Văn bản Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Xuân Diệu - Nội dung, tác giả, tác phẩm

8.2 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam lớp 8.

Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Ngữ văn lớp 8

I. Tác giả Xuân Diệu

Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

- Xuân Diệu, tên khai sinh Ngô Xuân Diệu, sinh năm 1916 và qua đời năm 1985.

- Ông quê gốc ở Can Lộc, Hà Tĩnh, nhưng sống cùng mẹ tại Quy Nhơn.

- Năm 1937, Xuân Diệu đến Hà Nội để học luật và bắt đầu sự nghiệp viết báo, đồng thời trở thành thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.

- Vào cuối năm 1940, ông đi làm viên chức tham tá thương chánh tại Mĩ Tho (nay là Tiền Giang). Năm 1942, Xuân Diệu quay trở lại Hà Nội và tập trung vào công việc viết văn. Vào năm 1944, ông tham gia phong trào Việt Minh.

- Trong giai đoạn kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc và tiếp tục hoạt động văn nghệ cách mạng.

- Sau khi hòa bình được thiết lập, Xuân Diệu trở về Hà Nội sinh sống và làm việc cho đến khi qua đời.

- Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu mang đậm tính cá nhân và sáng tạo, đem lại sức sống mới cho thơ ca đương đại.

- Ông tập trung vào tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ, và trong thơ của mình, ông truyền tải những cảm xúc sôi nổi, đắm say và yêu đời.

- Xuân Diệu sử dụng ngôn ngữ tươi mới, ưa thích những hình ảnh tươi sáng, tươi mát, và khéo léo xây dựng những bức tranh tình cảm sâu lắng.

- Ông cũng thể hiện khả năng biểu đạt cảm xúc thông qua những đường nghệ thuật, từ những câu thơ ngắn gọn, súc tích đến những bài thơ dài hơn.

- Phong cách của Xuân Diệu không chỉ thể hiện sự sáng tạo và cá nhân hóa, mà còn đánh dấu sự đột phá, cách tân trong nghệ thuật thơ ca Việt Nam.

II. Tìm hiểu tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

1. Thể loại

Văn bản thuộc thể loại nghị luận văn học

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam được trích trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, NXB Văn học, Hà Nội.

3. Tóm tắt

Những ý chính của văn bản:

- Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh...

- Thu ẩm: đọc lên như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở.

- Thu vịnh: bài thơ mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao.

- Thu điếu: thú vị ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sống, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...

4. Phương thức biểu đạt

Văn bản có phương thức biểu đạt chính là nghị luận

5. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến “Thu điến, Thu ẩm, Thu vịnh. […]”): Giới thiệu Nguyễn Khuyến và 3 bài thơ nức danh

- Phần 2 (tiếp đến “nghệ thuật ngôn ngữ”): Nét đặc sắc của ba bài thơ

- Phần 3 (còn lại): Đánh giá chung về ba bài thơ

6. Giá trị nội dung

- Giá trị nội dung: làm rõ phong cách thơ của Nguyễn Khuyến qua các chùm thơ.

7. Giá trị nghệ thuật

- Các luận điểm chính và lý lẽ, cùng với các dẫn chứng, được sử dụng để làm rõ và minh chứng cho quan điểm và ý kiến đã được đề cập.

- Ngôn ngữ nghị luận của tác giả đơn giản, gần gũi và dễ hiểu. Phân tích được thực hiện một cách logic, mạch lạc, đồng thời so sánh với một số tác phẩm khác, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt được vấn đề được trình bày.

