình!
Tiếng cười thêm chua xót, ngậm ngùi hơn. Có một sự chơi chữ thâm thúy: “Cờ đang dở cuộc không còn nước”. Vì “không còn nước” tức ván cờ hết nước đi, cũng là chuyện mất nước nên vua cũng không còn thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là quan phường chèo thôi: “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”!
Không làm gì được cho dân, cho nước nên mới hổ đất thẹn trời. Tấm lòng ấy đáng được cảm thông, kính trọng. Khác với việc tự khẳng định mình trước đây, bây giờ Nguyễn Khuyến giễu cợt mình một cách chua chát. Mà xét kỹ phê phán, phủ định cũng chính là để khẳng định một chân lí nào đó.
Nhà nho Nguyễn Khuyến đem “cái tôi” mình ra để tự chế giễu, tự chê trách cũng là cách trào phúng cả một tầng lớp đại diện nền học vấn đã hết thời. Danh vị tiến sĩ nay đã trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi để “dứ thằng cu”, mà mỗi lần nhìn thấy thứ hình nộm ông Tiến sĩ là đồ chơi của trẻ, Nguyễn Khuyến lại tự bỡn cợt: “Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ/ Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”.
Bên ngoài lời nói là cười nhạo bản thân, tự ti, tự trách mình kém cỏi nhưng nhìn sâu vào bên trong mới thấy đó là bản lĩnh, là sự tự ý thức về giá trị của bản thân. Vì cười mình là giễu đời. Vậy phủ định cũng là khẳng định!
Bên trong con người Nguyễn Khuyến là sự khủng hoảng về lý tưởng của một bậc đại khoa đọc sách thánh hiền cùng cái tài học hăm hở giúp nước bỗng trở nên vô nghĩa, không đủ tài năng và bản lĩnh để ứng xử trong một tình thế hoàn toàn mới – một hoàn cảnh xã hội phong kiến nửa thực dân lố lăng. Tất yếu dẫn đến những bi kịch giằng xé.
Bi kịch bị đẩy lên cao khi nhà thơ thất vọng sâu sắc trước một thực tế quá xa so với nhận thức giáo điều trước đó. Triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, ký Hiệp ước hàng giặc Pháp. Ở chốn quan trường bao cảnh ngang tai trái mắt, vua không ra vua, tôi không ra tôi, xã hội biến động, đổi trắng thay đen, không đành lòng làm quan, ông quyết tâm rũ bỏ “bụi đời” trở về với Yên Đổ (1883).
Thực sự đau đớn khi nhận thấy học vấn của mình không đem lại lợi ích gì cho nước nhà, ông theo con đường mà người xưa đã chọn – ở ẩn, tắm mình vào thiên nhiên, gửi hồn mình vào chốn làng quê.
Nhưng sự day dứt “quân thần phụ tử” không thể dứt hẳn, vẫn phải trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến sự đảo lộn ghê gớm ngoài xã hội… nên nhà trào phúng dùng tiếng cười, vừa để gửi gắm tâm trạng, vừa để cười mình, cười đời.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Hình tượng một ông lão già như đang trong cơn say ngật ngưỡng. Điều này chứng tỏ ông chỉ mượn rượu chứ không hám rượu, càng không phải say rượu. Rượu là phương tiện để trốn đời, lánh đời, đời đáng chán thì chưa muốn “chừa”, vì có chừa được thì càng đáng buồn hơn!
Tiếng cười tự trào Nguyễn Khuyến có đặc điểm cái bi lấn át, trội hơn cái hài. Điều đó xuất phát bởi chính cuộc đời ông và thời cuộc nhiễu nhương bấy giờ. Nhìn chung “Tự trào” là một bài thơ hay, thâm thúy, là tiếng nói châm biếm, trào phúng của Nguyễn Khuyến để người đời sau hiểu hơn về lý do lui về ở ẩn của ông.
