Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Ngữ văn 8, Kết nối tri thức gồm 8 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
Đề bài: Viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống: học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 1
Tiếng Việt - ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của hơn 85% dân cư, từ khi ra đời tiếng Việt của chúng ta đã mang những bản sắc riêng, vẻ đẹp riêng và trong quá trình con người sử dụng đã làm giàu có thêm vốn tiếng Việt. Trước sự phát triển của xã hội và quá trình hội nhập ra thế giới, tiếng Việt cũng cần phải đổi mới hơn, đa dạng và phong phú hơn đáp ứng yêu cầu của thời đại, tuy nhiên việc quan trọng hàng đầu chính là dù trong hoàn cảnh nào của xã hội cũng phải gìn giữ được sự trong sáng vốn có của tiếng Việt.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực. Biểu hiện rõ ràng nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài. Biểu hiện dễ thấy nhất là việc sử dụng thường xuyên những từ như: show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)… thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng. Cách diễn đạt này đôi khi sẽ gây nên sự khó hiểu, làm mất đi tính mạch lạc của đoạn hội thoại. Đồng thời, do ngôn ngữ còn tác động đến quá trình hình thành nhân cách, sử dụng tràn lan các từ ngữ nước ngoài không tránh được việc tạo ra tâm lí sính ngoại, coi nhẹ văn hóa cũng như đồ dùng Việt Nam.
Sinh thời, Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng thường tự mình nêu gương sáng và thường nhắc nhở mọi người tránh bệnh nói chữ, sính dùng từ gốc Hán khi có thể diễn đạt bằng tiếng Việt. Thiết nghĩ, học theo những tấm gương ấy, Nhà nước nên có quy định chặt chẽ, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tất cả chúng ta cần ý thức được vẻ đẹp, giá trị của tiếng mẹ đẻ, nâng niu, giữ gìn nó trong từng lời nói hàng ngày. Bởi, đúng như nhà văn hóa Phạm Quỳnh từng nói: “Tiếng ta còn, nước ta còn”. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng là một cách để ta thể hiện tinh thần dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
Tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia của chúng ta, gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt là bảo vệ tiếng Việt, bảo vệ ngôn ngữ của quốc gia chính là bảo vệ tiếng nói của dân tộc, bảo vệ đất nước. Nếu không gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt đồng nghĩa với việc chúng ta dần đánh mất đi ngôn ngữ của chính mình, ngay cả tiếng nói của dân tộc cũng không gìn giữ được thì sẽ chẳng có gì đảm bảo chúng ta có thể bảo vệ đất nước trước những thế lực thù địch đang nhăm nhe.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 2
Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực. Đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng.
Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt, nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việt như Internet, trang web..., song đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài (chủ yếu là chữ Anh) thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng như show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)... một cách tự nhiên như thể đó là những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu. Có ý kiến ngụy biện cho rằng hiện tượng này nên khuyến khích vì đấy là một cách học và thực hành tiếng Anh, một công cụ không thể thiếu để hội nhập quốc tế. Nhưng thực ra, muốn thực hành ngoại ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nói, viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam. Còn khi nói và viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán là người “hay chữ lỏng" và có câu nói “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.
Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người dân Việt Nam, trong đó có học sinh - những người thường xuyên sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong giao tiếp xã hội, trong học tập, nghiên cứu. Công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đòi hỏi phải có sự nỗ lực trên các phương diện: tình cảm, nhận thức và hành động. Trước hết mỗi học sinh cần có tình cảm yêu mến và có ý thức quý trọng tiếng Việt. Mỗi người cần thấm nhuần và khắc sâu lời dặn của Hồ Chủ Tịch “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng đòi hỏi mỗi người cần có những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt. Đó là hiểu biết về chuẩn mực và quy tắc tiếng Việt ở các phương diện phát âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản, tiến hành giao tiếp. Muốn có hiểu biết, người học cần tích lũy kinh nghiệm từ thực tế giao tiếp, qua sách báo, học tập ở trường.
