Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật - Nội dung, tác giả, tác phẩm

3.8 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính lớp 8.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Ngữ văn lớp 8

I. Tác giả Phạm Tiến Duật

Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

- Phạm Tiến Duật (1941- 2007)

- Quê quán: huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ

- Sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1964, ông tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

+ Tuy vậy ông không tiếp tục với nghề mình đã chọn mà quyết định lên đường nhập ngũ, đó cũng là nơi ông sáng tác ra rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.

+ Năm 1970, ông đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ, ngay sau đó Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam

+ Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm tại ban Văn Nghệ, Hội nhà văn Việt Nam và là Phó trưởng Ban Đối ngoại Nhà văn Việt Nam. Đó quả là một thành tích đáng tự hào.

+ Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật

+ 19-11-2007 , ông được chủ tịch nước Nghuyễn Minh Triết trao tặng Huân chương lao động hạng nhì

+ Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn Học Nghệ thuật

+ Các tác phẩm tiêu biểu: “Vầng trăng quầng lửa”, “Nhóm lửa”, “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”…

- Phong cách sáng tác : thơ của Phạm Tiến Duật được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng: giọng điệu rất sôi nổi của tuổi trẻ vừa có cả sự ngang tàn tinh nghịch nhưng lại vô cùng sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát, tiêu biểu là bài “ Trường sơn Đông Trường Sơn Tây”

II. Tìm hiểu tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Thể loại

Văn bản Bài thơ về tiểu đội xe không kính thuộc thể loại thơ tự do

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức

Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản có phương thức biểu đạt là biểu cảm

4. Bố cục

- Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính

- Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

- Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe

- Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

5. Giá trị nội dung

Bài thơ khắc họa nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, họ ung dung hiên ngang, dũng cảm lạc quan có tinh thần đồng chí đồng đội và một ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam.

6. Giá trị nghệ thuật

Bài thơ kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ một cách tự nhiên. Đặc biệt nhất là có chất liệu hiện thực vô cùng sinh động của chiến trường, những hình ảnh sáng tạo rất đời thường. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính khẩu ngữ, ngang tàn và khỏe khoắn

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Khổ 1+2 : Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính

- 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh

- 4 câu thơ tiếp theo:

+ Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” , ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”

⇒ tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài

+ “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận

⇒ con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước

⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường.

⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu

2. Khổ 3+4: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

- 2 câu thơ đầu khổ 3+ 2 câu thơ đầu khổ 4:

+ Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”

+ Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu

- 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:

+ Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”

⇒ Thái độ lạc quan

+ Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh

⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng

3. Khổ 5+6: Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết

- 4 câu thơ khổ 5:

+ “Đã về đây họp thành tiểu đội” : Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”

+ “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết

- 2 câu thơ đầu khổ 6:

+ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên

+ “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo

⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu

- 2 câu thơ cuối khổ 6:

+ Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường mới

+ Hình ảnh “trời xanh thêm” : ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình

4. Khổ 7: Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

- 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ

- 2 câu cuối

+ Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Lời khẳng định chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn

+ “ Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thàn, dũng cảm

IV. Đọc tác phẩm: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

 

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái.

 

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

 

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

 

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu dội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

 

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

 

Không có kính, rồi xe không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

V. Dàn ý phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.

- Vài nét về tác giả Phạm Tiến Duật- một nhà thơ nổi tiếng với rất nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh

- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với hình ảnh chủ đạo là chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với bao phẩm chất tốt đẹp.

2. Thân bài

    a. Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm

- Bài thơ ra đời vào năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng ác liệt

- Bài thơ là lời ngợi ca vẻ đẹp của người lính cách mạng thời bấy giờ

    b. Khổ 1+2 : Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính

- 2 câu thơ đầu: nhấn mạnh tư thế ung dung của người lính, đường hoàng đĩnh đạc, dám nhìn thẳng vào khó khăn gian khổ không hề run sợ né tránh

- 4 câu thơ tiếp theo:

    + Phép nhân hóa “gió vào xoa” “con đường chạy” , ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “mắt đắng”

        ⇒ tả thực cảm nhận của người lính với thế giới bên ngoài

    + “Thấy con đường chạy thẳng vào tim” : tốc độ trên chiếc xe đang lao vun vút ra mặt trận

        ⇒ con đường ấy còn là con đường giải phóng miền Nam, con đường của trái tim nồng nàn yêu nước

 

        ⇒ Chiến tranh tuy khốc liệt nhưng người lính vẫn cảm nhận bằng một tâm hồn trẻ trung đầy lãng mạn, qua khung cửa, mọi vật dường như cũng muốn theo người lính ra chiến trường.

