TOP 20 bài Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng 2024 SIÊU HAY

1.4 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng Ngữ văn 11 Kết nối tri thức, gồm 8 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới. 

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng

Đề bài: Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật - Bài ca ngất ngưởng

TOP 20 bài Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 1

Nguyễn Công Trứ (1778-1858) biệt hiệu là Hi Văn, một danh tướng triều Nguyễn, văn võ toàn tài. Về sự nghiệp văn chương, ông để lại khoảng 150 bài thơ, câu đối, bài “Hàn nho phong vị phú” là một kiệt tác. Với những bài thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ có giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng: “Chí nam nhi”, “Chí khí anh hùng”, “Nợ tang bồng”… trong đó, độc đáo nhất là “Bài ca ngất ngưởng”.

Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” thật đặc sắc và rất thú vị. Đó là vẻ đẹp của một nhà nho giàu cá tính, dám đem tài năng thi thố với đời, dám hành động cho thoả chí nam nhi, đồng thời cũng dám hành lạc biểu lộ bản ngã của một khách tài tử. Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” còn là chất thơ, chất nhạc in đậm dấu ấn của một tao nhân mặc khách, một tài tử mang cốt cách anh hùng. Thơ trung đại vốn phi ngã, nhưng “Bài ca ngất ngưởng” đã thể hiện cái tôi một cách đàng hoàng với tất cả niềm tự hào hiếm thấy.

Một cách xưng danh thật hào hùng. Trong xã hội phong kiến đã mấy ai dám nói như Nguyễn Công Trứ?

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Vân tài bộ đã vào lồng.”

Kẻ nam nhi dám đem “tài bộ” ra thi thố với thiên hạ, làm tròn trách nhiệm với đời. Phải ngất ngưởng, phải sống khác người, vì đã có công danh, về cử nghiệp đã đỗ thủ khoa. Về binh nghiệp đã làm Tham tán, về hoạn lộ đã làm Tổng đốc Đông. Có tài thao lược mới có thể ngất ngưởng, mới dám sống ngất ngưởng:

“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”.

Có thể hiểu ngất ngưởng vì hơn đời, hơn người, do có “tài bộ”. Con đường công danh như được trải dài và mở rộng. Ông Hi Văn đang sống lại những tháng ngày oanh liệt:

“Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Chữ “khi” được điệp lại bốn lần, đan xen với chữ “lúc”, đã nêu bật tính thời gian và con đường công danh của một kẻ sĩ anh hùng được mở ra với bao tự hào, kiêu hãnh. Giọng thơ mạnh mẽ hào hùng thể hiện cốt cách của một đấng nam nhi tài ba lỗi lạc. Con người ấy đã sống đẹp hơn bao giờ hết:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.

(Nợ tang bồng)

Bức chân dung tự hoạ của ông Hi Văn là một trong những vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” mà ta cảm nhận được. Giữa triều đình, ông Hi Văn đã sống hết mình, đem tài bộ ra thi thố với thiên hạ “đã nên tay ngất ngưởng”. Lúc trả áo mũ về trí sĩ, ông Hi Văn lại chơi hết mình: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Chiếc mo cau đeo sau đuôi con bò cái như để che miệng thế gian, như để giễu đời.

Thật ung dung và thảnh thơi giữa chốn lâm tuyền. Như có một sự hoá thân kì lạ:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Nhìn thấy “dạng từ bi” đó của ông Hi Văn, làm sao Bụt chẳng “nực cười” được? Mọi chuyện được mất, khen chê bỏ hết ngoài tai, “ông ngất ngưởng” chính là một khách tài tử, rất thanh cao. Các điệp ngữ (khi, không) làm cho nhịp thơ, điệu thơ, giọng thơ như nhún nhảy. Cũng là một nét đẹp của ông Hi Văn, cũng là một nét đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”:

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

Bức chân dung tự hoạ của “ông ngất ngưởng” đã hoàn chỉnh, vừa bề thế, vừa trang trọng. Sự thuỷ chung về “nghĩa vua tôi” là cái thần của bức chân dung tự hoạ ấy. Sao không tự hào được?

“Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn dạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.

Vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” đâu chỉ có thế. Còn là vẻ đẹp văn chương, vẻ đẹp của một bài thơ hát nói dôi khổ (hai khổ thơ). Ngôn từ thật biến hoá: khi là “tay ngất ngưởng” rồi lại “đeo ngất ngưởng lúc trở thành “ông ngất ngưởng” rồi còn cất tiếng hỏi: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.

Câu thơ co duỗi biến hoá: sáu chữ, bảy chữ, tám chữ; sử dụng điệp ngữ thần tình, giọng thơ du dương, trầm bổng. Chất nhạc cũng làm nên vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng”. Nguyễn Công Trứ đã làm Dinh điền sứ tổ chức di dân lấn biển, lập nên hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) đến nay vẫn được nhân dân hai miền quê ấy thờ cúng, đội ơn sâu.

Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều thăng trầm trên con đường hoạn lộ, nhưng lúc nào ông cũng thể hiện một bản lĩnh đáng trọng và tự hào: “Lúc làm đại tướng, ta không thấy thế làm vinh; lúc làm lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục”. Nói về vẻ đẹp của “Bài ca ngất ngưởng” là nói về vẻ đẹp của chí anh hùng, chí nam nhi là nói về vẻ đẹp ung dung thanh cao của một tao nhân mặc khách đã để lại nhiều bài thơ hát nói nổi tiếng. Ngất ngưởng sao mà đẹp vậy!

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 2

Nếu như thể “ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn, đau xót đi tìm những giá trị của mình bị mất mát” thì hát nói “một thể thông dụng trong ca trù thể hiện một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại”.

      Nhắc đến thể hát nói không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ bài thơ đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và thể loại của nó. Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của tác giả, một phong cách sống khác đời vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến trên cơ sở ý thức về tài năng và giá trị của bản thân.

Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho nghèo đã từng thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan xong con đường công danh ấy không được bằng phẳng, thăng trầm. Sáng tác của ông hầu hết là bằng chữ Nôm, thể loại ưa thích nhất của ông là hát nói bởi ông đã có điều kiện tham gia ca trù vốn khá phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông. Đề tài và nội dung trong các bài thơ hát nói của ông rất đa dạng như: tình yêu, đồng tiền, chí làm trai, sự ăn chơi hưởng lạc….

“Bài ca ngất ngưởng” thuộc đề tài sự ăn chơi hưởng lạc, bài thơ được sáng tác 1848 là năm nhà thơ cáo quan về hưu, sống cuộc đời tự do, thoải mái. Điều đó được thể hiện rõ nét qua từ “ngất ngưởng”. Theo Nguyễn Đình Chú đó là “nhằm để diễn tả một tư thế, một thái độ, một tinh thần, một con người vươn lên trên thế tục, sống giữa mọi người mà dường như không nhìn thấy ai, đi giữa cuộc đời mà dường như chỉ biết có mình, một con người khác đời và bất chấp mọi người”.

Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật về cuộc đời thi thố tài năng ở chốn quan trường của tác giả với những sự kiện tiêu biểu. Mở đầu bài thơ là một câu thơ chữ Hán thể hiện quan niệm, triết lí sống mà nhà thơ đã theo đuổi. Do cảm hứng phóng túng, làm chơi, buông thả nên hát nói được cấu tạo một cách đặc biệt. Nó pha trộn lời Hán với lời Việt. Hầu hết các bài đều có một câu chữ Hán là một câu dẫn ngữ nói một tư tưởng nào đó được sẵn đặt ở đầu câu.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong khoảng trời đất đều là phận sự của ta. Cho thấy sự làm chủ của con người trong vũ trụ, con người với tinh thần nhập thế, trách nhiệm gánh vác việc đời. Ý thơ này đã được ông thể hiện nhiều lần trong những bài thơ khác nhau như: “Vũ trụ chức phận nội” việc trong vũ trụ là phận sự của ta hay “Vũ trụ giai ngô phận sự” mọi việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta.

Ông luôn xác định cho mình một lối sống tích cực, sống với đời và đóng góp cho đời. Ông đã chịu ảnh hưởng chí làm trai của Nho giáo và kế thừa tinh thần bậc tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi Phan Bội Châu như “Sinh vi nam tử yếu hi kì/ Há để càn khôn tự chuyển di”…

Tiếp theo nhà thơ tự nói về mình điều hiếm thấy trong thơ văn trung đại. Bởi con người trong giai đoạn ấy cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn. Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cá tính, con người riêng của mình.

“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài hoa. Ông tự khẳng định mình là một người “tài năng lỗi lạc xuất chúng” đã “vào lồng” tức ông coi việc làm quan trong triều bị giam hãm trong lồng gò bó, mất tự do. Nhà thơ hẳn phải là con người phóng khoáng, có chí tung hoành, không hám danh hám lợi nên mới tự tin bộc lộ bản thân.

Ông liệt kê các học vị, các chức quan lớn mà mình đã nắm giữ. Với câu văn dài ngắn khác nhau, nhịp thơ linh hoạt cùng với cách sử dụng điệp từ “khi” và hệ thống từ Hán Việt đã thể hiện một cảm hứng tự hào, tự tin khẳng định cái tôi cá nhân của một con người tài năng.

Phần còn lại là sự giãi bày cách sống ngất ngưởng khác thường của thi sĩ. Lại một câu thơ chữ Hán xuất hiện “Đô môn giải tổ chi niên” đánh dấu sự kiện chuyển biến trong cuộc đời nhà thơ với ý nghĩa cả câu: năm ở kinh đô cởi trả ấn để về hưu, sống một lối sống như mình mong muốn:

“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Chỉ với bốn câu thơ mà đến hai lần từ “ngất ngưởng” xuất hiện phải chăng nhà thơ quá yêu thích lối sống ấy. Trong các câu thơ trên có sử dụng nghệ thuật đối ý tương phản. Đạc ngựa mà lại đeo cho bò vàng, tay kiếm cung mà nên dạng từ bi nhắc đến đao kiếm là con người ta nghĩ ngay đến binh đao, chém giết làm sao có thể từ bi, đi vãng cảnh chùa để thoát tục mà “Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì”… chính sự đối lập gay gắt trong nhân cách của nhà thơ tạo nên sự khác biệt của ông.

Nguyễn Công Trứ là người có công lớn với triều đình, với nhân dân từng giúp dân trị thủy, khai hoang và lập nhiều chiến công trong việc dẹp loạn các cuộc nổi dậy chống triều đình. Ý thức được tài năng của mình ông lựa chọn cho mình một phương thức sống, một cách sống khác người. Trước tiên ông nguyện một lòng phò vua giúp nước, cống hiến tài năng trí tuệ của mình “đem tất cả sở tồn làm sở dụng” (đem tất cả chí bình sinh của mình ra cống hiến cho đời) với trí nam nhi của mình:

“Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”

Sau khi đã hoàn thành trách trách nhiệm trên vai người trí sĩ yêu nước thương nòi, ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc với quan niệm “Cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”. Chính bởi vậy ông chẳng bận tâm đến chuyện được mất, khen chê ở trên đời, ông bỏ ngoài tai tất cả để toàn tâm tận hưởng thú vui của riêng mình:

“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”

Hai câu thơ tiếp theo với cách ngắt nhịp 2/2/2/2, 2/2/3 linh hoạt, dồn dập liệt kê các thú vui của tác giả, tạo cho câu thơ phong phú về âm điệu, nhạc điệu:

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục”

Điệp từ “khi” và ba từ “không” liên tiếp lặp lại cho thấy một tâm hồn tự do, phóng khoáng không vướng bận thế tục, không vướng việc đời, một phong thái ung dung, tự tại. Nguyễn Công Trứ đang tiêu dao tận hưởng những ngày tháng của một kẻ sĩ tài hoa, tài tử: “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp/ Trong thú yên hà mặt tỉnh say”

Cuối cùng nhà thơ đúc kết lại toàn bộ cuộc đời mình bằng ba câu thơ với sự khẳng định chắc nịch tài năng và phẩm chất của bản thân:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”

Nhà thơ đã tự xếp mình ngang hàng với các vị danh tướng lỗi lạc của đời Hán, đời Tống bên Trung Hoa. Trái, Nhạc, Hàn, Phú là Trái Tuân, Hàn Phi, Hàn Kì, Phú Bật. Ông tự định vị, tự ý thức được tài đức của mình. Ông rong chơi cho thỏa chí của mình nhưng vẫn vẹn đạo vua tôi.

Thật đúng như nhận xét của Trần Đình Sử về Nguyễn Công Trứ “Nhập thế tục mà không vướng tục, rong chơi mà vẫn trọn nghĩa vua tôi”. Kết thúc bài hát tác giả tự xưng bằng một tiếng “ông” hào hùng. Cái tôi cá nhân được phô diễn cực độ, tự tin khẳng định trong triều chẳng có ai được như ông.

“Bài ca ngất ngưởng” với bút pháp nghệ thuật đặc sắc sử dụng các điệp từ, câu cảm thán làm cho ngữ điệu nói bộc lộ rõ, nó làm cho tính chủ thể của lời văn nhất quán và xuất hiện giọng điệu khẳng khái ngang tàn, ngạo thách thức. Sử dụng tiếng thô, tiếng lóng trong sinh hoạt hàng ngày tạo ra giọng nói sống động pha tạp vừa thanh vừa tục. Trong một bài thơ tính cả nhan đề có đến năm lần nhà thơ dùng từ “ngất ngưởng” thể hiện cá tính ngông của ông.