Có thể tìm hiểu và học tập tiếng Việt ở mọi lúc mọi nơi. Sự trong sáng của tiếng Việt không cho phép pha tạp, lai căng. Tuy nhiên cần tiếp nhận những yếu tố tích cực từ tiếng nước ngoài để làm giàu ngôn ngữ mình, đồng thời tránh cách nói thô tục, kệch cỡm để nói “lời hay, ý đẹp”.
Đồng thời, các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Chúng ta có thể loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai dường như cũng chính là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và ngoài ra đó cũng chính là sự tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, nó dường như cũng đã góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 3
Cùng với quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Từ khi nước ta bắt đầu hội nhập thì ngôn ngữ cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng Việt trước đó còn thiếu vắng. Cùng với mặt tích cực ấy, mặt tiêu cực cũng biểu hiện với không ít các cách nói, cách viết “khác lạ” trong giới trẻ làm mất đi hoàn toàn bản sắc vốn có của tiếng Việt.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và xã hội loài người, đảm bảo một mặt truyền đạt và hiểu biết lẫn nhau của các thành viên xã hội. Ngôn ngữ không chỉ truyền đạt thông tin mà còn tác động đến nhân cách, hình thành nhân cách và biến đổi theo chiều hướng tốt hoặc xấu. Ngôn ngữ không chỉ là tấm gương phản chiếu thụ động đời sống xung quanh mà còn can thiệp vào bức tranh thế giới nhân cách, vào văn hóa ngôn ngữ của nó, đặt vào nó nhãn quan thế giới, chỉnh sửa, làm biến đổi nhân cách một cách hợp lý.
Vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay đã trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Chủ thể của nhận thức và hành động, giới trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở “kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại…”.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 4
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại… Theo dòng cuốn của quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa, xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Vì thế từ khi nước ta bắt đầu hội nhập thì ngôn ngữ cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ.
Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng Việt trước đấy còn thiếu vắng, chẳng hạn trong lĩnh vực tin học, kĩ thuật số, sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường v.v… Cùng với mặt tích cực ấy, mặt tiêu cực cũng biểu hiện với không ít các cách nói, cách viết “khác lạ” làm mất đi hoàn toàn bản sắc vốn có của tiếng Việt.
Thực tế cho thấy, tiếng Việt hiện nay đang dần dần bị sử dụng sai về mọi mặt một cách cố ý. Từng chữ, từng âm, cách viết, cách đọc, chính tả… tất cả đều bị thay đổi một cách kì lạ mà các bạn trẻ vẫn biện minh theo suy nghĩ của chính mình là đa dạng hóa tiếng Việt, “dễ thương hóa” hay “teen hóa” tiếng Việt. Điều này rất dễ kiểm chứng, hãy thử lướt một vòng vào các diễn đàn (forum), các trang nhật kí các nhân (blog) hay đơn giản là tán gẫu hàng ngày (chat) xem, ta có thể thấy có bao nhiêu phần trăm là tiếng Việt, bao nhiêu phần trăm là tiếng gì đó (không thể định nghĩa được đó là thứ ngôn ngữ gì, nhiều bạn trẻ gọi là ngôn ngữ teen, ngôn ngữ 9X).
Vào một diễn đàn của những “9X” nói trên, những cửa sổ chat, ta dễ dàng bắt gặp thứ ngôn ngữ ấy. Chẳng hạn như câu: “Ngày mai chắc tớ không đi dự tiệc sinh nhật của bạn rồi, bài vở nhiều quá, với lại nhà đi bận việc hết, chỉ còn mình tớ.”, khi chuyển thành ngôn ngữ 9X đơn giản sẽ là: ”Ngaj` maj chak to’ hk dj party of you uj`, pai` vo~ nhiu` woa’, zj laj nha` busy hjt’ uj`, to’ alone”. Hoặc nếu thêm những quy tắc thường dùng của ngôn ngữ 9X như viết hoa tùy ý, thay chữ bằng số, thêm tiếng lóng thì sẽ trở thành: “nG4j` m4j cH4k tO’ hK dJ p4rtY of y0u Uj`, p4j` v0~ nhIu` vãj, zj l4j nh4` bUsy hjK rUj`j, I’m 4l0n3”.