        ⇒ chất thơ của cuộc chiến đấu

    c. Khổ 3+4: Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

- 2 câu thơ đầu khổ 3+ 2 câu thơ đầu khổ 4:

    + Người lính phải đối mặt với bao khó khăn, khắc nghiệt của thời tiết ở Trường Sơn: “bụi phun tóc trắng”, “mưa tuôn mưa xối”

    + Nhưng sáng ngời ở họ vẫn là sự anh dũng đón nhận những khắc nghiệt “không có… ừ thì”: thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy gian khó, coi đó như một yếu tố tất yếu trong cuộc sống chiến đấu

- 2 câu thơ cuối khổ 3+ 2 câu thơ cuối khổ 4:

    + Người lính đối mặt với khó khăn gian khổ bằng giọng cười “ha ha”

        ⇒ Thái độ lạc quan

    + Các từ láy tượng hình tượng thanh “ha ha”, “phì phèo” ẩn dụ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời của các anh

        ⇒ Đây là vẻ đẹp trong tâm hồn các anh, là chất thơ vút lên từ hiện thực chiến đấu thật đáng ngợi ca và trân trọng

    d. Khổ 5+6: Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết

- 4 câu thơ khổ 5:

    + “Đã về đây họp thành tiểu đội” : Những chiếc xe từ gian khổ hiểm nguy cùng chung một nhiệm vụ nên đã tập hợp thành “tiểu đội xe không kính”

    + “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”: chi tiết chân thực nhưng rất hóm hỉnh, qua cái bắt tay, người lính tiếp thêm cho nhau sức mạnh, trao cho nhau tình đồng chí, đồng đội thắm thiết

- 2 câu thơ đầu khổ 6:

    + “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”: chiến tranh buộc họ phải dựng bếp ăn giữa “trời”, nhưng họ vẫn ung dung và coi đó như một lẽ tự nhiên

    + “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: Chính tình đồng chí đồng đội đã hóa gia đình, cách người lính lái xe định nghĩa về gia đình thật giản dị và độc đáo

        ⇒ Hai tiếng “gia đình” thật thiêng liêng chan chứa tình cảm, họ truyền cho nhau sức mạnh để chiến đấu

- 2 câu thơ cuối khổ 6:

    + Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ: nhịp bước hành quân của các anh đến với những chặng đường mới

    + Hình ảnh “trời xanh thêm” : ý nghĩa tượng trưng sâu sắc thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, chan chứa hi vọng, đó còn là hoán dụ chỉ hòa bình

    e. Khổ 7: Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

- 2 câu đầu: Vẫn là những khó khăn nhưng giờ đây được tăng thêm gấp bội “không kính”, “không đèn”, “không mui xe”, “thùng xe có xước”: khó khăn tăng thêm như cản đi bước chân của người chiến sĩ

- 2 câu cuối

    + Lời khẳng định: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”: Lời khẳng định chắc nịch bất chấp mọi gian khổ, khó khăn

    + “ Chỉ cần trong xe có một trái tim”: Hình ảnh “trái tim” là hoán dụ chỉ người lính lái xe nồng nàn yêu nước và sục sôi căm thù quân xâm lược nhưng cũng mang nghĩa ẩn dụ: nhiệt huyết cách mạng, lòng trung thàn, dũng cảm

3. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, sử dụng nhiều biện pháp tu từ quen thuộc…

- Bài thơ đã khắc họa chân thực nhất vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung hiên ngang, tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và ý chí giải phóng miền Nam. Vẻ đẹp của các anh cũng là tiêu biểu cho thế hệ thanh niên những năm đánh Mĩ

V. Văn mẫu

Đề bài: Phân tích Bài thơ về Tiểu đội xe không kính

Phạm Tiến Duật từ lâu đã được biết đến là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Là một người lính chính vì thế mà nhà thơ có được phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc ở trong thơ. Viết về hình ảnh những người lính trong sáng tác của ông không thể không kể đến là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.