Bài thơ đã khắc họa chân dung của cụ Nguyễn Công Trứ một con người tài ba, lỗi lạc vừa làm trọn phận bề tôi, vừa thỏa chí của bản thân mình. Bài thơ đã góp phần làm cho thể thơ hát nói được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của mình.

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 3

Nguyễn Công Trứ không chỉ là một vị quan mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Nguyễn Công Trứ sáng tác rất nhiều, đặc biệt là thơ văn chữ Nôm và thông qua những sáng tác ấy hiện lên rõ nét phong cách độc đáo của ông. Và có thể nói, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” – tác phẩm được xem như bản tổng kết về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của ông.

Đọc bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy “ngất ngưởng” chính là cảm hứng xuyên suốt toàn bộ bài thơ, nó xuất hiện bốn lần trong tác phẩm. Vậy từ “ngất ngưởng” trong bài thơ nên được hiểu như thế nào? Như chúng ta đã biết, “ngất ngưởng” là một từ láy dùng để chỉ độ cao – cao hơn người khác, vật khác và luôn ở trong trạng thái nghiêng ngả, chực đổ, nó không hoàn toàn vững nhưng cũng không thể nào đổ được.

Tuy nhiên, trong tác phẩm, “ngất ngưởng” không phải được dùng với nghĩa ấy mà nó được sử dụng ở một tầng nghĩa khác, đó chính là lối sống, thái độ sống của tác giả. Và với cách hiểu đó, chúng ta sẽ thấy bài thơ có nhiều điều thú vị, hấp dẫn.

Trước hết, trong sáu câu thơ đầu của bài thơ, tác giả đã thể hiện rõ nét sự ngất ngưởng khi ở chốn làm quan. Đầu tiên, sự ngất ngưởng ở chốn làm quan được thể hiện ở sự khẳng định vai trò, vị trí của chính mình trong trời đất:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

Với hai câu thơ nhưng tác giả đã cho thấy thái độ về vị trí của mình. Với ông, mọi việc trong vũ trụ, trời đất đều là việc của mình, đồng thời, ông coi việc nhập thế chính là cách để ông bộc lộ tài ba, trí tuệ của mình. Và để rồi, từ sự khẳng định ấy, ông đã phô diễn, đã khoe tài năng, danh vị của mình:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Trong bốn câu thơ, tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt – Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông,… cùng bút pháp liệt kê và điệp ngữ, từ đó cho người đọc thấy rõ tài năng và danh vị của mình. Có thể thấy, Nguyễn Công Trứ là người văn võ song toàn, đồng thời giữ nhiều chức vị quan trọng trong cuộc đời làm quan của mình. Như vậy, trong sáu câu thơ đầu nào thơ, tác giả đã nói về tài năng, khoa danh vị của mình với một thái độ đầy trang trọng, nhấn mạnh và đầy tự hào.

Không chỉ ngất ngưởng ở chốn làm quan, Nguyễn Công Trứ còn ngất ngưởng cả trong lối sống sau khi đã cáo quan về hưu, điều đó được thể hiện chân thực và rõ nét trong mười ba câu còn lại của bài thơ. Trước hết, lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi cáo quan về hưu được thể hiện ở lối sống khác người, khác đời, trái khoáy.

Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng

Hai câu thơ đã gợi lên trước mắt chúng ta dáng ngồi ngất nghểu của tác giả trên lưng con bò vàng được trang sức bằng đạc ngựa – một dáng vẻ khác người, như muốn khiêu khích, trêu ngươi. Và để rồi, khi thả hồn mình vào mây trắng, núi cao, dáng vẻ ngất ngưởng của tác giả vẫn không thay đổi:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi gì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng

Có lẽ trong văn học, chưa bao giờ chúng ta thấy một người nào đi vãn cảnh chùa giống như Nguyễn Công Trứ. Đi vãn cảnh chùa – nơi chốn thanh cao, tao nhã vậy mà lại mang theo một cô gái hầu. Cái dáng vẻ, cái lối sống ấy của ông khiến Bụt cũng phải chào thua, cũng phải bật cười.

Đồng thời, trong lối sống của mình, Nguyễn Công Trứ không chú ý nhiều đến chuyện được, mất, khen chê bởi với ông, chuyện được, mất chẳng biết cái nào hơn cái nào.

Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Thêm vào đó, ở Nguyễn Công Trứ ta còn thấy hiện lên lối sống tự do, thỏa chí, muốn gì làm này, không vướng tục.

Khi tửu, khi ca, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục

Như vậy, có thể thấy, thái độ, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ khi về hưu có những biểu hiện rất riêng. Tuy nhiên, ở ông ta vẫn thấy nhiều điểm nhất quán với cuộc sống trước đó, ông vẫn luôn là một bề tôi trung thành. Và để rồi, ông đã có một lời tự tổng kết về cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở trong những câu thơ khép lại bài thơ.

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Tóm lại, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ với âm điệu khẳng định, lối nói đậm tính khẩu ngữ đã thêm một lần nữa cho chúng ta thấy vẻ đẹp nhân cách con người tác giả – một con người tài năng, lí tưởng sống hài hòa giữa cái vì đời và vì mình.

TOP 20 bài Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng 2024 SIÊU HAY (ảnh 2)

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 4

Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:

"Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông".

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm "Hàn nho phong vị phủ", và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. "Bài ca ngất ngưởng" là một trong những bài thơ hát nối kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ dôi tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hắt nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.

Nguyễn Công Trứ về chí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với Chiểu Nguyễn. Bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.

"Ngất ngưởng" nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu "ngất ngưởng" là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.

Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng tài trai. Rất trang trọng và hào hùng: "Vũ trụ nội mạc phi phận sự" — mọi việc trong vũ trụ chằng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: "Vũ trụ giai ngô phận sự" (Những việc trong vũ trụ đểu thuộc phận sự của ta ~-Nợ tang bồng; "Vũ trụ chức phận nội" (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta - Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy, chính vì "Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng". Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. "Tài bộ" là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ "lồng" trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. "Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với cái tài đội trời đạp đất của ông" (Lê Trí Viễn). Có người lại giải thích: "lồng là trời đất, vũ trụ". Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: "Đã mang tiếng ở trong trời đất", hoặc "Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn" (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có vào lồng vũ trụ thì mới có ý chí đấu tranh, như ông nói:

"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể".

Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, "tài bộ" mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.

Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cử, ông dám thí thố với thiên hạ: "Cái nợ cầm thư phải trả xong". Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lẫy lừng "Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ" ("Chí anh hùng"). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bời có văn võ toàn tài, bởi có "gồm thao lược", và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành "tay ngất ngưởng", một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần điệp lại chữ "khi" đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:

"Khi Thủ khoa! khi Tham tán ! khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược ! đã nên tay ! ngất ngưởng".

Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: "Bình Tây cờ Đại tướng". Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm "Phủ doãn Thừa Thiên". Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: "Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục". Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về chí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):

"Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng".

Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào "ngựa ngựa xe xe" nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với "miệng thế". Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:

"Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn.
Lợm mùi giáng chức với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian".

Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng — "tay kiếm cung" — thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị "nên dạng từ bi". Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh "Kìa núi nọ phau phau mây trắng", ông đã mang theo "một đôi dì", nhũng nàng hầu xinh đẹp với "gót tiên đủng đỉnh"...

"Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng..."

Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. "Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng" là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào gợi ít nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện "được, mất" là lẽ đời, như tích "Thất mã tái ông" mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì! Chuyện "khen, chê" của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá tính cốt cách đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện "được, mất", bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách an nhiên, hồn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong "Bài ca ngất ngưởng":

"Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng /
Không Phật / không Tiên / không vướng tục".

Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp (khi... không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hoà quyện trong những vần thơ đẹp như thế! Đúng là ngất ngưởng mà tài hoa, tài tử.

Khổ xếp của bài hát nói chỉ có 3 câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có 6 từ. Nên ghi đúng như văn bản 'Tuyển tập thơ ca trù" - NXB Văn học 1987 mới đúng thi pháp:

"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn "nghĩa vua tôi". Ông đã viết trong bài "Nợ tang bồng":

"Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác".

Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng "ông" đĩnh đạc, hào hùng: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông!". Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải "vẹn đạo vua tôi" mới trở thành "tay ngất ngưởng", "ông ngất ngưởng" được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục", cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.

Cái nhan đề, thi đề "Bài ca ngất ngưởng" của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất "ngông". Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.

Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.

Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hòa nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. "Bài ca ngất ngưởng" đích thực là "Bài ca từ đáy lòng" của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 5

Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ tài năng, văn võ song toàn. Không chỉ vậy, ông còn có đóng góp đặc biệt cho sự phát triển của thể loại hát nói. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những tác phẩm như thế. Sáng tác vào năm 1848, khi Nguyễn Công Trứ cáo quan về ở ẩn, bài thơ thể hiện quan niệm sống ngất ngưởng độc đáo đồng thời định hình phong cách sống “ Nhà nho tài tử” đầy tính nhân văn của tác giả.

Bài thơ đã nêu lên quan niệm mang tính triết lý về lối sống ngất ngưởng. “Ngất ngưởng” theo nghĩa đen là từ dùng để chỉ người hoặc vật ở tư thế vượt trội hơn so với xung quanh nhưng không vững chắc, ngả nghiêng như trực ngã, dễ tạo ra cảm giác lo lắng, khó chịu. Tuy nhiên, với Nguyễn Công Trứ, “ngất ngưởng” là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ. ‘Ngất ngưởng” với ông là lối sống, thái độ sống vượt lên trên những khuôn mẫu, chuẩn mực thường thấy, hướng đến cuộc sống tự do, phóng khoáng mà không kém phần cao sang. Đó là lối sống khẳng định cái “tôi”, khẳng định cá tính ngông nghênh của một con người tài năng.

Trước hết, lối sống “ngất ngưởng” được tác giả thể hiện khi hành đạo. Câu thơ đầu tiên mở ra bằng quan niệm về bổn phận của kẻ sĩ:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự”.

Với Nguyễn Công Trứ, ông coi công danh là lẽ sống. Cách sử dụng từ Hán việt kết hợp với giọng điệu trang trọng đã bộc lộ quan điểm sống tích cực, khẳng định bổn phận, trách nhiệm của kẻ sĩ. Không chỉ vậy, nhà thơ còn thể hiện cái tôi đầy ngất ngưởng:

“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”.

Lời tự xưng “Hi Văn” đặt giữa câu thơ bộc lộ cái tôi cá tính đầy bản lĩnh. Xưa nay trong văn học trung đại, đưa cái tôi cá nhân vào thơ đã hiếm, tự tin khẳng định tài năng cá nhân qua từ “tài bộ” lại càng hiếm hơn. Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng” thể hiện sự bó buộc, giam hãm, mất tự do. Không chỉ ý thức về tài năng, nhà thơ còn tự tin thể hiện điều đó qua những việc làm cụ thể:

“Khi Thủ Khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

Điệp từ “khi” kết hợp với thủ pháp liệt kê tạo nhịp điệu dồn dập, hứng khởi. Lần lượt từng học vị hay những chiến tích vang dội được nêu ra đã góp phần vẽ nên chân dung của một con người tài năng trên nhiều lĩnh vực. Qua sáu câu thơ đầu, nhà thơ hiện lên với một quan niệm sống đầy cá tính, bản lĩnh mà nền tảng là ý thức, trách nhiệm và tài năng hơn người.

Bên cạnh đó, lối sống “ngất ngưởng” còn được ông thể hiện khi cáo quan về quê. Với ông, cáo quan về quê là một sự kiện trọng đại:

“Đô môn giải tổ chi niên”.

Khi nghỉ hưu, người đời thường cưỡi ngựa, còn ông lại cưỡi bò, vừa đeo đạc, vừa cao ngạo với đời. Từ giã chốn kinh kì, ông ngao du sơn thủy, trút sạch bụi trần. Nhà thơ đã tự phác họa chân dung mình một cách đầy hài hước:

“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

Đó đều là những việc làm khác người, khẳng định phong cách sống độc đáo. Bản lĩnh Nguyễn Công Trứ được thể hiện ngay trong thái độ sống của ông:

“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc. khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục”.

Hình ảnh “người thái thượng”, “ngọn đông phong” kết hợp với phép đối “được-mất”, “khen-chê”thể hiện thái độ sống bỏ qua mọi lời đàm tiếu, coi thường được, mất. Phép liệt kê với điệp từ “khi”, “không” tạo nhịp ngắt linh hoạt. Ông không tu theo Tiên, nhưng cũng không vướng tục. Tóm lại, Nguyễn Công Trứ tiếp tục làm rõ bản lĩnh, cá tính qua hình ảnh một con người không đạo mạo, nghiêm nghị, không rơi vào vòng phàm tục.

Cuối cùng, lối sống ngất ngưởng được thể hiện khi ông tổng kết về cuộc đời mình:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.

Nguyễn Công Trứ hoàn toàn tự tin khi đã hoàn thành 2 nhiệm vụ quan trọng nhất của kẻ sĩ: cống hiến tài trí, vẹn đạo vua tôi. Nhà thơ tự đề cao mình qua phép so sánh đầy ngạo nghễ. Với cổ nhân, ông ngang hàng Trái, Nhạc, Hàn, Phú. Còn với người đương thời, trong triều, ông là duy nhất. Nhà thơ đã bộc lộ thái độ cao ngạo đầy ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ hiện ra với tư thế đĩnh đạc, ý thức về bản thân và giá trị của những hành động do mình làm.