Không chỉ vậy, có rất nhiều quy tắc của ngôn ngữ 9X như: chữ c thay bằng k, gì thay bằng j, không thay bằng ko, rồi thay bằng ùi, oài, rùi, biết thay bằng pít, pk … rất nhiều quy tắc. Ngoài sự tự thay đổi cấu trúc tiếng Việt nói trên, còn là việc lạm dụng từ nước ngoài quá mức cần thiết. Điển hình như hiện tượng các phương tiện truyền thông thường xuyên dùng từ nước ngoài (hầu hết là tiếng Anh) trong khi tiếng Việt vẫn có đủ những từ diễn đạt được như: show (biểu diễn), live show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)…
Ngoài nguyên nhân khách quan là do sự giao thoa văn hóa đã nêu trên, thì nguyên nhân chính vẫn là tâm lí “thích sành điệu, thích được xem là dân chơi” của đa phần giới trẻ. Cho dù có giỏi ngoại ngữ đến đâu mà không biết thể hiện đúng và nhuần nhị tiếng mẹ đẻ thì đã là điều đáng buồn rồi, huống chi, những bạn mới có chút ít vốn liếng ngoại ngữ đã tỏ ra ta đây, nói một câu tiếng Việt phải chêm vào vài tiếng Anh cho “oai”. Có người biện minh, đổ thừa tiếng Việt không đủ sức diễn đạt ngữ cảnh của lời nói, đó là một lời biện minh không thể chấp nhận.
Bằng chứng là từ mấy trăm năm trước, tiếng Việt đã đủ tinh tế để làm nên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều. Ngày nay, tiếng Việt đã đủ phong phú đến mức mọi giáo trình bậc đại học cũng như mọi công trình nghiên cứu đều có thể viết bằng tiếng Việt. Cũng có ý kiến nói đó là một cách thực hành ngoại ngữ, điều cần thiết của quá trình hội nhập. Nhưng đâu phải chúng ta không có điều kiện thực hành ngoại ngữ đến nỗi phải như vậy, ở những đô thị chúng ta có những lớp học ngoại ngữ, những cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài để rèn luyện ngoại ngữ một cách đúng chuẩn.
Nếu chỉ mải mê học ngoại ngữ và dùng ngoại ngữ mà coi nhẹ việc giữ gìn bản sắc và trau dồi tiếng Việt thì có thể đến một lúc nào đó, tiếng Việt không còn là niềm đáng tự hào về sự phong phú, tinh tế và sự trong sáng vốn có từ xưa. Cha ông ta đã hi sinh xương máu qua các cuộc chiến tranh để giành độc lập cho dân tộc, một phần xương máu ấy đã đổ xuống để giữ lấy sự độc lập, bản sắc nền văn hóa, trong đó có cả sự độc lập của tiếng Việt. Sử dụng tiếng Việt một cách không đúng đắn chính là thái độ vô ơn, vô cảm trước những hi sinh mất mát ấy.
Vì thế, ngay từ bây giờ cần có ngay những biện pháp để giữ những phẩm chất đẹp của tiếng Việt. Trước hết là Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của nhà nước. Các trường học phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Các bạn trẻ cần phải tự nhận thức được niềm tự hào và ý thức dân tộc trong việc sử dụng tiếng Việt để tiếng Việt vẫn mãi đẹp, vẫn mãi phong phú, tinh tế, trong sáng như bản sắc vốn có từ lâu.
Tiếng Mẹ đẻ vốn là một đặc trưng sống còn của một dân tộc. Qua hàng mấy nghìn năm hình thành và phát triển, chúng ta có thể tự hào về sự phong phú và tinh tế của Tiếng Việt. Sử dụng đúng cách, giữ gìn bản sắc của tiếng Việt và góp phần làm cho nó ngày càng phong phú hơn là trách nhiệm nhưng cũng là điều tự hào của công dân Việt Nam, nhất là giới trẻ. Những người Việt Nam không biết trân trọng nó đã biến nó thành những kí hiệu, con số.
Chúng ta phải tự hào rằng tiếng Việt chính là thứ tiếng thiêng liêng đẹp đẽ nhất, và nó là nguồn gốc để khai sinh ra đất nước Việt Nam này. Chính vì thế, chúng ta hãy sử dụng tiếng Việt thật đúng ý nghĩa. Và đừng bao giờ đánh mất thứ tiếng đẹp đẽ đó.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 5
Tiếng Việt chính là quốc ngữ của dân tộc Việt Nam ta, và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây cũng đã luôn luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Hơn nữa các bậc tiền bối này còn đã giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, cũng như là chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Thế nhưng, một sự thật đáng buồn đó chính là hiện nay, đặc biệt là chính trong xu thế hội nhập quốc tế, ta như thấy được bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực và mất dần đi những sự trong sáng vốn có của nó.
Thông qua đây ta như thấy được rằng chính điều đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ta cũng có thể thấy được rằng khi ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ hiện nay như đã làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Các bạn khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh vào một các vô tội vạ. Tất nhiên, ta dường như cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ và thật là nhanh chóng của khoa học và công nghệ. Hơn nữa ta cũng cần biết được rằng tin học và công nghệ thông tin hiện nay dường như đã có quá nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt. Chắc chắn vì điều này cho nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài mới sử dụng được đúng ý muốn khi nói và viết tiếng Việt. Những từ ngữ công nghệ đó như Internet, trang web…, song ta như thấy được những điều mà thật đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài một cách lố bịch và thái quá. Khi đang nói một câu thuần Việt người ta cũng không quên thêm vào đó một số từ tiếng Anh để cho người nghe biết được mình rất am hiểu. Chính điều này sử dụng thái quá sẽ gây ra những điều không hề phù hợp với ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta.
Để ngụy biện cho những sự không giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ta như thấy được người nói thường cho rằng đó chính là một cách để học tiếng Anh. Tiếng Anh là một ngôn ngữ hội nhập không thể thiếu được trong cuộc sống hiện đại ngày nay, điều đó là điều không thể phủ nhận được. Nhưng thực ra, để mà có thể muốn thực hành ngoại ngữ, mỗi người chúng ta hoàn toàn có thể nói, đồng thời cũng có thể viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài. Một cách học ngoại ngữ hiệu quả nữa đó chính là việc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam… Còn việc chúng ta khi nói cũng như viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai sẽ làm cho tiếng Việt mất đi sự trong sáng, trừ trường hợp bất đắc dĩ mà thôi. Không thể phủ nhận tiếng Việt của ta phần lớn và sự vay mượn tiếng Hán chiếm đến 80%. Nhưng người dùng không nên lai căng một cách thái quá. Ngày xưa các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán chính là những người “hay chữ lỏng” và có câu nói rất hay đó chính là“dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.
Khi mà bị thực dân Pháp xâm lược nước ta thì người dân nước ta cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều đến ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng sau đó hiểu được điều này thù thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kêu gọi mọi người hãy giữ lấy sự trong sáng của tiếng Việt.
Thực tế, ta như thấy được rằng chính người dân không bao giờ sử dụng từ “tham gia giao thông” như những câu nói mà đã quá quen thuộc với chúng ta. Mà dường như người ta lại thường dặn dò nhau “đi đường phải cẩn thận” chứ từ xưa đến nay chẳng ai nói “tham gia giao thông phải cẩn thận”. Quả thật chúng ta mà để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ đã từng nói thì chính Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và phải có sự kiểm soát. Hơn nữa là Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, cũng như là việc phải xây dựng quy định chuẩn về việc mọi người hiện nay dường như lại dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, hay những câu nói đời thường. Và đặc biệt ngay cả những văn bản chính thức của Nhà nước dường như cũng ít nhiều bị những thói quen không tốt này gây ra.