Phân tích tác phẩm văn học Tự trào I - Mẫu 2
Bài thơ "Tự Trào" là một tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Khuyến, một trong những nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam là một tác phẩm văn học vô cùng nổi tiếng của văn học Việt Nam, với nội dung sâu sắc và phong cách viết độc đáo. Trước khi bắt đầu phân tích, ta có thể nhìn nhận rằng bài thơ này tập trung vào việc thể hiện sự hối tiếc và tiếc nuối của tác giả đối với quá khứ, đồng thời thể hiện tình cảm thiêng liêng với đất nước và dân tộc. Bài thơ được viết vào năm 1936 và thuộc thể loại thơ tự do.
"Tự Trào" là một bài thơ tâm sự, thể hiện tâm trạng của người viết khi đối diện với những khó khăn, thất bại và cảm giác cô đơn trong cuộc sống. Từng câu thơ chứa đựng những suy tư sâu sắc về sự thất vọng, hy vọng và ý nghĩa của cuộc sống.Bài thơ được chia thành ba phần. Phần đầu tiên miêu tả cảnh thiên nhiên u ám, tượng trưng cho tâm trạng buồn bã và cô đơn của người viết. Phần thứ hai tả lại những khát vọng và hi vọng đã tan biến Phần cuối cùng là sự tự trào của người viết, thể hiện sự thất vọng và tuyệt vọng trước cuộc sống.Bài thơ "Tự Trào" của Nguyễn Khuyến không chỉ là một tác phẩm thơ cá nhân mà còn là một tấm gương cho sự tương đồng của tâm trạng con người trong cuộc sống.
Câu thơ "Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang, Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng" trong bài thơ "Tự Trào" của Nguyễn Khuyến thể hiện một tâm trạng của tác giả về bản thân mình và về cuộc sống. Đến với hai câu thơ đầu tiên, ta thấy được tâm trạng buồn và cô đơn của người viết được thể hiện qua từng nét chữ, hình ảnh thơ cũng nghệ thuật đặc sắc:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Câu thơ này mô tả một trạng thái trung lập, không nổi bật, không quá xuất sắc trong bất kỳ khía cạnh nào. Tác giả không tự hào về sự giàu có, về vẻ đẹp hoặc sức khoẻ ngoại hình của mình. Thay vào đó, ông miêu tả một trạng thái "chẳng giàu mà cũng chẳng sang", không có sự phô trương về vật chất, địa vị hay quyền lực.
Thú vị ở đây là cách Nguyễn Khuyến sử dụng từ ngữ "chẳng" để nêu bật sự trung lập, không nổi bật, nhấn mạnh vào việc không có điều gì đặc biệt về bản thân. Từ "làng nhàng" thường có ý nghĩa là điều nhẹ nhàng, không ồn ào, không quá rực rỡ. Tác giả có thể muốn diễn đạt rằng mình không có những đặc điểm nổi bật, không đặc sắc nhưng vẫn tồn tại, sống qua cuộc sống bình dị, nhẹ nhàng và bình yên.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
"Cờ đương dở cuộc không còn nước" có thể được hiểu như là một biểu tượng cho trò chơi cờ đang ở trong tình trạng không thể tiếp tục do đã hết nước đi. Cờ đương dở thường ám chỉ một cuộc chiến, một trận đấu, và khi không còn nước để tiếp tục, nó tượng trưng cho sự kết thúc, thất bại trong một cuộc đối đầu.
"Bạc chửa thâu canh đã chạy làng" đề cập đến hình ảnh một người nông dân, người làm ruộng đã dừng việc canh tác vườn đất của mình (bạc) trước khi hoàn thành việc thâu thu hoạch, và sau đó đã rời làng đi, chạy trốn. Hình ảnh này tượng trưng cho việc từ bỏ, không hoàn thành nhiệm vụ, hoặc sự chán nản và mất đi hy vọng.
