Tailieumoi sưu tầm và biên soạn giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 11 Phải coi luật pháp như khí trời để thở 44 sách Cánh diều hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 11. Mời các bạn đón xem:
Giải SBT Ngữ Văn lớp 11 Phải coi luật pháp như khí trời để thở trang 44
Câu 1 trang 44 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Chọn phương án trả lời đúng câu hỏi:
Nội dung chính của văn bản Phải coi luật pháp như khí trời để thở là gì?
A. Cung cấp cho người đọc những thông tin quan trọng về luật pháp
B. Nêu lên thực trạng và sự cần thiết phải chấp hành luật pháp
C. Giới thiệu các quy định về cách thức tôn trọng pháp luật
D. Nêu lên những suy nghĩ về luật pháp và cuộc sống con người
Trả lời:
Đáp án D
A. Khẳng định tầm quan trọng của luật pháp đối với cuộc sống con người
B. Khẳng định không có luật pháp thì xã hội sẽ không có tiến bộ khoa học
C. Khẳng định trong cuộc sống không có gì quan trọng hơn luật pháp
D. Khẳng định xã hội muốn có văn minh phải có luật pháp
Trả lời:
Đáp án A
Trả lời:
Cần tìm tính chất tổng hợp của văn bản này từ phương diện nội dụng: tác giả đã sử dụng kết hợp các phương thức: kể chuyện, miêu tả, thuyết minh, nghị luận. Mỗi phương thức ấy, HS cần chỉ ra các câu văn cụ thể trong văn bản. Vì dụ, đây là phương thức nghị luận: “Để tiến hành văn minh phải thượng tôn pháp luật. Hay nói cách khác, thượng tôn pháp luật cũng chính là để tiến đến văn minh. Phải coi một nhà nước biết đến pháp quyền và nhân dân hiểu pháp luật quan trọng như khí trời để thở, như nước uống hằng ngày.”.
Trả lời:
Mục đích văn bản khá rõ, tác giả thể hiện ngay ở nhan văn bản: Phải coi luật pháp như khi trời để thở. Nói một cách khác, mọi người cần thấy sự cần thiết phải chấp hành pháp luật như là yếu tố sống còn của con người.
– Để làm rõ mục đích ấy, nội dung bài viết đã được trình bày theo cách lần lượt nêu lên các hiện tượng vi phạm pháp luật của người Việt rất cụ thể, sinh động và hậu quả của sự vi phạm đó.
– Thái độ của người viết thể hiện rõ sự phê phán nghiêm túc với các hành vi vi phạm pháp luật và khẩn thiết kêu gọi mọi người chấp hành luật pháp.
Trả lời:
- Thông qua văn bản em biết có cái nhìn trực quan về xã hội, biết thêm nhiều các câu chuyện thực tế, các vấn đề vi phạm pháp luật để từ đó hiểu hơn và ý thức tầm quan trọng của pháp luật với đời sống. Đồng thời rút ra bài học cho mình là phải cố gắng tu dưỡng đạo đức, tuân thủ pháp luật để xây dựng một xã hội văn minh hơn.
- Một vài hiện tượng vi phạm pháp luật trong cuộc sống mà em đã gặp hoặc biết được:
+ Hiện nay, nhiều cá nhân khi tham gia giao thông không chấp hành tốt luật giao thông, vượt đèn đỏ và gây ra nhiều những tai nạn thương tâm.
+ Ba cô tiếp viên hàng không bị bắt do vận chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam.
Câu 6 trang 44 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi bên dưới.
“Còi to cho vượt”
Tôi chỉ là một cậu học sinh phổ thông nhưng cảm thấy xấu hổ về cái “văn hoá” giao thông của nước nhà, của tất cả mọi người chứ không riêng gì tuổi trẻ chúng tôi.
Những năm gần đây, số vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam tăng đột biến. Nhiều trường hợp vừa đau xót, vừa xấu hổ như đã xảy ra với Giáo sư Nguyễn Văn Đạo và đặc biệt là với giáo sư nước ngoài đang muốn giúp đỡ Việt Nam về giao thông. Nói về tai nạn giao thông và sự mất mát đau khổ do nó gây ra có lẽ cả ngày cũng không hết. Nếu liệt kê về nguyên nhân khiến tai nạn giao thông ngày càng tăng không biết bao giờ mới hết, nhưng theo tôi, nguyên nhân chính là do cái “văn hoá” giao thông “còi to cho vượt”.
“Còi to cho vượt” có lẽ chỉ ở ta mới có. Tuy còn ít tuổi nhưng tôi đã được đi một số nước trên thế giới, nhưng chưa thấy ở đâu có cái “văn hoá” “còi to cho vượt” lâu ngày ngấm vào người ta thành cái bệnh cứ vượt bừa lên, cứ nêm vào, cứ vọt lên cả vỉa hè mà vượt lên trước, cho nên nhiều khi không đáng tắc đường cũng thành ra tắc đường hàng tiếng đồng hồ,
Chúng tôi là học sinh nên sợ nhất là đi học muộn. Nếu đi muộn nhiều lần còn bị coi là hạnh kiểm chưa tốt. Tôi dù đã cao to, nặng cân như người lớn, nhưng vì là học sinh phổ thông nên vẫn phải chấp nhận để “mẹ đưa em đến trường”. Nói như vậy để khẳng định rằng, không phải tất cả những người trẻ tuổi chúng tôi đều không có ý thức. Cái bệnh “còi to cho vượt” trong giao thông để lâu biến chứng thành nhiều thói xấu biểu hiện rất rõ nét trong giao thông của người Việt. Ví như việc xin đường.