- Giọng văn của tác giả mang tính nhẹ nhàng, tinh tế và dẫn dắt người đọc theo từng bước, từng giai đoạn để tìm hiểu ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

1. Luận đề và hệ thống luận điểm, lí lẽ, bằng chứng của Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

a. Luận đề

- Luận đề: Vẻ đẹp của làng quê Việt Nam trong ba bài thơ thu của tác giả Nguyễn Khuyến

- Có thể xác định được luận đề này là do:

+ Nhan đề văn bản đã trực tiếp thể hiện luận đề trên, hé lộ cho người đọc biết văn bản viết về những vần thơ của làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến

+ Nội dung văn bản: đi sâu vào khám phá những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong ba bài thơ thu của ông

b. Hệ thống luận điểm, lí lẽ, bằng chứng

Mỗi bài thơ thu đều có nét đẹp riêng:

* Thu ẩm

- Luận điểm: Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của mùa thu ở nhiều thời điểm, sự khái quát về cảnh thu

- Lí lẽ:

+ Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gíc

Ngõ tối đêm sâu mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe

+ Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt thì không hợp, không điển hình với một đêm có trăng

+ Khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt là trời của một buổi chiều

- Bằng chứng: các câu thơ, cụm từ được dẫn ra từ bài Thu ẩm và hai câu thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến

* Thu vịnh

- Luận điểm: Bài thơ mang cái hồn, cái thần của một bài thơ hơn cả: vẻ thanh – trong – nhẹ và cao

- Lí lẽ:

+ Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở bầu trời

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian

Nước biếc trông như tầng khói phủ bay bổng nhẹ nhàng mơ hồ hư thực

- Bằng chứng: Các câu thơ, cụm từ được dẫn ra từ bài Thu vịnh

* Thu điếu

- Luận điểm: Bài thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (Bắc Bộ)

- Lí lẽ:

+ Đọc lên như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết trời thu;…

2. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến qua chùm thơ thu

a. Điểm chung và điểm riêng

- Điểm chung

+ Viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, tức sử dụng cách thức kết cấu bài thơ với số câu thất (7 câu) và số câu ngôn (8 câu) tạo nên sự cân đối và hài hòa.

+ Mô tả cảnh trí đơn giản gần gũi, mang tính quen thuộc với cuộc sống ở làng quê Việt Nam. Sử dụng từ ngữ không rườm rà, không lòe loẹt mà cũng không gò bó khuôn sáo, tạo nên sự tự nhiên và thoải mái trong diễn đạt.

+ Thể hiện màu sắc đậm đà của quê hương và đất nước trong các bài thơ. Sử dụng hình ảnh và ngôn từ để tái hiện những nét đặc trưng, khí thế và vẻ đẹp của quê hương, mang đến cho độc giả một cảm giác gắn kết mạnh mẽ với đất nước.

- Nét riêng

+ Bài thơ “Thu vịnh” phác họa một cách khái quát những đặc điểm nổi bật của mùa thu. Nó tạo ra một cảm giác thanh thoát, trong lành, nhẹ nhàng và cao cả.

+ Trong số ba bài thơ, “Thu điếu” dừng lại ở một không gian thời gian cụ thể: trên một ao thu, trong một chiều thu, ông già ngồi trên chiếc thuyền bé tẻo teo. Điếu thu là một hình ảnh điển hình cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.

+ “Thu ẩm” quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để thấu hiểu và tái hiện những nét nên thơ nhất. Ba bài thơ mang đến ba cảnh trí khác nhau, với màu sắc và cảm hứng khác nhau, nhưng đều thể hiện sự tâm sự chân thành và sâu sắc của nhà thơ.

=> Những bài thơ này cũng chứng tỏ tài năng nghệ thuật xuất sắc của Nguyễn Khuyến. Tác giả đã sử dụng các bút pháp nghệ thuật đặc sắc để tạo nên những hình tượng và ngôn ngữ điêu luyện, đỉnh cao của sự giản dị nhưng tràn đầy chất thơ. Ông kết hợp một cách tinh tế giữa âm thanh và nhạc điệu để tạo nên sự độc đáo và tinh túy trong tác phẩm.

b. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến

Ba bài thơ đều gợi lên những hình ảnh và nét đẹp đặc trưng của mùa thu đất Bắc, ngôn ngữ thơ giản dị và gần gũi, dễ hiểu. Ba bài thơ thu tuy giống nhau về điểm nhìn của tác giả, các phương thức biểu hiện. Tuy nhiên, mỗi bài lại mang một nét độc đáo riêng của thơ Nguyễn Khuyến. cảnh làng quê Việt Nam quen thuộc, đơn sơ, dung dị nhưng cũng vô cùng đặc sắc, đáng yêu. Cái hồn của quê hương hiện lên thật rõ ràng. Nó rất tiêu biểu cho thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến về quê hương nhẹ nhàng, tinh tế với vài nét chấm phá mà vẫn hội tụ được rất nhiều vẻ đẹp.

IV. Đọc tác phẩm Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh. […]

Được nhớ, thuộc, và truyền tụng, vì là ba bài thơ hay và điển hình nhất cho mùa thu của Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, chứ không ở nước nào khác. Tiêu biểu hơn cả, là bài Thu điếu (Mùa thu ngồi câu cá):

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối buông cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết mùa thu; rất là đất nước nhà mình, có thật, rất sống, chứ không theo ước lệ như ở trong văn chương sách vở. Hàng vạn người đọc rất tinh, đã thuộc ba bài thu này, mà không thuộc được các bài thu khác (của các tác giả khác). […]

THU ẨM

Năm gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,

Độ năm ba chén đã say nhè.

Không còn những ước lệ văn hoa sang trọng rèm châu, lầu ngọc, chén vàng… mà bình dân, nhà cỏ thấp le te, tiến lên hiện thực rồi. Bài thơ này, theo tôi, không phải chỉ nói trong một thời điểm, là trong một đêm trăng hạn định, mà là tổng hợp nhiều thời điểm, khái niệm, khái quát về cảnh thu. Nếu chỉ nói cảnh một đêm thu có trăng, thì bài thơ tù túng và thiếu lô-gic. Câu thứ hai: Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe, phải là đêm sâu mới hay, mới ngõ thật tối, đóm mới lập lòe; còn “đêm khuya” (theo như có bản chép) thì là từ 12 giờ đêm trở đi, chẳng bao hàm ý gì là tối cả, chỉ bao hàm ý muộn và vắng, đêm khuya với đom đóm chẳng đi gì với nhau, vả lại còn phải nghiên cứu thử xem đom đóm có chờ đến khuya mới bay ra, mới bay nhiều hay không? Mà đã “ngõ tối đêm sâu” thì mâu thuẫn với Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Mặt khác, đưa Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt vào cảnh một đêm có trăng, thì không hợp, không điển hình gì cả. Trên mặt nước ao, mặt nước sông lặng, thì điển hình là Nước biếc trông như tầng khói phủ kia; khói nhạt phất phơ lưng giậu là điển hình cho buổi chiều quê, khói bếp nhà ai đã nấu cơm chiều, gặp hơi nước nhiều trong không khí thì lan dài là là quấn quýt lấy vừa tầm lưng giậu. Thơ chữ Hán của tác giả cũng có những câu:

Chồi liễu rủ lá xanh, có ánh mặt trời xuyên qua

Giậu tre um màu biếc, làn khói chiều bao phủ.

Mặt nữa, Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt chắc hẳn không phải là trời một đêm trăng, mà phải là trời một buổi chiều. Vì thế cho nên tôi hiểu bài này là khái quát, tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm. Nghĩ như thế rồi, chúng ta thấy bốn câu đi liền nhau (2, 3, 4, 5) về làng cảnh rất hay, nó hay trong cái thực của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, chứ không bay đi đâu xa khác. Nhất là câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt trước ao sáng lóe ra, bốn chữ khá nặng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khử thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ảnh bắn đi, từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xie), như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có.

THU VỊNH

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tầng khỏi phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào.