Cả hai câu thơ này cùng nhau tạo nên một bức tranh về sự thất bại, mất mát và bất lực. Tác giả có thể muốn truyền đạt thông điệp về sự khốn khó, thất vọng và cảm giác mất mát không chỉ trong cuộc sống cá nhân mà còn có thể liên quan đến hoàn cảnh của đất nước, xã hội vào thời điểm đó.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
"Mở miệng nói ra gàn bát sách" - "Gàn bát sách" là hình ảnh ẩn dụ cho việc những lời nói ra chỉ là lời nói suông trên lý thuyết, nói không có chứng cứ, chỉ dựa trên những điều phi thực tế. Những lời nói trên không có sức thuyết phục, thậm chí còn khiến ta chán ghét bởi tính phi lý của nó.
"Mềm môi chén mãi tít cung thang" - Hình ảnh mềm môi có thể ám chỉ việc nói nhẹ nhàng, không quyết đoán, không thể thể hiện sự mạnh mẽ và quyết đoán. "Chén mãi tít cung thang" tượng trưng cho việc không thể đạt được sự tiến triển, không thể thay đổi hoặc cải thiện tình hình.
Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Câu thơ "Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ, Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng" trong bài thơ "Tự Trào" của Nguyễn Khuyến thể hiện một tâm trạng phản chiếu về sự thất vọng với bản thân, nhưng cũng đồng thời nhấn mạnh sự giống nhau, đồng điệu giữa bản thân và những người khác.
"Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ" thể hiện tâm trạng tự ti, không hài lòng với chính bản thân. Từ "ngán" có thể hiểu là cảm thấy chán chường, không hài lòng với bản thân, có thể do sự so sánh, tự đánh giá mình thấp hơn.
"Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng" có thể hiểu là dù cảm thấy bất mãn với bản thân, nhưng cũng có những điểm giống với người khác, có những điểm mạnh của bản thân. "Bia xanh" và "bảng vàng" có thể tượng trưng cho việc có những đặc điểm, thành tựu đáng tự hào, nhưng tác giả không thể hoàn toàn thỏa mãn với những điều đó.
Cả hai câu thơ này tập trung vào việc miêu tả tâm trạng phân vân, thất vọng trong việc đánh giá bản thân, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh vào việc có điểm giống nhau, cảm thấy như mình cũng không khác biệt quá nhiều so với người khác. Điều này có thể thể hiện tâm trạng phức tạp và sự đối lập trong việc tự nhìn nhận bản thân của tác giả.
Qua bài thơ "Tự Trào", Nguyễn Khuyến đã gửi gắm nhiều cảm xúc, tâm trạng và tình cảm sâu sắc của mình với người đọc, từ đó để lại ấn tượng sâu đậm về tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc và sự đau lòng khi xa cách với nơi mình sinh ra. Quả là một tác phẩm mãi mãi trường tồn với thời gian.
Phân tích tác phẩm văn học Tự trào I - Mẫu 3
Khi viết thơ, viết văn châm biếm, các tác giả thường xéo xắt những vấn đề trong xã hội và biến nó thành đề tài. Nhưng hiếm ai như Nguyễn Khuyến, ông viết thơ tự trào, là trào chính bản thân của mình! Người ta nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ làng cảnh Việt Nam, với chùm thơ thu lãng mạn tinh tế. Nhưng chẳng ai biết, trong Tự trào, Nguyễn Khuyến lại trở thành một vị quan bất tài tự trào phúng chính bản thân mình!
Tự trào được viết trong khi Nguyễn Khuyến cáo lão hồi hương, khi đất nước bị giặc xâm lăng nhưng ông chỉ có thể đứng nhìn. Là người đề danh bảng vàng, được ca tụng học rộng tài cao nhưng lúc này, ông cũng chẳng biết làm gì. Hết lời khuyên can nhưng không được, ông chán nản bỏ về quê vì không muốn chứng kiến cảnh xót thương. Nhưng cũng chính vì vậy, ông coi thường bản thân và viết nên bài thơ Tự trào trong khi đang ở quê. Không chỉ vậy, bài thơ còn là lời châm biếm xã hội lúc bấy giờ, những kẻ quan cao chức lớn để dân thường chịu khổ vì giặc.