Quả thật, chỉ ở ta mới có cái lệ xin đường bằng cách giơ tay ra xin. Có lẽ do trước đây chỉ có xe đạp nên không có đèn xi-nhan để xin đường, thôi thì dùng mãi đã quen cũng có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, xin đường khác với cướp đường. Xin thì phải xin từ từ, xin trước để người ta xem xét một chút cho đường hay không. Nhưng phổ biến là vừa thò tay ra là rẽ luôn, thậm chí có ông cũng chẳng thèm giơ tay ra xin nữa mà rẽ quẹo ngay trước đầu xe ô tô làm cho nhiều lái xe giật mình, phanh gấp, và kéo theo là hàng loạt người đi theo phải xử lí phanh. Người nào không kịp thì đâm vào người kia, lại đẻ ra cái bệnh không muốn xin lỗi nhau mà chỉ sẵn sàng cãi nhau xem ai đúng ai sai. Dần dà thành “kinh nghiệm” chết người là khi không may bị đụng xe thì hãy “mau mềm chửi trước” để tránh lỗi.
Nói tóm lại, cái “văn hoá” giao thông của chúng ta còn quá nhiều điều đáng bàn, mong sao văn hoá “còi to cho vượt” được chấn chỉnh để giảm thiểu số vụ tai nạn giao thông và nhiều người không còn phải lo lắng khi lưu thông trên đường. Nếu không thì bao nhiêu “sáng kiến” như “phân luồng”, “lệch giờ học, giờ làm”, “lệch giờ làm giữa cơ quan trung ương và Hà Nội”, nào là “số lẻ, số chẵn”, đăng kí xe ở nội thành, ngoại thành,... và kể cả việc bỏ tiền tỉ làm đường thông hè thoáng chắc cũng không chống nổi cái “văn hoá” giao thông “còi to cho vượt” này.
(Dẫn từ sách Người Việt: Phẩm chất và thói hư tật xấu, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2009)
Câu hỏi:
a) Văn bản trên nêu lên nội dung gì? Nhan đề văn bản có gì đặc sắc?
b) Vì sao văn bản trên được coi là văn bản thông tin?
c) Mục đích của bài viết là gì? Vấn đề tác giả quan tâm có ý nghĩa như thế nào?
d) Theo em, thái độ của người viết đối với vấn đề mình nêu lên như thế nào? Dẫn ra một câu văn thể hiện rõ thái độ ấy.
Trả lời:
a) Nội dung văn bản nêu lên 1 thực trạng đáng buồn về tình hình giao thông ở nước ta. Nhan đề văn bản đặc sắc ở chỗ, người viết lấy một câu khái quát tình trạng giao thông của nước ta như là một thành ngữ hiện đại: “còi to cho vượt”. Câu này phản ánh thực trạng giao thông ở ta: i) Cứ bấm còi inh ỏi trên đường, nhất là khi muốn vượt lên trước; ii) Chỉ tình trạng cứ mạnh ai người ấy đi trước, chen lên phía trước bất chấp thứ tự giao thông trên đường. Như thế, nhan đề văn bản đã phản ánh được nội dung chính của bài viết
b) Văn bản trên được coi là văn bản thông tin vì mục đích là cung cấp thông tin.
c) Mục đích của bài viết nhằm nêu lên một thực trạng đáng buồn trong khi tham gia giao thông ở nước ta, nhất là Hà Nội và các thành phố lớn. Từ đó, phát biểu những suy nghĩ của mình trước thực trạng “còi to cho vượt”.
Vấn đề tác giả quan tâm ngày càng có ý nghĩa và cần có giải pháp khắc phục. Vì xã hội phát triển, các đô thị ngày càng nhiều các loại xe, dân cư ngày càng đông đúc dẫn đến tình trạng ách tắc giao thông ngày càng nan giải; trong đó, ý thức con người khi tham gia giao thông là quan trọng nhất.
d) Thái độ của người viết đối với vấn đề nêu lên trong bài: Phản đối ý thức bắt chấp luật lệ giao thông trên đường. Có nhiều câu văn thể hiện thái độ ấy. Ví dụ câu: “Nói tóm lại, cái “văn hoá” giao thông của chúng ta còn quá nhiều điều đáng bàn, mong sao văn hoá “còi to cho vượt” được chấn chỉnh để giảm thiểu số vụ tai nạn giao thông và nhiều người không còn phải lo lắng khi lưu thông trên đường.”
Xem thêm lời giải Sách bài tập Ngữ văn 11 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Câu 1 trang 44 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Chọn phương án trả lời đúng câu hỏi:...
Câu 6 trang 44 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi bên dưới....
Câu 6 trang 47 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:...
Câu 6 trang 49 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Đọc đoạn trích sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:...
Câu 3 trang 51 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Hãy chọn đáp án đúng cho những câu hỏi sau đây:...
Câu 4 trang 51 SBT Ngữ Văn 11 Tập 1: Hãy chọn cách sửa đúng cho các câu a), b), c) ở Bài tập 3:...
Xem thêm các bài giải SBT Ngữ văn 11 Cánh diều hay, chi tiết khác: