Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Đoạn văn bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều Ngữ văn 11 Kết nối tri thức, gồm 4 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Đoạn văn bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều
Đề bài: Truyện Kiều đã nhiều lần miêu tả cảnh Thúy Kiều đánh đàn. Hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều trong một lần được Nguyễn Du miêu tả.
Đoạn văn bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều - mẫu 1
Tiếng đàn là một ngôn ngữ đặc biệt biểu hiện trực tiếp tâm trạng nạn nhân của Kiều.Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không được nghe đàn lần nào mặc dù Từ là tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần nạn nhân trong tâm hồn Kiều coi như bị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh” kia không còn lý do tồn tại. Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều sống lại dữ dội nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa từng thấy. Tiếng đàn là ngôn ngữ không biết nói dối. Tiếng đàn không hề có chức năng che dấu tâm trạng mà có chức năng giải tỏa tâm trạng, nó có một phép mầu nhiệm khiến cho ngay cả khi nó cất lên tiếng “ca vui đầm ấm dung hòa” mà một kẻ như Hồ Tôn Hiến cũng thấu hiểu được tâm trạng đó là “muôn oán nghìn sầu”, buồn thấm thía. Khi nó xuất hiện trước Kim Trọng, tính chất nạn nhân của nó bộc lộ theo một kiểu khác, không phải để nguyền rủa để tố cáo, để lên án, nên cái anh chàng Kim Trọng mới có lúc bị lừa:
Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
Anh ta bị Nguyễn Du “tiêm” thứ thuốc mê lý tưởng hóa vào để lừa đấy thôi, lúc ấy mà anh ta còn nghe thấy tiếng nói nạn nhân nữa thì đoạn đoàn viên như thế là hỏng bét! Và có lẽ sự lạc quan của Kim Trọng cũng là một cách “chiêu tuyết” cho Kiều chăng? Ngày xưa, anh ta là tri âm của Kiều, chính Kiều cũng công nhận (“Đã cam tệ với tri âm bấy chầy”), nhưng bây giờ đoàn viên thì anh ta không còn là tri âm nữa. Bởi vì đôi tai của con người kiểu Kim Trọng vốn là như thế, nó quá tinh đến nỗi nghe được những âm vang từ một cõi siêu hình mà tai trần không nghe thấy được, nhưng nó lại cố điếc đến nỗi không nghe thấy những âm vang từ cuộc đời “quằn quại vũng lầy” mà ai cũng thấy văng vẳng bên tai. Vì vậy, khi con người nạn nhân của Kiều đã nhiễm những kinh nghiệm thực tiễn thì nó mất đi một tri âm tự nguyện là Kim Trọng và thêm vào những kẻ tri âm bất đắc dĩ là Hoạn Thư và Hồ Tôn Hiến.
Đoạn văn bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều - mẫu 2
Trong Truyện Kiều, cùng là một bản “Bạc mệnh” mà Kiều đánh, nhưng mỗi người nghe lại có những biểu hiện của sự tiếp nhận khác nhau. Kim Trọng thì “ngơ ngẩn sầu / khi tựa gối, khi cúi đầu / khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”. Thúc Sinh thì “giọt châu lã chã khôn cầm / cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương”. Còn tên “quan tổng đốc trọng thần” thì “lọt tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu”. Dù rằng cùng một cảm xúc buồn nhưng phản ứng của mỗi người không giống nhau. Ở những vị địa vị, quan hệ, tâm thế khác nhau, mỗi người trong họ có những cảm nhận về tiếng đàn nàng Kiều không như nhau. Tính đa nghĩa của bản nhạc, hay suy ra là tác phẩm văn chương, có một phần rất quan trọng do người tiếp nhận quyết định. Khái quát điều này, cụ Nguyễn Du đã viết : “Cùng trong một tiếng tơ đồng / kẻ ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng tiêu biểu cho điều này. Chàng Kim là người duy nhất được nghe Kiều đánh đàn hai lần một cách tự nguyện. Bản nhạc mà Kim được thưởng thức cũng “đầm ấm”, “êm ái” nhất trong bốn lần Kiều đánh đàn. Vậy mà giữa hai lần nghe, đầu và cuối truyện, hạnh ngộ và tái ngộ, cảm nhận của chàng về ý nghĩa tiếng đàn không hoàn toàn giống nhau. Nếu đầu truyện là “Rằng : hay thì thật là hay / nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào / lựa chi những khúc tiêu dao / cực lòng mình, cũng nao nao lòng người” thì cuối truyện, trong đêm hợp cẩn muộn màng, “khúc đâu đầm ấm dương hòa / ấy là Hồ Điệp hay là Trương Sinh / khúc đâu êm ái xuân tình / ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên”. Rõ ràng, ý nghĩa, sắc thái cảm xúc bản đàn của Kiều trong sự tiếp nhận của Kim “xưa sao sầu thảm, này sao vui vầy”, nghĩa là có sự thay đổi rất lớn. Bởi lúc này, Kim Trọng không còn “là người ngày xưa”, Thúy Kiều cũng đã không còn là nàng Kiều của buổi ban đầu nữa. Cũng là một bản “Bạc mệnh” đó thôi, nhưng ý nghĩa của nó trong sự tiếp nhận của người nghe ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ không giống nhau. Ý nghĩa của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều tâm trạng, vốn sống, trình độ thẩm mỹ… của người đọc mà chính cụ Nguyễn đã nói : “Tẻ, vui bởi tại lòng này”. Trong những giá trị của tiếng đàn nàng Kiều, giá trị lý luận về tính đa nghĩa, có thể là nhà thơ vô tình, ở một phương diện nào đó, xứng đáng được xem là một đóng góp của thi hào Nguyễn Du đối với lý luận văn học nghệ thuật của nước ta thời trung đại.