Trong hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã tự vẽ lên dáng hình của mình khi ấy:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Dường như lúc ấy, vị quan cũ trở về nhưng vẫn không cam lòng, làm bạn với rượu và ngâm thơ. Vậy nên giọng điệu bài thơ mới gàn dở như một ông lão đương lúc say mèm. Ông đã tự nói về mình: không giàu, không nghèo, không gầy, không béo. Dường như đó là con người bình thường đến không thể bình thường hơn, không có gì nổi bật. Trước đây, trong tay ông có chức quan, là người được ca tụng tài hoa. Nhưng khi về quê, khi thấy sự bất lực của mình, niềm tin như đã phai nhòa trong ông, biến vị tuấn tài đó trở nên bình thường như bao người khác!
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Sự châm biếm bắt đầu rõ ràng hơn từ hai câu thực. Nguyễn Khuyến tự cười mình bằng hai chữ “chạy làng”. Ông ví việc mình cáo lão về quê chính là chạy trốn. Mà cũng đúng thật! Ông chạy khỏi hiện thực đau thương, chạy khỏi chốn cung đình cao rộng nhưng tù túng, trở về với thiên nhiên và tự do như ông hằng mong ước. Nhưng khi ấy, hành động này trong mắt chính nhà thơ lại đáng bị lên án. Ông như kẻ vô tâm chỉ biết từ xa đừng nhìn thế cục rối ren của đất nước. Nhưng hỡi ôi! Cái đau lòng và khiến Nguyễn Khuyến đau xót nhất lại nằm trong chính câu thơ, đó là cảnh “không còn nước”. Ván cờ dang dở như cuộc đời, còn chưa kịp cống hiến, quân cờ chưa kịp đi thì đã mất nước. Mà khi ấy, mất nước tức là hết, trong tay chẳng còn lại gì. Thế nên trước hành động chạy trốn của mình, ông lại càng thêm mỉa mai, giọng điệu càng thêm châm biếm!
Nhưng một vị quan nhỏ đã vậy, mà những kẻ quyền cao hơn lại có thái độ càng thêm bạc bẽo:
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nguyễn Khuyến đã khuyên can, đã gàn “bát sách” nhưng chẳng được, tiếng cười dân trở nên chua xót, cười đời, cười mình, cười thế sự vô thường. Khi trở về, ông say trong men rượu như để quên đi nỗi xót xa bên ngoài, lấy rượu để giải sầu, mượn rượu để nói ra nỗi lòng. Không chỉ châm biếm chính bản thân, Nguyễn Khuyến còn châm biếm cả một thế hệ học sĩ lúc bấy giờ. Những người có ăn có học, được bổng lộc của dân đen nhưng lại làm ngơ chính sự, chịu nhục để giặc đọa đày. Vì nỗi đó, ông mới thân lên câu kết:
Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Là một vị danh sĩ một thời, ấy vậy mà ông không làm gì được nên mới “ngán cho mình”. Tự trách mình kém cỏi, không xứng nhưng cả các bậc tiến sĩ hồi ấy cũng thật đang cười. Nào là bia xanh, nào là bảng vàng, nhưng những lúc thực sự cần lại không thầy. Như Nguyễn Khuyến, ông chọn về quê, tránh rời thế sự trên đời. Bởi bao lần ngăn vua không được, ông mới thực sự hiểu rằng “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”!
Bài thơ thể hiện sự tự nhận thức của Nguyễn Khuyến về tài năng, về vận mệnh của mình và một thời đại, một thế hệ. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại rất tinh tế, sâu sắc đã châm biếm từ bản thân đến thế hệ ngày ấy, khiến cho người đọc ngỡ ngàng. Vậy nên từ đây say trong men rượu, ông đồng ý bỏ hết về với thiên nhiên và tận hưởng những ngày tháng an nhàn, dù tâm vẫn lo lắng cho nghiệp nước, sự đời!