Về nghệ thuật, bài thơ đậm nét thể loại hát nói, sử dụng nhiều ngôn ngữ tự xưng, nhiều từ Hán Việt mang tính trang trọng cho thể hát nói. Về nghệ thuật, bài thơ đề cao lối sống ngất ngưởng, phóng khoáng giữa xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, lễ giáo ràng buộc. Không chỉ vậy, “Bài ca ngất ngưởng” còn thể hiện đậm nét con người Nguyễn Công Trứ. Ông không chỉ đa tài, giàu bản lĩnh mà còn có phong cách, có cá tính độc đáo.

Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” đã thể hiện một quan điểm sống đầy mới lạ, táo bạo. Ở đó, con người không bị ràng buộc bởi những lễ giáo phức tạp, mà được tự do, được sống đúng với bản thân, sống đúng với cá tính của mình. Có thể nói, đó là một quan niệm độc đáo, là sự định hình cho phong cách sống “Nhà Nho tài tử” đầy tính nhân văn.

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 6

Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) xuất thân dòng dõi Nho gia, quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhìn vào cuộc đời Nguyễn Công Trứ, chúng ta sẽ thấy rõ hai nét thấm nhuần đến tận chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu quân thần và ý thức rất rõ về tài đức của mình. Điều đáng quý là ông đem hết tài đức cống hiến cho nước, cho dân trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hoá đến kinh tế, quân sự và đã làm nên sự nghiệp, danh tiếng để đời. Chí hướng, nhiệt huyết ấy đương thời ít người sánh kịp. Tuy nhiên, con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ không bằng phẳng mà thăng giáng thất thường, bởi cá tính mạnh mẽ và phong cách ngất ngưởng của ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến.

Bất ngờ thú vị là ông quan lớn có tài kinh bảng tế thế như vậy mà lại có thêm tài văn chương, tâm hồn nghệ sĩ và cốt cách tài tử phong lưu, biết sống và dám sống. Sau khi cống hiến hết mình cho dân cho nước và công việc đã hoàn thành tốt đẹp thì Nguyễn Công Trứ thường tự thưởng bằng những thú chơi thanh nhã: Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo… Thảnh thơi thơ túi rượu bầu, hoặc thả hồn mơ màng theo tiếng địch, tiếng đàn du dương, trầm bổng.

Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là bản tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn tướng công. Nguyễn Công Trứ đã phô trương thái độ ngang tàng, một lối sống chân thật, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân vượt ra ngoài khuôn khổ Nho giáo. Cảm xúc phóng túng được tác giả gửi vào thể ca trù có hình thức tương đối tự do, vừa là thơ vừa là ca, là nhạc:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông Ị

Tình thần của bài thơ toát lên thái độ ngất ngưởng. Thái độ ấy không chi thể hiện ở tựa đề mà còn ở bốn lần tác giả nhắc lại tính từ ngất ngưởng như một sự trùng lặp cố ý, tạo thành điệp khúc đúng vào chỗ đúc kết ý trên và mở ra ý dưới.

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2003), từ ngất ngưởng đồng nghĩa với từ ngất nghểu, được dùng để chi người ở tư thế trên cao không vững vàng, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Trong Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ không dừng từ ngất ngưởng theo nghĩa này mà lồng vào đó một thái độ, một quan niệm sống khác người. Tất nhiên, muốn ngất ngưởng được như ông phải có bản lĩnh cứng cội, có lòng tin tuyệt đối vào bản thân và biết coi rẻ sự được mất, khen chê của thế gian theo thói thường. Những chức vụ Nguyễn Công Trứ đã trải qua và cung cách hành xử mà ông đã thể hiện dù khi tại chức hay khi đã về hưu được kể tới trong bài thơ này đều cho thấy ông quả là một tay ngất ngưởng hiếm có. Hơn thế, ngay cách kể về sự ngất ngưởng cũng góp phần tô đậm tính cách ngất ngưởng của ông.

Phong thái ngất ngưởng khác người ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ trước, kể cả trong thời gian làm quan, hằng ngày ra vào nơi triều chính, nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không cần giấu giếm từ sau khi Đô môn giải tổ chi niên (trả lại ấn tín, vua cho nghỉ hưu, trở về cuộc sống đời thường). Bởi vì thái độ ngất ngưởng như thế không được phép diễn ra trước mắt các ông vua chuyên chế của triều đình nhà Nguyễn.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết: Vũ trụ nội,mạc phi phận sự, có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ, chẳng có việc nào mà không phải là phận sự của ta. Cách nói phủ định để khẳng định ấy đề cao tâm thế của một nhà Nho chân chính.

Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi lại làm ra vẻ khiêm tốn tự nhận: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Làm quan, ông coi là đã vào lồng, tức là vào khuôn phép nghiêm ngặt, tù túng của Tam cương, Ngũ thường. Mà như thế là mất tự do, là trái với tài đội trời đạp đất của ông. Biết vậy nhưng ông vẫn tham gia triều chính vì đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của minh.

Cách xưng hô trong bài thơ có nét độc đáo. Mới đọc qua ta sẽ tưởng rằng tác giả không phải là Nguyễn Công Trứ vì các đại từ thuộc ngôi thứ ba (ông, tay) được dùng thay cho đại từ ngôi thứ nhất (tôi, ta). Qua đó, nhà thd chứng tỏ rằng mình là một giá trị hiển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận.

Nguyễn Công Trứ vừa mới để cao vai trò bản thân trong Vũ trụ ở câu thứ nhất thì ngay câu thứ hai đã tự trách mình là đem cái tài bộ ấy nhốt vào lổng: Tuy thế, ông không giấu sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới những mốc son của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ được nhắc bằng vài chữ như dửng dưng, không có gì là quan trọng:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Nếu theo đúng lời ông kể trong bài thơ thì ông không chỉ làm quan mà còn làm quan to, không bị giáng chức như trong cuộc đời thực mà còn luôn luôn thăng tiến. Năm 1819, ông đỗ Giải nguyên kì thi Hương; năm 1833 làm Tham tán quân vụ; năm 1835 làm Tổng đốc hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên; năm 1841 thăng Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ; năm 1848 chính thức làm Phủ doãn Thừa Thiên. Con đường công danh thênh thênh rộng mở cho đến khi ông được vua cho phép giải tổ chi niên.

Nhắc đến những sự kiện lớn lao hiển hách trong đời mình mà giọng kể của ông nghe như bỡn cợt, đùa chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi Hương trường Nghệ An), làm Tham tán quân sự…, những chức vụ ấy nổi sơ qua cũng được, nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to đứng đầu mấy tĩnh, hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc là khi Tổng đốc Đông và bình Tây cờ đại tướng thì quả thật Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là điều vẻ vang đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ, đốn tay mình thì làm, cái cốt yếu là đã làm thì phải hết lòng hết sức. Nguyễn Công Trứ từng nói một câu nổi tiếng: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục. Câu tổng kết sự nghiệp: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định đối với công danh, dù là Tổng đốc, dù là đại tướng, ông cũng coi nhẹ tênh, chẳng có gì quan trọng.