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần cảu cảnh mùa thu. Cái hồn, cái thần của cảnh thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu. Trời thu rất xanh rất cao tỏa xuống cả cảnh vật. cây tre Việt Nam ta, những cây còn non, ít lá, thanh mảnh cao vót như cái cần câu in lên trời biếc, gió đẩy đưa khe khẽ, thật là thanh đạm, hợp với hồn thu. Song thưa để mặc bóng trăng vào cũng thuộc về trời cao; Một tiếng trên không ngỗng nước nào cũng nói về trời cao, gợi sự xa xăm, gợi cái bâng khuâng về không gian. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái gợi cái bâng khuâng man mác về thời gian. Nước biếc trông như tầng khói phủ gợi niềm bay bổng nhẹ nhàng và mơ hồ như hư như thực. Cả khung cảnh mùa thu thanh thoát ấy dẫn đến ý hai cây kết: - Sao ta còn bị buộc chân ở đây, sa lầy trong vòng danh lợi ố bẩn phi nghĩa này? Sao ta chưa trả mũ từ quan quy khứ như Đào Uyên Minh, cho nhẹ nhõm trong sáng?

Bài Thu vịnh có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam (ở Bắc Bộ). Có về thăm “Vườn Bùi chốn cũ” – đây là “xứ Vườn Bùi” theo đồng bào gọi cả vùng Trung Lương nằm trong xã Yên Đổ cũ, chứ không phải chỉ là khu vườn của nhà cụ Nguyễn Khuyến – mới càng hiểu rõ bài Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Sao lắm ao thế! Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiên rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Sóng biếc gợn rất nhẹ, một chiếc lá vàng rụng theo gió, bay bay xoay xoay rồi rơi xuống xa xa một cách khẽ khàng. Khung ao tuy hẹp vậy, nhưng làng cảnh cũng không thiếu không gian. Nhìn lên: trời thu xanh cao đám mây đọng lơ lửng; trông quanh: các lối đi trong làng hai bên tre biếc mọc sầm uất, chạy ngoắt ngoẻo cho đến lúc tưởng như tre đã kín lại; mọi người ra đồng làm, cho nên làng vắng teo. Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài […] không thể tóm tắt thơ được, mà phải đọc lại. Cái thú vị của bài Thu điếu là ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi; ở những cử động: chiếc thuyền con lâu lâu mới nhích, sóng gợn tí, lá đưa vèo, tầng mây lửng, ngõ trúc quanh, chiếc cần buông, con cá động; ở các vần thơ: không phải chỉ giỏi vì là những tử vận hiểm hóc, mà chính hay vì kết hợp với từ, với nghĩa chữ, đến một cách thoải mái đúng chỗ, do một nhà nghệ sĩ cao tay; cả bài thơ không non ép một chữ nào, nhất là hai câu 3 – 4:

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

đối với:

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

thật tài tình; nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, để tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí.

Quá trình ngôn ngữ của thơ đi từ thời Lê Hồng Đức, thật hãy còn vất vả nặng nề:

Trời muôn trượng thẳm làu làu sạch,

đến Nguyễn Khuyến đã thành ra:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

thật trong sáng nhẹ nhàng, như không một trở lực nào níu được sự diễn đạt nữa. Thế mới biết những câu thơ thoải mái tự nhiên là kết quả của một sự khổ luyện, khổ luyện qua những thời đại, hoặc là khổ luyện trong một người. Các bạn mới làm thơ nên khái niệm cho được thế nào là sự “đắc đạo” trong nghệ thuật ngôn ngữ.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, nhìn gộp chung lại, là thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hóa nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam, trên đất nước ta, và dân tộc hóa hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam.

Bố cục Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam (Kết nối tri thức) chính xác nhất (ảnh 1)

Xem thêm các bài tìm hiểu Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Tác giả - tác phẩm: Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

Tác giả - tác phẩm: Đọc văn – cuộc chơi tìm ý nghĩa

Tác giả - tác phẩm: Xe đêm

Tác giả - tác phẩm: Nắng mới – sự thành thực của một tâm hồn giàu mơ mộng

Đánh giá

0

0 đánh giá