Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo gồm 2 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim
Đề bài: Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim
Dàn ý Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim
- Mở bài: Nêu một kịch bản văn học hoặc một bộ phim mà em muốn giới thiệu.
- Triển khai:
+ Giới thiệu nội dung chính, đặc sắc của bộ phim/ kịch bản văn học…
+ Tóm tắt các luận điểm chính, lựa chọn một hoặc một vài phương tiện phi ngôn ngữ để minh họa, nhấn mạnh thông tin chính cũng như thu hút sự chú ý của khán giả.
- Kết luận:
+ Khẳng định lại luận đề.
+ Nêu kết luận bao quát về giá trị, đóng góp nổi bật của kịch bản văn học.
+ Lắng nghe ý kiến đóng góp, phản hồi.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 1
Xin chào cô và các bạn! Vấn đề sắc tộc, màu da từ lâu đã nhận được nhiều sự quan tâm của đông đảo mọi người trên thế giới. Thậm chí, cho đến ngày hôm nay, ta vẫn có thể bắt gặp một vài trường hợp phân biệt chủng tộc một cách tiêu cực. Vậy hôm nay, mình xin phép giới thiệu một bộ phim về chủ đề này: "12 Years a Slave" (12 năm nô lệ). Bộ phim dựa trên cuốn hồi kí cùng tên do Solomon Northup viết. Ông là một người Mỹ gốc Phi, sinh ra tại New York nhưng sau đó bị bắt làm nô lệ suốt 19 năm ròng rã. Với tài năng của mình, đạo diễn Steve McQueen và biên kịch John Ridley đã biến tấu, nhào nặn tác phẩm thành bộ phim hoàn chỉnh. "12 năm nô lệ" không chỉ phản ánh vô cùng chân thực những năm tháng lịch sử đen tối của nước Mỹ mà còn đem đến cái nhìn trực diện về nạn buôn bán nô lệ vào thế kỉ XIX. Báo VnExpress đã nhận xét: "Giống như cách "Schindler's List" từng lên án những tội ác vô nhân tính của phát xít Đức, cách tái hiện lịch sử của "12 Years a Slave" rất xót xa nhưng cần thiết". Có lẽ chính bởi đạo diễn cũng là người da màu nên ông rất thấu hiểu nỗi thống khổ mà người da đen ở Mỹ phải chịu đựng suốt bao thế kỉ. Dàn diễn viên thực lực với những cái tên danh giá như Chiwetel Ejiofor, Lupita Nyong'O, Brad Pitt, Benedict Cumberbatch,... cũng đóng vai trò lớn làm nên thành công của bộ phim. Nhân vật Solomon (hóa thân bởi Chiwetel Ejiofor) đã thực sự chiếm được cảm tình, sự khâm phục của khán giả. Anh ta kiên cường, nhẫn nại suốt hơn 10 năm dù cho có phải chịu bao bất công, gian khổ. Nhân vật người hầu gái Patsey (thủ vai bởi Lupita Nyong'O) cũng rất ấn tượng. Đặc biệt, cảnh cô nhờ Solomon kết liễu mạng sống của mình giữa đêm khuya thực sự đã khiến người xem không khỏi xúc động, thương xót. Hay như cả vai diễn ông chủ Epps (do Michael Fassbender thủ vai) cũng gây ám ảnh về một gã say rượu, đa nghi, gia trưởng, ngạo mạn.
Với những yếu tố trên, "12 năm nô lệ" đã nhận được giải Oscar danh giá trong lễ trao giải lần thứ 86 với danh hiệu Phim xuất sắc nhất, Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Bên cạnh đó, phim cũng gặt hái thêm nhiều thành tựu khác như giải Quả cầu vàng cho phim chính kịch hay nhất, giải thưởng của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh quốc,...
"12 năm nô lệ" thực sự là bộ phim giàu tính nhân văn. Hi vọng mọi người có thể tự mình trải nghiệm, thưởng thức tác phẩm này ít nhất một lần.
Trên đây là phần trình bày của mình. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe!
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 2
Hôm nay tôi sẽ giới thiệu cho các bạn cùng nghe về một vở kịch vô cùng nổi tiếng. Cùng lắng nghe nhé!
Nhắc tới nền văn học Phục hưng, người ta thường nhớ ngay tới tên tuổi của William Shakespeare, người được mệnh danh là linh hồn của thời đại. Dường như không một tác phẩm nào của ông không đề cập đến tình yêu, những tình yêu muôn hình vạn trạng như chính cuộc sống. Trong đó, Romeo và Juliet là vở bi kịch thành công nhất của Shakespeare. Qua vở kịch, tác giả đã làm nổi bật được sức mạnh của tình yêu, đồng thời, tác phẩm cũng đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật kịch.
Kịch bản văn học là một tác phẩm văn học, mang đầy đủ đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ. Đặc trưng của kịch thường là các yếu tố: xung đột và cách giải quyết xung đột, hành động kịch, ngôn ngữ kịch,… Dựa theo nội dung, ý nghĩa có thể phân loại kịch thành ba loại: hài kịch, bi kịch, chính kịch. Romeo và Juliet là vở bi kịch tình huống, ở đó, nhân vật do hoàn cảnh éo le, ngang trái mà dẫn đến những nỗi đau và cái chết. Nói đến bi kịch là nói đến sự thắt nút và mở nút của xung đột kịch - mà kết thúc bao giờ cũng là sự tiêu vong của nhân vật chính.
Chủ đề của vở kịch là tình yêu, đó là bản tình ca bất tử ca ngợi sức mạnh của tình yêu đã chiến thắng oán thù và những thế lực đen tối trong xã hội. Nội dung vở kịch xoay quanh mối tình của đôi trai gái thành Veron. Tình yêu của Romeo và Juliet là một tình yêu trong sáng, thơ mộng và mãnh liệt, thủy chung. Tình yêu đó rất mực giản dị, đời thường nhưng cũng rất cao thượng, đối lập với những dục vọng thấp kém. Romeo đã bất chấp mối thù truyền kiếp, vượt bức tường thành lễ giáo phong kiến. Juliet cũng không để cho những hận thù vô nghĩa ngăn cản, đã mạnh mẽ, dám bộc lộ tình yêu của mình, thứ tình yêu mãnh liệt mà duyên dáng, táo bạo mà thơ ngây. Vượt lên mọi ràng buộc, mọi quy định của gia đình quý tộc, nàng dám nói lên một cách thành thực tình yêu say đắm của mình: “Chàng Montaghiu tuấn tú ơi, em yêu chàng say đắm,... ngờ em là kẻ trăng hoa”. Lời nói của Juliet cũng là lời tuyên ngôn của những người trẻ tuổi. Romeo và Juliet đã biết cách trân trọng từng khoảnh khắc ngắn ngủi mà quý giá khi gặp nhau và cũng sẵn sàng hi sinh để bảo vệ lời thề chung thủy. Đồng thời, Romeo và Juliet đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt cho hạnh phúc và tình yêu chống lại những thành kiến và uy quyền của lễ giáo phong kiến. Tác phẩm khép lại bằng cái chết của cả hai nhân vật, song lại mở ra chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn, điều đó được minh chứng bởi cái bắt tay của hai dòng họ Montaghiu và Capiulet để đời đời ghi nhớ câu chuyện tình yêu bất tử ấy. Thắng lợi của vở kịch là thắng lợi của chủ nghĩa nhân văn đối với tính vô nhân đạo của nền phong kiến trung cổ. Cái chết đã cảm hóa lòng người, biến đổi được mối quan hệ giữa hai dòng họ, vậy nên nhà nghiên cứu Mecanxki vẫn gọi đây là “vở bi kịch lạc quan”.
Bút pháp lãng mạn và chất liệu hiện thực đã tạo ra một vẻ đẹp kì diệu trong tình cảm của Romeo và Juliet. Cuộc gặp gỡ của họ chan chứa sức mạnh của thơ trữ tình, xen lẫn những đoạn “bi” đầy khổ đau, lâm li. Shakespeare đã khiến vở kịch trở nên chân thực, giống với cuộc đời hơn cả khi kết hợp tính đa dạng và biến hóa của hành động kịch, xen lẫn cái bi với cái hài, cái cao cả với cái thấp hèn, giữa vui - buồn, hạnh phúc - đau khổ,... Ông cũng rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, những tính cách vô cùng sinh động và chân thực. Ngoài ngoại hình lý tưởng, tác giả cũng chú trọng mô tả nội tâm nhân vật sao cho phù hợp với chuỗi hành động. Ngôn ngữ kịch đặc sắc, vốn từ đồ sộ nhưng rất đỗi giản dị, thân thuộc - đó là những từ nhân dân hiểu, là ngôn ngữ của quần chúng nhưng không vì vậy mà tầm thường.
Bằng thiên tài nghệ thuật của mình, Shakespeare đã tỏa sáng và ghi dấu ấn sâu đậm, chiếm lĩnh ngôi chủ soái kịch trường. Chủ đề tình yêu với cách khai thác riêng biệt, nghệ thuật kịch đặc sắc đã làm nên chất trữ tình thi vị, chất men say ngây ngất có sức cuốn hút kì diệu của Romeo và Juliet. Khi đọc kiệt tác này, độc giả nhớ tới biết bao mối tình ngang trái không đi tới được cái kết viên mãn song đều đẹp đẽ, thiêng liêng:
“Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan,...”
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 3
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là………………., học sinh lớp….., trường ……………….
Các bạn thân mến! Những vở kịch của Sếch-xpia luôn là nguồn tài nguyên giá trị để các thế hệ sau khai thác, khám phá. Không chỉ lột tả được bức tranh chân thực của thời đại, ông còn đem đến cho nhân loại vô vàn thông điệp, giá trị nhân sinh sâu sắc. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ qua văn bản "Sống hay không sống - đó là vấn đề", trích trong vở bi - hài kịch "Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch".
Về nội dung, tác phẩm mang đến rất nhiều thông điệp giá trị, ý nghĩa đối với nhân loại. Theo các nhà nghiên cứu nhận xét, "Sống hay không sống - đó là vấn đề" đã phản ánh được tinh thần của thời đại. Trong xã hội nơi sự mưu mô, xấu xa bao trùm, vẫn có những con người luôn hướng tới cái lương thiện, tốt đẹp. Ở đó, ta thấy cuộc đấu tranh không hồi kết giữa cái thiện và cái ác, giữa lí tưởng sống cao cả của con người với thực tại đổ vỡ, tối tăm. Qua đây, tác giả muốn hướng con người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đồng thời, đưa ra được câu hỏi mang bản chất triết học của loài người: "Sống hay không sống?". Đây là vấn đề đề cập đến mục đích sống của từng cá nhân. Để trả lời câu hỏi ấy, con người cần ý thức được thực tại vô định, bất công. Từ đó suy xét và hình thành suy nghĩ: "Hành động hay không hành động?". Tất cả đều nhằm hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, công bằng và hạnh phúc cho nhân loại.
Về nghệ thuật, đầu tiên phải kể tới nghệ thuật xây dựng nhân vật vô cùng tài hoa của Sếch-xpia. Đó là Hăm-lét- người suy nghĩ bằng cả trái tim và trí óc, dám lên tiếng hoài nghi cả xã hội; là tên vua Clô-đi-út nham hiểm, được ngụy tạo bằng những lời nói đường mật; tên Pô-lô-ni-út giả dối, độc đoán hay nàng Ô-phê-li-a thủy chung nhưng sợ lễ giáo, cường quyền;... Tất cả đã tạo nên một hệ thống các nhân vật điển hình với những màu sắc rõ ràng, riêng biệt. Ngôn ngữ kịch cũng được Sếch-xpia sử dụng vô cùng điêu luyện. Nhìn vào những cuộc đối thoại trong văn bản, ta thấy rất rõ sự biến chuyển linh hoạt: từ đau đớn, tự vấn đến giễu cợt, gay gắt, mỉa mai. Bên cạnh đó, ngôn ngữ độc thoại đặc sắc đã góp phần quan trọng thể hiện tư tưởng, góc nhìn của nhân vật cũng như của tác giả. Không chỉ vậy, những xung đột trong kịch cũng được gắn liền với xung đột nội tâm nhân vật Hăm-lét. Từ niềm tin mãnh liệt vào con người, Hăm-lét dần chuyển sang hoang mang, lo sợ trước thực tại đổ vỡ. Từ đó, có thái độ hoài nghi, chán nản với nhân sinh. Sau cùng, trải qua bao sóng gió, chàng đã nhận thức lại thế giới và nảy sinh nghị lực phản kháng.
Như vậy, có thể nói tác phẩm "Sống hay không sống - đó là vấn đề" đã thể hiện vô cùng rõ nét tài năng cũng như tầm nhìn mang tính vĩ mô của đại văn hào Sếch-xpia. Qua đó, để lại cho nhân loại một kiệt tác mà đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Trên đây là phần giới thiệu của tôi về kịch bản văn học - văn bản "Sống hay không sống - đó là vấn đề", trích trong vở bi - hài kịch "Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch". Rất mong được sự góp ý của tấc cả các bạn. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 4
Nguyễn Du là một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam thời kì trung đại (cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX) với những đóng góp to lớn của mình với nền văn học, ông được mệnh danh là đại thi hào của dân tộc. Trong tất cả những tác phẩm của ông, giá trị nhất, đồ sộ nhất có thể kể đến, đó chính là tác phẩm Đoạn trường tân thanh, hay chúng ta thường biết đến với tên gọi phổ biến khác đó chính là Truyện Kiều.