Đó là biểu hiện thứ nhất của thái độ ngất ngưởng.

Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có: Thường thường, các bậc quan lại giàu sang đi đâu thì cưỡi ngựa, còn Nguyễn Công Trứ lại cưỡi bò vàng và còn cho bò vàng đeo đạc ngựa:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Người đời bảo ông ngông nghênh, lập dị. Có kẻ lại cho là ông cao ngạo đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn hơn thế: ông cho bò vàng đeo đạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau khi ông về hưu. Vừa nêu rõ thời điểm: Đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn), thì lại cho ngay bò vàng mình cưỡi đeo đạc ngựa để nó cũng ngất ngưởng như mình. Nếu ai suy diễn điều này thì chắc không khỏi cho rằng hành vi của Nguyễn Công Trứ là xấc xược, phạm thượng. Đó là biểu hiện thứ hai của thái độ ngất ngưởng.

Biểu hiện thứ ba là Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng cả với Bụt:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Lên thăm chùa ở trên núi mây phủ trắng phau, ông tự cười nhạo mình là Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Kì thật đó chỉ là cái dạng thôi (vẻ bên ngoài), bởi theo hầu ông còn có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đào. Không những chẳng nên dạng từ bi chút nào mà còn bất kính nữa. Tuy vậy, ông vẫn rất tự nhiên, khiến Bụt chẳng nỡ chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng trước ông quan thượng già tính khí khác người.

Đến chùa, ông không lễ Phật mà bày tiệc hát ca, có cả ả đào, đàn địch, trống phách hẳn hoi. Ông say mê thưởng thức một bữa tiệc rộn rã đàn ca và cảm thấy mình đã trút sạch tục lụy của cõi đời, tâm hồn lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân:

Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của Nguyễn Công Trứ. Bây giờ thì mọi sự đời: cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê… ông đều coi là cỏ rác. Hồn ông lâng lâng trên cõi gió mây trong lành, cao khiết. Lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/dương dương /người thái thượng, Khen chê /phơi phới / ngọn đông phong.

Tâm hồn Nguyễn Công Trứ bay bổng trên cao, trong âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn tiếng trống. Câu thơ: Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng ngoài ý nghĩa liệt kê còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả tài tình tư thế ngả nghiêng thoải mái của Uy Viễn tướng công trong cuộc chơi tưởng chừng bất tận. Dù cuộc vui bày ra ngay nơi cửa Phật và có cả một đôi dì tham dự nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn cảm thấy mình trong sạch, thanh cao: Không Phật t không Tiên / không vướng tục.

Đây là đoạn mà ý thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Nếu như hai câu trước trải dài, nhịp điệu thênh thênh, thanh thoát như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên, dồn lên rối rít và chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc đục {tục). Chấm dứt câu thơ mà cũng là nện mạnh dùi xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khẳng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình, khí phách mình.

Nguyễn Công Trứ ngông nghênh tự đặt mình ngang hàng với những nhân vật lỗi lạc ngày xưa (Trái Tuân thời Hán và ba người thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những danh tướng có sự nghiệp hiển hách). Kết cấu câu: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú thể hiện rõ ràng thái độ đó. Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ cốt cách và tâm tính cao ngạo của Uy Viễn tướng công, giúp người đọc hiểu được phần nào thái độ ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng của ông.

Kết thúc bài thơ phóng khoáng, bay bổng này, Nguyễn Công Trứ không quên nhắc tại điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung, mặc dù câu đó chỉ được đặt giữa một câu tự đánh giá rất cao về bản thân và một câu như muốn thách thức với cả triều đình nhà Nguyễn:

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Điều đáng nói là tùy tôn trọng ý thích bản thân nhưng Nguyễn Công Trứ không sa vào thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vẫn là một nhà Nho coi trọng tư tưởng hành đạo, có tinh thần nhập thế tích cực và luôn tâm niệm: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, ông sống và làm việc hết mình, đồng thời biết thưởng thức, nếm trải những thú vui ở trên đời. Mọi hành động của Nguyễn Công Trứ đều toát ra tinh thần tự do, phóng khoáng.

Thái độ ngất ngưởng bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm điệu hoàn toàn thích hợp: câu ngắn, câu dài tùy ý, vần liền từng cặp xen lẫn thanh bằng, thanh trắc đều đặn, niêm luật tự do, đối không bắt buộc. Âm điệu được chi phối bởi trạng thái tâm hồn nhà thơ : lúc cười cợt, lúc tự hào, sảng khoái. Cách nói nôm na kiểu khẩu ngữ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sinh động lạ thường.

Giọng điệu Bài ca ngất ngưởng thể hiện nét độc đáo trong tính cách tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí ồn ào. Có hai điều Nguyễn Công Trứ không hề che giấu là công tích lớn lao mà ông coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bực.

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 7

Trong văn học, ngoài cái tôi lãng mạn, hào hoa khiến người ta say đắm thì còn một cái tôi ngang tàn, ngạo nghễ cũng không kém phần thu hút. Nếu như cái "ngông" của Nguyễn Tuân thể hiện ở sự phản ứng tiêu cực và đầy kiêu ngạo trước cuộc đời, ông thể hiện phong cách tài hoa của mình qua những trang viết lịch lãm, đặt mình lên trên thiên hạ thì Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện sự "ngất ngưởng", phóng khoáng trong cả tài năng, trí tuệ lần cốt cách của ông. Điều đó được thể hiện rõ nét qua tác phẩm Bài ca ngất ngưởng. Có thể nói, bài thơ chính là lời khẳng định của nhà thơ về thái độ sống của mình với cuộc đời.

Bài ca ngất ngưởng được sáng tác năm 1848, Nguyễn Công Trứ từ quan về quê nhà sau hơn 30 năm ông làm quan dưới triều Nguyễn. Trong suốt hơn 30 năm, Nguyễn Công Trứ lúc làm lính thú, lúc cầm quân chinh chiến, khi lại làm đại quan ông đã từng vinh nhục kinh qua, thăng trầm có cả nên có thể nói bài thơ Bài ca ngất ngưởng vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.

Mở đầu bài thơ là lời khẳng định của tác giả về quan niệm sống của một đấng làm trai:

"Vũ trụ nội mạc phi phận sự."

(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).