Đoạn văn bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều - mẫu 3
Âm nhạc luôn có sức truyền tải mãnh liệt, và tiếng đàn bi ai của Thúy Kiều khi Từ Hải chết, nàng bị bắt phải hầu rượu cho lũ Hồ Tôn Hiến đã khiến người đọc đau lòng, thương xót trước hoàn cảnh nghiệt ngã của nàng. Đó là lúc Kiều gảy lên khúc “Bạc mệnh” như đang khóc thương cho số phận bất hạnh chồng chất của chính mình. Cảm hứng bi kịch thích hợp với tiếng đàn nên Từ Hải không được nghe đàn lần nào mặc dù Từ là tri âm tri kỷ. Sống với Từ Hải phần nạn nhân trong tâm hồn Kiều coi như bị tiêu vong nên khúc “Bạc mệnh” kia không còn lý do tồn tại. Từ Hải chết, con người nạn nhân trong Kiều sống lại dữ dội nên tiếng đàn cũng ùa trở về với một sắc thái bi thảm chưa từng thấy. Tiếng đàn là ngôn ngữ không biết nói dối. Tiếng đàn không hề có chức năng che dấu tâm trạng mà có chức năng giải tỏa tâm trạng. Ở đây, ta thấy được một khúc nhạc khóc thương cho cái chết của Từ Hải, căm giận Hồ Tôn Hiến xấu xa, hèn hạ vẫn sống nhở nhơ, và ai oán cho số kiếp định mệnh oan nghiệt của Kiều. Sự nhục nhã, đau đớn khiến âm thanh tiếng đàn vẳng lên như đang than khóc, nguyền rủa, tố cáo kẻ độc ác, ghê tởm. Đằng sau tiếng khóc oán vọng trong tiếng đàn của Thúy Kiều, ta lại thấy được nỗi xót xa, đau đớn cùng nhân vật của Nguyễn Du. Mỗi lời thơ của ông đều có sức mạnh to lớn trên con đường nói lên tiếng nói con người về sự bất công của xã hội phong kiến chèn ép, đẩy con người đến đường cùng.
Đoạn văn bình luận về tiếng đàn của Thúy Kiều - mẫu 4
Nguyễn Du đã rất dụng công khi xây dựng hình tượng tiếng đàn nàng Kiều, “bốn lần đều khác nhau và hay như nhau” bởi nói như Tế Hanh (tài liệu đã dẫn trên), “lấy thơ tả nhạc là một điều khó. Tả nhiều lần mà khác nhau mà hay như nhau thì khó đến đâu !” và “cái khó mà Nguyễn Du vượt qua một cách vinh quang như chúng ta đã thấy”. Có lẽ khi dành nhiều tâm huyết xây dựng hình tượng này, cụ Nguyễn cũng đã cảm nhận được vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, nhất là tác phẩm thơ ca. Bản nhạc mà nàng Kiều đánh có tên “Bạc mệnh”, được “phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ” vì “quen mất nết đi rồi”. Đây là bản nhạc hay nhưng buồn. Cái tên của nó đã nói lên điều đó. Kim Trọng, Chung Tử Kỳ của tiếng đàn Thúy Kiều, cũng phải thốt lên khi nghe Kiều đánh lần đầu : “Rằng : ‘Hay thì thật là hay / nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào’…”. Bản đàn của Kiều là một tác phẩm âm nhạc (cung thương lầu bậc ngũ âm / nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương), hiểu rộng ra là một tác phẩm nghệ thuật. Trong cái nhìn tương qua với lĩnh vực văn chương, có thể xem bản đàn ấy như là một tác phẩm văn học xuất sắc. Đó là “cùng trong một tiếng tơ đồng” trong bản nhạc nàng Kiều mang nhiều nội dung khác nhau. Đó là những khúc “Hán, Sở chiến trường”, khúc “Tư Mã Phượng Cầu”, khúc “Quảng Lăng”, khúc “Chiêu Quân”. Bản đàn ấy cũng mang nhiều sắc thái không giống nhau, lúc “trong như tiếng hạc bay qua”, lúc lại “đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, lúc “khoan như gió thoảng ngoài”, lúc lại “mau sầm sập như trời đổ mưa” sau này lại “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”… Tương quan so sánh với tác phẩm văn học, ta thấy, một tác phẩm mang tính đa nghĩa phải có khả năng gợi mở nhiều nội dung, nhiều cách hiểu khác nhau, đem lại những màu sắc, hiệu ứng thẩm mỹ không giống nhau. Một tác phẩm lúc mà lúc nào cũng chỉ là “khúc Chiêu Quân”, từ đầu đến cuối chỉ “đục như tiếng suối mới sa nửa vời” thì chắc chắn sẽ rất hạn chế tính nhiều nghĩa. Như vậy, yếu tố đầu tiên và quyết định đến tính đa nghĩa của một tác phẩm chính là tự thân tác phẩm đó. Bản đàn Thúy Kiều rất tiêu biểu cho yếu tố này nếu xem nó là một thực thể nghệ thuật sống động, có sức sống nội tại của nó.