Truyện Kiều là tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Truyện Kiều được NGuyễn Du viết dựa trên cốt truyện của tác phẩm văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là sự vay mượn có sáng tạo. Nguyễn Du đã có sự cải biên cả về hình thức tác phẩm, nội dung cũng có sự thêm thắt, cắt bớt cho phù hợp với bối cảnh cũng như tính cách của nhân vật. Do vậy mà tác phẩm Truyện Kiều không những không bị ảnh hưởng bởi cái bóng Kim Vân Kiều truyện mà còn vươn xa hơn, khiến cho Truyện Kiêu trở thành một kiệt tác nhiều người biết đến.
Truyện Kiều kể về một người con gái tài sắc nhưng có số phận bất hạnh là Vương thúy Kiều. Tác phẩm truyện Kiều gồm có ba phần chính. Phần thứ nhất là đính ước và gặp gỡ. Trong phần đầu tiên, Nguyễn Du đã kể về Thúy Kiều, một người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm chướng rủ màn che, bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 5
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là………………., học sinh lớp….., trường ……………….
Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ “Mộ” năm 1942, trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó là khi nhà thơ bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trong suốt thời gian bị đày ải bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch người lính khổ sai Nguyễn Tất Thành thường xuyên bị áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó người bình thường chắc chỉ thấy tiếng kêu rên ai oán số phận, còn với Bác người lính cách mạng có tinh thần thép thì đó chỉ là cái cớ để tâm hồn thi sĩ vút cao lên thành những áng văn thơ trữ tình dạt dào cảm xúc. Chẳng thế mà toàn bài thơ chúng ta không thấy bất kỳ hình ảnh đau khổ của người tù mà chỉ thấy khung cảnh thiên nhiên, con người nơi miền sơn cước vô cùng bình dị, quen thuộc với cuộc sống lao động thường nhật.
Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên đặc trưng của buổi chiều tối
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Ánh mặt trời dần tắt hẳn, màn đêm chuẩn bị bao trùm lấy cảnh vật, đây là thời khắc con người, vạn vật sinh linh trên trái đất đều mệt mỏi và muốn tìm về với chốn bình yên để nghỉ ngơi. Đầu tiên là hình ảnh của chú chim đang mỏi cánh trên bầu trời, cánh chim ấy đã vất vả sau một ngày dài kiếm ăn khắp chốn, giờ là lúc nó tìm về với bóng cây, chốn yên bình để ngủ. Câu thơ thứ hai vẫn là nét chấm phá cảnh vật của thiên nhiên với hình ảnh của “cô vân”. Cô vân là chòm mây cô đơn, kết hợp với từ láy “mạn mạn” tức là trôi nhẹ, lơ lửng, vô định trên bầu trời. Chòm mây cô đơn lạc trôi trên bầu trời khá tương đồng với hoàn cảnh của người tù khổ sai, cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người. Trong lòng vẫn luôn đau đáu một ngày được trở về với đồng bào, quê hương.
Hai câu thơ sử dụng thủ pháp đối khá quen thuộc trong thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối giữa “cô vân” và “quyện điểu” để tạo nên một bức tranh thiên nhiên cân xứng, hài hòa. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật hữu tình, nên thơ.
Hai câu thơ sau là hình ảnh của con người, con người của cuộc sống lao động hiện ra thông qua những nét vẽ thật khỏe khoắn, rắn rỏi
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
Hình ảnh cô gái xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối xuất hiện trong bài thơ là một nét vẽ bất ngờ nhưng rất hợp lý. Nó được cảm nhận thông qua cái nhìn của người tù khổ sai, nó mang một sức sống thật mạnh mẽ, tiềm tàng. Động tác xay ngô của cô gái nhịp nhàng, khỏe khoắn, từng vòng quay của chiếc cối đều, dứt khoát, “ma bao túc” rồi lại” bao túc ma hoàn”; phép lặp từ trong hai câu thơ nhấn mạnh sự cần mẫn, chăm chỉ của người lao động trong cuộc sống thường nhật, qua đó thể hiện cái nhìn trân trọng của thi sĩ dành cho con người nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh “lô dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ, đó là một nhãn tự có sức nặng cân cả bài thơ. Chữ hồng xuất hiện đã xua tan không khí lạnh giá nơi xóm núi hoang sơ, nó như tiếp thêm sức sống và sức mạnh cho người tù khổ sai trên con đường đi tìm lối thoát cho dân tộc. Chữ “hồng” cũng thể hiện chất thép vốn rất đặc trưng trong tập “Nhật ký trong tù”. Nó cũng khẳng định vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ của Hồ Chủ Tịch
Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Thông qua bài thơ “Mộ” chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của nghị lực phi thường, tinh thần mạnh mẽ không lên gân, không khoa trương mà giản dị, khiêm nhường trong thơ của Hồ Chí Minh.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 6
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là………………., học sinh lớp….., trường ……………….
Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Bằng tài năng và đức độ hơn người, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến biết bao người ngưỡng mộ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông.
Lục Vân Tiên được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, ân tình. Nội dung chính của tác phẩm này là khi Lục Vân Tiên nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng đã vội từ biệt thầy đi đua tài.
Trên đường về, vô tình gặp cảnh Kiều Nguyệt Nga bị cướp chàng đã ra tay trượng nghĩa cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Hình tượng Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện dân gian, trượng nghĩa, anh tài, ra tay cứu giúp người bị nạn. Đây là nhân vật lý tưởng của văn học trung đại, thể hiện những khao khát mơ ước của nhân dân ta. Chàng mang lí tưởng lớn, lập thân lập danh giúp đời. Và trên đường về gặp chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không hề ngần ngại mà ngay lập tức ra tay trượng nghĩa:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Dù chỉ có một mình, trên tay chỉ có cây gậy nhưng Vân Tiên dám đương đầu với lũ cướp vừa đông vừa rất hung hãn. Hành động đó cho thấy tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Trước sự dọa nạt của những tên cướp, Vân Tiên không hề nao núng: “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang” .
Không chỉ là một người có tinh thần trượng nghĩa, mà chàng còn là người hết sức khuôn phép, lịch sự với người khác giới. Sau khi đuổi hết lũ lâu la, Vân Tiên còn tiến lại hỏi han, an ủi những người bị nạn. Không chỉ vậy, khi nghe nói họ muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt ngay đi:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Dường như với Lục Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Bởi chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Vân Tiên là mẫu anh hùng lí tưởng, mà qua nhân vật này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm nhiều niềm tin, mơ ước, khát vọng của mình.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên ta còn thấy một nàng Kiều Nguyệt Nga hết sức chừng mực, nết na, hiếu thảo. Nàng xưng hô rất khiêm nhường “tiện thiếp”, cùng với đó là cách nói năng hết sức nhẹ nhàng, khuôn phép: “Làm con đâu dám cãi cha/ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành” . Lời nói của nàng hết rõ ràng, mạch lạc, vừa đẩy đủ thông tin vừa thể hiện niềm biết ơn chân thành với ân nhân đã giúp đỡ.
Đồng thời nàng cũng là con người biết cách ứng xử, có trước có sau. Việc Vân tiên cứu nàng đâu chỉ là cứu mạng sống, mà còn cứu cả một đời trinh bạch của người con gái, bởi vậy, nàng càng biết ơn Vân Tiên hơn. Cũng bởi thế nàng áy náy không biết lấy gì đền đáp công ơn to lớn đó:
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Và cuối cùng nàng đã quyết lấy thân mình, tự nguyện gắn bó cả đời với chàng trai hiệp nghĩa đó. Hàng ngày nâng khăn sửa túi để báo đáp ơn lớn của Vân Tiên đối với nàng. Những nét đẹp trong phẩm chất, trong hành xử của Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuy ngắn ngủi nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật: Lục Vân Tiên trượng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga thì nết na thùy mị. Hai nhân vật đại diện cho lý tưởng của nhân dân ta. Đồng thời qua các nhân vật này cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc của nhà thơ.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 7
Xin chào cô và các bạn!
Mỗi con người chúng ta, ai cũng có một ước mơ, một đam mê riêng mà mình khao khát theo đuổi. Nhưng khi bước vào thực tế, rất nhiều yếu tố sẽ ảnh hưởng, cản bước ta, khiến ta phải suy nghĩ rất nhiều về con người, cuộc đời.
"Soul", hay "Cuộc sống nhiệm màu", là một bộ phim như vậy. Phim được tạo nên bởi bàn tay tài hoa của đạo diễn Pete Docter và biên kịch Kemp Powers. Với màu sắc nhẹ nhàng, tích cực, "Soul" cứ vậy đi vào lòng người xem, khơi gợi trong mỗi chúng ta tình yêu với cuộc sống này.