Nguyễn Công Trứ muốn khẳng định cái ngông của chính mình, rằng mọi việc trên đời này đều là việc của ông. Đây chính là sự xác định được vị trí của bản thân, là tuyên ngôn của kẻ sĩ có tài. Nếu như các nhà văn thường chỉ bày tỏ cái nhìn của mình đối với những khía cạnh khác nhau của cuộc đời và cảm xúc của mình với một trong những khía cạnh đó thì Nguyễn Công Trứ ngược lại hoàn toàn, ông cho rằng đã là nam nhi trong thiên hạ thì không có một việc gì là không giải quyết được. Đấng làm trai cũng không bao giờ được trốn tránh những việc liên quan đến phận sự của mình trong thiên hạ, trong trời đất. Để chứng minh cho quan niệm này thì Nguyễn Công Trứ đã nêu ra cái bản ngã của cuộc đời mình:

"Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên."

Là một người có kinh nghiệm làm quan trên 30 năm, tác giả kể ra những chức vụ mà mình đã từng đảm nhiệm trong suốt những năm tháng phụng sự cho đất nước ấy. Đó là: "Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông...". Hẳn phải là một người tài giỏi, trí tuệ hơn người, thông minh, điều sự đều nhanh trí thì Nguyễn Công Trứ mới được giao cho nhiều trọng trách như vậy. Vì lẽ đó mà không một công việc gì mà tác giả chưa từng nếm trải qua, nên ông đã khẳng định với những đấng nam nhi còn lại trên cuộc đời này một lí lẽ chắc nịch như vậy. Những chứng cứ nhà thơ nêu ra rất xác đáng, là ví dụ không thể chối cãi cho lập luận ban đầu của ông.

Những tưởng chỉ khi làm quan, có chức có quyền thì Nguyễn Công Trứ mới bày tỏ cái tôi ngạo nghễ, phi thường đến như vậy nhưng không, kể cả trong cuộc sống thường ngày hay khi cáo quan về quê thì cái tôi ấy vẫn không hề mất đi mà còn tự do hơn:

"Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng"

Hình ảnh "đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng" cho thấy thái độ giễu cợt của tác giả đối với cuộc đời. Ông chưa từng thấy cái tôi của mình nhỏ bé, thấp hèn mà luôn thấy nó to lớn, sánh ngang với cuộc đời, để có thể hiển nhiên mà chế giễu. Đến cả Bụt cũng phải cười trước sự ngất ngưởng của nhà thơ:

"Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng."

Từ giã cuộc đời làm quan, trở về với cuộc sống bình thường giản dị nhưng lối sống của Nguyễn Công Trứ lại không tầm thường một chút nào. Hình ảnh miêu tả thật hóm hỉnh "Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi", cũng dễ hiểu thôi bởi nhà thơ trước kia là một người ở chốn quan trường đầy xô bồ, mưu mẹo, nay sống một cuộc sống của người dân bình thường bỗng cảm thấy mình thật "từ bi". Ông đi lễ chùa mà cũng phải "Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì". Quả thật, Nguyễn Công Trứ là một con người sống vô cùng phóng túng, sống hết mình mà chơi cũng hết mình. Ông luôn tỏ một thái độ hiên ngang, giễu cợt trước cuộc đời, khiến cho đến cả Bụt cũng phải cười trước sự "ngất ngưởng" của riêng ông. Có thể nói, mấy ai đạt được đến cái sự bất cần, ung dung như Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ có được cái phong thái này bởi lẽ:

"Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong"

Chốn quan trường giờ đây đã chẳng còn có ý nghĩa đối với tác giả. Bởi ông không còn phải phục tùng bề trên, nghĩa lệnh cho cấp dưới nữa. Mọi khen, chê, thưởng, phạt của cuộc đời làm quan giờ chỉ là hư vô. Nhà thơ đã thoát khỏi cái vòng danh lợi luẩn quẩn, để được thỏa sức vẫy vùng khắp bốn phương. Cuộc sống ấy thật đáng ngưỡng mộ:

"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục."

Nhà thơ không còn phải vướng bận bất cứ điều gì trên trần thế, ông có thể vui chơi, đàn hát, uống rượu một cuộc sống tự do, tự tại hơn bao giờ hết. Trải qua biết bao nhiêu năm cống hiến và phụng sự cho triều Nguyễn, tác giả cuối cùng cũng được tận hưởng trọn vẹn cuộc sống của riêng mình một cách "ngất ngưởng" nhất. Thái độ, phong thái này vốn có từ khi nhà thơ bắt đầu làm quan nhưng càng thể hiện rõ nét hơn khi ông về già, về nghỉ hưu.

Ba câu thơ cuối nhà thơ khẳng định rằng "không có một ai ngất ngưởng bằng mình":

"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Nguyễn Công Trứ khẳng định với mọi người rằng ông là một vị trung thần tận tâm với triều đình bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Công lao và những đóng góp của ông là vô cùng nhiều và to lớn. Giọng văn đĩnh đạc, hào hùng như là lời khẳng định đầy tự hào của tác giả về bản thân. Cho nên ông đã tuyên bố: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông!" Câu thơ cuối cùng nói lên nội dung của toàn bài, là sự cắt nghĩa, lí giải về quan niệm làm một đấng nam nhi ở trong trời đất của nhà thơ. Bằng việc khẳng định thái độ sống của mình, ông muốn gửi tới những bậc nam nhi trong thiên hạ rằng phải biết vị trí của mình đối với trời đất, "trị quốc bình thiên hạ" là phận sự của mỗi người. Lời khẳng định tuy ngắn gọn mà xúc tích, bày tỏ sự chắc chắn trong chí hướng của một người đã từng làm quan.

Toàn bộ bài thơ với nội dung mà nó truyền tải, người đọc chắc chắn sẽ hiểu được cái "ngất ngưởng" trong thơ của Nguyễn Công Trứ. Bằng tài năng, kinh nghiệm và những đóng góp của mình cho non sông, đất nước, tác giả đã khiến cho mọi người ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi con người, đặc biệt là người con trai đối với cuộc đời. Như vậy, cái tôi "ngất ngưởng" của nhà thơ không phải là một thái độ tiêu cực mà là sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa, tài tử.

Chỉ qua một bài thơ ngắn mà tác giả đã gửi gắm được toàn bộ lối sống và cái nhìn của mình trước cuộc đời. Thể thơ Nôm độc đáo với nhịp điệu rõ ràng, nhấn mạnh được phong thái hơn người của Nguyễn Công Trứ. Đọc bài thơ, ta thấy thêm cảm phục những người nam nhi đã cống hiến hết mình cho đất nước trong thời kì phong kiến, cũng thấy trân trọng thêm thái độ và tinh thần của tác giả đối với cuộc đời.

Nghị luận về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng - mẫu 8

Mỗi con người tạo nên một tính cách, mỗi nhà văn cũng có một phong cách riêng cho mình nhưng đặc biệt là có những tính cách nổi bật khiến người ta nhắc đến là nhớ ngay đến người đó. Và Nguyễn Công Trứ có một tính cách đặc biệt như thế, ông được biết đến với một cá tính đặc biệt, mạnh mẽ "ngất ngưởng". chính cá tính ấy làm cho người ta nhớ đến ông nhiều hơn. Đặc biệt cá tính của ông được thể hiện rất rõ trong bài thơ bài ca ngất ngưởng.