Có lẽ rằng trên chiến trường thì hình ảnh của những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã in sâu vào trong trí nhớ của Phạm Tiến Duật. Với hình ảnh của chiếc xe không kính như đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – ta như nhận thấy được tác giả như cũng sắp viết ra một câu chuyện dài và vô cùng đặc sắc vậy. Quả thực cũng chính hình ảnh đó như đã làm nổi bật lên được hình tượng của những người lính trẻ, họ là những người lính lái xe đã anh dũng, bỏ cả tuổi thanh xuân của mình để nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Thật ấn tượng biết bao nhiêu ngay từ ngôn từ, phong cách, nội dung cho đến cả nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên và vô cùng mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ trên cũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng và mang được sự tếu táo, đó là hình ảnh của những chiếc xe không kính. Mặt khác, ta như nhận thấy được cả lời giải thích của tác giả về những chiếc xe vô cùng đặc biệt ấy cũng được Phạm Tiến Duật miêu tả cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe này cũng đã bị phá huỷ bởi chính hình ảnh bom giật, bom rung. Không chỉ vậy ta nhận thấy được có các những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ. Thêm vào đó thì hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, cũng chẳng phải hình ảnh tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ được sử dụng có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu chứa được biết bao nhiêu ấn tượng trong bài thơ. Tiếp đến là khổ cuối cùng của bài cũng đã lại khiến cho Phạm Tiến Duật tái hiện lên hình ảnh chiếc xe như một dụ ý nghệ thuật độc đáo.

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước

Có thể nói rằng cũng chính với những chiếc xe ấy bị biến dạng, cũng đã bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Thế rồi bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt và nguy hiểm biết bao nhiêu. Ngay cả sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người bằng da bằng thịt.Tuy khó khăn và thiếu thốn, luôn đối mặt với sự hiểm nguy thì những cỗ xe kia cũng cứ vẫn hiện lên một cách rất độc đáo và cũng lại rất có hồn, rất ngang tàng. Cũng không quá chút nào khi nói rằng hình ảnh chiếc xe không kính như đã trở thành biểu tượng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Thông qua hình ảnh xe không kính thì còn nổi bật được hình ảnh của người chiến sĩ lái xe cũng thật hiên ngang, mưu trí và dũng cảm.

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Sử dụng nhịp thơ ngắn, nhanh và phần điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Tiếp đó ta lại nhận thấy được đó cũng chính là một lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường thông qua đoạn thơ sau:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.

Hình ảnh của những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn cứ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Thêm vào đó ta nhận thấy được nhịp thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát như lại càng khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.

Có thể nói khi mà chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính mà thành:

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

Thật bất ngờ khi không có kính thì tác giả lại có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối coi những khó khăn này trở thành động lực để luôn lạc quan yêu đời.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
….Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Sử dụng giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Ta như nhận thấy được hình ảnh của những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ dừng lại ở đó thơi đâu, những người họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn và có tình cảm thật khăng khít. Và cũng không có kính nên họ mới có thể

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Hình ảnh gia đình – hình ảnh gợi thương gợi nhớ khiến cho con người, cho những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng, đó mà một dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam để có thể giải phóng đất nước:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Hình ảnh chiếc xe như đã bị chiến tranh làm phá hủy đến không có kính, bao nhiêu khó khăn đó như cũng qua hết bởi chỉ cần trong xe có một trái tim là đủ. Tình yêu tổ quốc đã thể hiện vô cùng rõ ràng và khiến cho chúng ta nhận thấy được tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu gia đình đã biến thành sức mạnh để có thể giúp người lính có thêm ý chí để có thể vượt lên trên tất cả vì tự do của đất nước.

Phạm Tiến Duật đã sáng tác ra bài thơ về tiểu đội xe không kính với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm đã thế lại có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn nữa. Bài thơ như đã để lại trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước gian khổ và ác liệt.

Xem thêm các bài tìm hiểu Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 8 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Những ngôi sao xa xôi

Tác giả - tác phẩm: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Tác giả - tác phẩm: Nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam

Tác giả - tác phẩm: Đọc văn – cuộc chơi tìm ý nghĩa

Tác giả - tác phẩm: Xe đêm

Đánh giá

0

0 đánh giá