Phim xoay quanh câu chuyện một giáo viên dạy nhạc tên Joe Gardner. Anh ta yêu nhạc Jazz, ước mơ trở thành một nghệ sĩ chơi nhạc Jazz. Nhưng thực tế cuộc sống với những gánh nặng tài chính không cho phép Joe sống với đam mê của mình. Vào một lần, Joe có cơ hội được tham gia biểu diễn cùng thần tượng. Do quá vui mừng, anh đã gặp tai nạn, khiến cơ thể và linh hồn bị tách ra. Không chấp nhận được hiện thực, Joe vùng vẫy, trốn chạy đến The Great Before (Cõi Trước - nơi những linh hồn chuẩn bị đến với Trái Đất). Ở đây, anh gặp một linh hồn gọi là 22 và cùng nhau bắt đầu cuộc hành trình giúp Joe quay lại với cơ thể cũ.
Với cốt truyện đơn giản, "Soul" đã mang đến những bài học vô cùng ý nghĩa. Đó là quá trình hoàn thiện của Joe. Trước đây, anh chỉ biết nghĩ cho bản thân, không quan tâm đến cảm xúc của người khác. Nhưng bây giờ, anh đã nhận ra thêm nhiều vẻ đẹp của cuộc sống. Từ đó, biết hi sinh vì hạnh phúc của người mình yêu thương. Còn 22 từ một linh hồn bất trị đã dần thấy được vẻ đẹp cuộc sống. Cả hai nhân vật đều có được bài học cho chính mình. Đồng thời, khiến khán giả có thêm nhiều suy ngẫm, chiêm nghiệm.
Không chỉ thành công ở mặt nội dung, "Soul" còn chiếm trọn trái tim người xem bằng mảng đồ họa xuất sắc. Hình ảnh phim vô cùng chân thực, tái hiện hoàn hảo gam màu tươi sáng của thành phố New York náo nhiệt. Hay như ở The Great Before, không gian cũng được xây dựng đậm chất kì ảo. Một điểm cộng nữa chính là nhạc phim. Với âm hưởng nhẹ nhàng của những bản nhạc Jazz, "Soul" như đưa người xem về thế kỉ trước, bỏ qua mọi phiền não thường ngày.
Đặc biệt, bộ phim được ra đời vào đúng giai đoạn biến động khi đại dịch Covid 19 đang hoành hành. "Soul" lúc này như một liều thuốc tinh thần gửi đến người dân, mang lại cho họ sự lạc quan cùng tình yêu với cuộc sống.
Và vừa rồi cũng là phần kết thúc cho bài trình bày của mình hôm nay. Rất cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe và mình mong sẽ nhận được đánh giá, góp ý từ phía mọi người để rút kinh nghiệm cho lần sau.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 8
Những chiếc máy quay full HD, 4K hẳn là thứ mà nhiều người làm phim trong quá khứ cực kỳ thèm khát. Màu sắc sặc sỡ trên phim hẳn là điều mong mỏi của hàng triệu khán giả mê điện ảnh khi xưa. Và âm thanh, những cuộc hội thoại hẳn là một tiến bộ vĩ đại trong công cuộc đưa điện ảnh ngày càng phát triển, ngày càng gần gũi với cuộc sống thực. Thế nhưng, “The Artist” mặc dù được sản xuất năm 2011, lại đơn phương độc mã đi theo một con đường hoàn toàn khác, đưa dòng phim câm, trắng đen một lần nữa lên màn ảnh rộng và đưa tên mình vào danh sách những bộ phim giành giải Oscars ở 5 hạng mục đánh giá, trong đó có Phim xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc và Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.
“The Artist” là câu chuyện về George Valentin – một chàng diễn viên điển trai, giàu có và tài năng, đang đứng trên đỉnh cao danh vọng của thể loại phim câm. Thế rồi, bi kịch đời anh ập đến khi thời thế thay đổi, công nghệ mới lên ngôi, người ta đưa được âm thanh, tiếng động vào từng thước phim. Và anh với những thước phim im lặng của anh trở thành thừa thãi, bị lãng quên vào quá khứ. George từ đỉnh cao, nay đã xuống tận đáy của cuộc đời. Anh mất tất cả: nhà cửa, tài sản, quần áo và người vợ với cuộc hôn nhân không hạnh phúc đã lâu. Anh chỉ còn lại những cuộn phim từng kiếm cho anh bộn tiền, chú chó Uggie và người tài xế trung thành. George cũng mất cả lòng kiêu hãnh của một người đàn ông khi cô vũ công anh từng phải lòng và giúp đỡ, nay lại trở thành một minh tinh của dòng phim nói. Cô đã vô tình xúc phạm anh và thể loại phim câm cũ kỹ mà anh đại diện. Phim là chuyện đời, chuyện nghề và chuyện tình của những người nghệ sỹ chân chính.