Bài ca ngất ngưởng giống như một lời tự thuật của Nguyễn Công Trứ về cuộc đời, tài năng, tính cách của ông. Đó là một tài năng lớn cũng là một tính cách lớn vượt qua khuôn khổ của thời trung đại cũng như nho giáo. Ông sinh ra trên mảnh đất Nghệ An, cùng thời với ông cũng có rất nhiều người tài giỏi tuy nhiên người ta lại nhớ đến ông. Phải chăng do tính cách khá đặc biệt của ông- một sự ngất ngưởng và lối sống chân thật ấy đã làm người ta nhớ đến ông nhiều hơn?.

Tác giả mở đầu bằng năm câu thơ để thuật lại cuộc đời làm quan của mình. Cuộc đời đó có vinh hoa hiển lạc nhưng cũng có lúc vất vả khốn cùng:

" Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"

Chỉ với năm câu thơ tác giả đã giới thiệu cho chúng ta vè phần đời làm quan của ông. Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm của từ " ngất ngưởng", ngất ngưởng là từ đồng nghĩa với ngất nghểu có thể hiểu là một người luôn ở tư thê cao không vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã. Nguyễn Công Trứ dùng tính từ này để nói về mình phải chăng là cả một ẩn ý?.

Trước hết là câu thơ đầu tiên thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Cùng với bản tuyên ngôn về chí làm trai " chí làm trai nam bắc đông tây- cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể" thì câu thơ đầu trong bài này cũng là một bản tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của ông

" Vũ trụ nội mạc phi phận sự"

Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này không có việc gì không phải là phận sự của ta. Dường như ta thấy Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà nho nhân chính. Nó nói lên sự ý thức tầm quan trọng cá nhân của ông và sự nhiệt huyết trong cuộc đời của ông.

Sau đó ông tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:

"Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"

Đối với ông mà nói làm quan như " vào lồng", câu thơ ấy có nghĩa là tác giả coi việc làm quan giống như bị nhốt trong lòng. Bởi vì với tính cách ngông nghênh cùng ý chí ngút trời " vẫy vùng trong trời đất" những đạo lí Tam cương ngũ thường trở thành khuôn phép gò bó tính cách của ông. Nguyễn Công Trứ tự xưng là ông, đó là một cách xưng hô độc đáo. Dẫu biết làm quan là bó buộc mất tự do nhưng ông vẫn làm vì nhờ đó ông thể hiện được tài năng cũng như hoài bão của mình. Qua đó Nguyễn Công Trứ thể hiện mình như một giá trị hiển nhiên giữa đời mà không thể phủ nhận được.

Sau đó là một loạt chức quan được kể ra như " thủ khoa", "tham tán", " tổng đốc đông" ," bình tây đại tướng" khi lại " Phủ doãn thừa thiên". Có thể nói cuộc đời làm quan của ông hiển đạt vô cùng tất thảy đều là những quan to. Tuy nhiên ở ngoài đời thực thì ông có bị giáng chức xuống làm một anh lính quèn. Tuy nhiên ông từng có một câu nói vô cùng nổi tiếng đó là : "Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục". vì thế cho nên dù làm ở cấp nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan trọng miễn sao ông được thỏa sức giúp nước nhà.

Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra buổi nghỉ quan về hưu của Nguyễn Công Trứ. Đúng là một con người khác lạ đến buổi dứt áo quan về quê cũng thật khác bình thường:

"Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"

Chia tay chốn quan trường nhà thơ về với quê hương thật đúng là " ngất ngưởng". Người ta về quan tiệc tùng linh đình về trong võng lọng kiệu đẹp, hay cùng lắm là con ngựa gầy nhưng Nguyễn Công trứ thì lại khác. Về quê chẳng tiệc chia tay, chẳng người đưa tiễn, chẳng vọng lọng kiệu ngựa mà chỉ một mình với con bò vàng đủng đỉnh. Bò mà đeo đạc ngựa thật sự chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có mà thôi!.

Về quê nhà thơ tự do vui thú với cảnh quê hương và ca trù. Ông lên thăm chùa mà tự cười nhạo mình từ bi nhưng thật ra đằng sau lại có hai cô ả đào. Theo sau. Như thế là thất kinh nhưng bụt không tức giận mà phải bật cười vì tích cách của vị quan già ngông nghênh ấy.

Những câu thơ còn lại đều nói về cuộc đời và vui thú của ông khi về hưu:

"Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Cuộc đời của ông từ đây nhàn hại với những thú vui tao nhã. Đối với ông khen chê không là chuyện ông đáng để tâm tới ông cứ sống theo cách của mình. Cuộc đời này còn gì vui hơn hạnh phúc hơn khi được sống đúng là chính mình. Mấy ai được sống là chính mình còn Nguyễn Công Trứ thì làm được điều đó. từ đây ông đắm mình trong thú vui tuổi già đó là ca trù không vướng tục. Từ "khi" được điệp đi điệp lại nhiều lần thể hiện sự lặp lại của những thú vui ấy. Ca trù, rượu nóng ông say sưa trong hơi men và điệu các điệu tùng. Đúng là một cuộc sống đầy âm nhạc. Ông cứ sống như thế chẳng theo tiên theo phật cứ sống theo cách của chính ông mà thôi. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài nếu như hai câu trước trải dài để thể hiện sự thanh thản khi về hưu thì hai câu sau lại đầy ắp tiếng nhạc.

Nguyễn Công Trứ tự đặt mình ngang hàng với những các nhân vật nổi tiếng ngày xưa:

"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"

Trái Tuân thời Hán và ba người thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những danh tướng có sự nghiệp hiển hách. Kết thúc bài thơ ông không quên nhắc tới công lao mà mình đã đạt được trước khi về hưu. Đó là nghĩa vua tôi cũng đã tròn đạo. Ông ca lên điệp khúc ngất ngưởng của mình, ông sống và làm việc tận tụy hết mình nhưng đồng thời cũng có những thú vui khác người. Thú vui ấy chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có , ông ngất ngưởng như vậy đấy.

Như vậy có thể thấy Nguyễn Công Trứ quả là một con người độc đáo ông tự ý thức được tài năng cũng như vị trí của mình. Ông sống mà không cần quan tâm đến người ta nói gì về mình. Và quả thật bài ca ngất ngưởng đã truyền tải hết sự ngất ngưởng của nhà thơ. Bài thơ không chỉ ngất ngưởng ở nội dung mà cả giọng điệu cũng góp phần làm nên bài thơ này.

Đánh giá

0

0 đánh giá