Phim Oscars hiếm có phim nào mang nhiều yếu tố giải trí, hài hước hay dễ xem. Thế nhưng đó hẳn chỉ là định kiến dập khuôn bởi “The Artist” hoàn toàn là một bộ phim như thế. “The Artist” không có những twist long twist bất ngờ để ta phải ồ à, há hốc mồm. Cũng không có những pha hành động máu lửa để câu khách. Các nhà làm phim cũng không hề biến nền công nghiệp điện ảnh thành cái gì bi kịch, giật gân. “The Artist” cũng không khó hiểu đến nỗi khán giả xem xong chả hiểu nổi. Vậy, bộ phim này có gì?
Phim đặc biệt ở chỗ nó loại bỏ tất cả các yếu tố gây phân tâm cho khán giả như màu sắc, tiếng động nhỏ nhặt hay thậm chí là những đoạn hội thoại không cần thiết để khán giả chỉ tập trung vào nội dung và diễn xuất. Là phim câm, “The Artist” có lối kể chuyện rất riêng. Người diễn viên khi nhập vai hẳn phải chịu rất nhiều thách thức khi không thể biểu hiện quá lố cảm xúc để người xem dễ chú ý, cũng không thể giấu quá kỹ biểu cảm để rồi người xem không nhận ra rằng nhân vật đang vui hay buồn, hơn nữa, người diễn viên cũng không thể dùng câu thoại để thể hiện mình. Thế nhưng, với màn trình diễn xuất sắc của Jean Dujardin và Bérénice Bejo, ta có thể khẳng định rằng im lặng không bao giờ là một chướng ngại vật quá lớn. Jean và Bérénice đều hóa thân trở thành những người nghệ sỹ chân chính, hoạt bát và cá tính nhưng cũng rất thường, rất đời. Cũng chính nhờ việc chỉ cần ngôn ngữ hình thể mà người ta không cần tuyển diễn viên ở cùng một quốc gia, không cần có chất giọng phù hợp với nhân vật họ nhập vai. Chính vì vậy mà mặc dù lấy bối cảnh ở Hollywood hào nhoáng nhưng hai diễn viên chính lại mang quốc tịch Pháp và Argentina.
Một yếu tố thành công khác của “The Artist” chính là nhạc phim tuyệt vời. Chính vì không thể biểu hiện quá lộ liễu cảm xúc, không thể nói lời thoại nên nhạc phim lại có một vị trí vô cùng quan trọng – quan trọng hơn nhiều so với vị trí của nó trong dòng phim hiện đại. Nhạc trong phim có tác dụng rất lớn trong việc dẫn dắt, điều khiển nhịp phim, đồng thời cũng bộc lộ tinh tế tính cách, cảm xúc nhân vật. Khi George thành công, ta nghe được hòa thanh vui nhộn, hối thúc của cả dàn nhạc. Ở những phân cảnh đầu tiên của Peppy Miller, ta lại cảm nhận được nét hóm hỉnh, mộng mơ nhưng cũng đầy nữ tính của giai điệu. Khi George và Peppy khiêu vũ, nhìn sâu vào đôi mắt nhau và nảy sinh tình cảm, ta lại thấy những giai điệu nhẹ nhàng, tế nhị của tình yêu. Và ta cũng ứa nước mắt khi George mất tất cả, trở về trong căn buồng chật hẹp, nghĩ về hào quang quá khứ và anh của hiện tại. Tiếng nhạc buồn bã, xót xa vang lên.
“The Artist” không hề giống những bộ phim đoạt giải “Phim xuất sắc nhất” của Viện Hàn Lâm trong những năm gần đây, có lẽ cũng bởi vị đạo diễn người Pháp Michel Hazanavicius đã làm những điều mà chẳng ai trong những cộng sự Hollywood của ông dám làm. Ông đã tìm về “quá khứ tươi đẹp”, tìm về những giá trị mà lâu nay bị lãng quên. Câu chuyện của George trong phim hẳn cũng giống chúng ta, luôn phải tập quen và thích nghi với những thứ mới mẻ để tồn tại và phát triển. Rõ ràng, phim không hề chê bai hay phản đối nền công nghiệp điện ảnh hiện đại với những thước phim màu sắc nét, rực rỡ cùng âm thanh, kỹ xảo đẹp mắt. “The Artist” là một cái quay đầu lại đằng sau để nhìn thấy nơi ta bắt đầu, tìm lại những vẻ đẹp thuần khiết, nguyên sơ của điện ảnh ta từng có, để từ đó tiếp tục kế thừa và phát triển cho tương lai.
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 9
Xin chào cô và các bạn!
Chắc hẳn mọi người ai cũng đã từng ít nhất một lần nghe thấy cái tên "Romeo và Juliet". Đây là một kịch bản văn học vô cùng nổi tiếng, thuộc hàng kinh điển của thế giới do đại thi hào William Shakespeare sáng tác. Cho đến tận ngày hôm nay, vở kịch này vẫn thường xuyên được diễn lại ở khắp nơi trên thế giới.
Tác phẩm xoay quanh chuyện tình bi kịch của cặp đôi Romeo (nhà Montague) và Juliet (nhà Capulet). Vốn thuộc hai gia tộc với mối thù hận lâu đời, Romeo và Juliet lại phải lòng nhau ngay từ lần đầu gặp mặt. Họ đã bí mật làm đám cưới dưới sự chứng giám của tu sĩ Laurence. Vì xung đột, Romeo đã giết chết Tybalt - anh họ Juliet và bị trục xuất khỏi Verona. Juliet ở nhà bị ép gả cho bá tước Paris. Đau khổ, cô tìm đến tu sĩ Laurence nhờ giúp đỡ và được cho một liều thuốc ngủ để giả chết. Tuy nhiên, Romeo lại hiểu lầm là Juliet qua đời thật, gấp rút chạy về. Romeo đến đám tang người yêu, giết chết bá tước Paris rồi uống thuốc độc. Đúng lúc này Juliet tỉnh lại. Thấy xác Romeo, cô đau khổ tự vẫn. Cái chết của đôi trẻ đã làm thức tỉnh hai dòng họ. Từ đó, họ bỏ qua thù hận và bắt tay làm hòa.
Có thể nói, câu chuyện tình yêu giữa Romeo và Juliet đã trở thành bất hủ. Đó là bài ca ca ngợi tình yêu mãnh liệt, tự do của tuổi trẻ. Đồng thời, phản ánh mặt trái trong sự mâu thuẫn giữa người với người trong xã hội. Bi kịch của đôi trẻ có thể đã khép lại thù hằn giữa hai gia tộc, nhưng nó vẫn sẽ là vết thương lớn khó nguôi ngoai, để lại nhiều suy tư, nỗi niềm trong lòng người đọc, người xem.
Không chỉ được diễn trên các sân khấu kịch lớn, tác phẩm còn được chuyển thể thành phim, diễn như vở opera,... Giá trị của tác phẩm sẽ vẫn còn mãi trong lòng công chúng ngày nay và cả mai sau.
Mình xin kết thúc bài nói tại đây. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía cô và cả lớp!
Hãy lựa chọn và giới thiệu với các bạn cùng lớp một kịch bản văn học hoặc một bộ phim - Mẫu 10
Xin chào thầy cô và các bạn,
Tôi là ... , học sinh lớp ... , trường ... .
Những tác phẩm của Shakespeare luôn là một kho tàng vô giá mà các thế hệ sau này vẫn khai thác và khám phá. Điển hình như vở bi kịch "Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch", trong đó, tác phẩm "Sống hay không sống - đó là vấn đề" mang đến cho chúng ta không chỉ bức tranh chân thực về thời đại mà còn những thông điệp sâu sắc về giá trị nhân sinh.
Văn bản này không chỉ phản ánh tinh thần của thời đại mà còn đưa ra những câu hỏi triết học sâu xa về mục đích sống của con người. Trong một xã hội đầy mưu mô, xấu xa, tác giả đã giúp chúng ta thấy cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa cái thiện và cái ác, giữa lý tưởng sống cao cả và thực tại đau khổ.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Shakespeare cũng rất tài hoa, từ Hăm-lét suy nghĩ sâu sắc đến vua Clô-đi-út nham hiểm, từ Pô-lô-ni-út giả dối đến nàng Ô-phê-li-a thủy chung nhưng sợ lễ giáo. Mỗi nhân vật đều được tạo hình rõ ràng và có màu sắc riêng biệt, với ngôn ngữ kịch điêu luyện và sắc bén.
Với những xung đột nội tâm và triết lý sâu sắc, "Sống hay không sống - đó là vấn đề" không chỉ là một văn bản bi - hài kịch độc đáo mà còn là một tác phẩm vĩ đại của văn hào Shakespeare, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.
Đó là những điều tôi muốn chia sẻ về văn bản "Sống hay không sống - đó là vấn đề" trong vở kịch "Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch". Rất mong nhận được sự góp ý từ tất cả các bạn. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã dành thời gian lắng nghe.