Và vẫn còn đó là các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Chúng ta có thể loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai dường như cũng chính là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và ngoài ra đó cũng chính là sự tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, nó dường như cũng đã góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 6
Trên thế giới, ít có ngôn ngữ nào phong phú về từ ngữ và có sức biểu đạt mạnh mẽ như tiếng Việt ta. Cũng không có loại ngôn ngữ nào có khả năng dung nạp và tiếp biến ngôn ngữ ngoại lai cởi mở và hào phóng như tiếng Việt. Có thể nói, tiếng Việt là một ngôn ngữ mở. Điều ấy được chứng minh qua mấy nghìn năm phát triển của nó. Thế nhưng, bởi sự cởi mở và hào phóng ấy, trong thời đại ngày nay, tiếng Việt dần mất đi sự trong sáng bởi cách sử dụng và tiếp biến ngôn ngữ tùy tiện của người Việt ta. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay
Thế nào là sự trong sáng của tiếng Việt? Trong: có nghĩa là trong trẻo, không có chất tạp, không đục. Sáng: là sáng tỏ, sáng chiếu, sáng chói, nó phát huy cái trong, nhờ đó phản ánh được tư tưởng và tình cảm của người Việt Nam ta, diễn tả trung thành và sáng tỏ những điều chúng ta muốn nói. Biểu hiện sự trong sáng của tiếng Việt:
Tiếng Việt có hệ thống chuẩn mực, quy tắc chung về phát âm, chữ viết, dùng từ, đặt câu, cấu tạo lời nói, bài văn. Tiếng Việt được phát âm theo chuẩn của một phương ngữ nhất định. Khi nói, chú ý cách phát âm ở phụ âm đầu, phụ âm cuối, thanh điệu. Chữ viết tiếng Việt tuân theo quy tắc chính tả, viết đúng phụ âm đầu, cuối, thanh điệu các từ khó. Khi nói viết phải dùng từ đúng nghĩa. Khi đặt câu phải đầy đủ các thành phần câu. Cấu tạo lời nói, bài văn phải rõ ràng, đầy đủ, ý nghĩa rõ ràng. Tiếng Việt có hệ thống quy tắc chuẩn mực nhưng không cứng nhắc, máy móc mà có sự linh hoạt, sáng tạo. Miễn là sự linh hoạt, sáng tạo đó dựa trên cơ sở những quy tắc chung
Tiếng Việt ta tự bản thân nó đã đầy đủ sức mạnh biểu đạt nên không cho phép pha tạp lai căng, sử dụng tuỳ tiện, không cần thiết những yếu tố của ngôn ngữ khác. Sự vay mượn từ ngữ chỉ xảy ra khi trong tiếng Việt chưa có hoặc chưa đủ sức biểu đạt một nội dung, ý nghĩa, sự vật, sự việc mới mẻ nào đó mà trong các hệ thống ngôn ngữ khác đã chứa đựng.
Việc sử dụng những từ ngữ cần phải thể hiện được tính lịch sự, có văn hóa trong lời nói. Tránh dùng từ thô tục, thiếu văn hóa, thiếu lịch sự sẽ làm mất đi vẻ trong sáng của tiếng Việt. Bởi dân tộc ta vốn trọng tình nghĩa, đề cao lễ nghi. Việc giao tiếp theo các nguyên tắc và chuẩn mực tốt đẹp là điều rất cần thiết để được tôn trọng và đạt hiệu quả trong giao tiếp.
Trước xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật và nhịp sống của thời đại, tiếng Việt (và các ngôn ngữ khác trên thế giới) đang phải đối diện với nguy cơ mất đi sự trong sáng và sức mạnh biểu đạt. Nguyên nhân khiến cho Tiếng Việt mất dần đi sự trong sáng chính do sự giao thoa các nền văn hóa trên thế giới thông qua hợp tác kinh tế và công nghệ thông tin làm cho việc tiếp cận và sử dụng và tiếp ngôn ngữ của người Việt trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn. Tiếng Việt chưa có những từ ngữ mới thuộc các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, bởi thế, sự vay mượn là tất yếu.
Mặt khác, lối sử dụng ngôn ngữ tùy tiện, thiếu ý thức của một bộ phận giới trẻ khiến cho tiếng Việt bị lai tạp một cách phản cảm, phản khoa học. Sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chức năng và các nhà văn hóa trong nhiệm vụ bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng là nguyên nhân khiến Tiếng Việt ngày càng trở nên hỗn độn, tùy tiện và vô nguyên tắc.
Tiếng Việt trong đời sống hằng ngày không còn giữ nguyên vẻ đẹp truyền thống, không là biểu hiện của vẻ đẹp tâm hồn người Việt nam ta nữa. Tiếng Việt bây giờ bị lai tạp quá nhiều bởi cách gán ghép cẩu thả và tùy tiện của con người giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Nhiều từ ngữ bị thay thế bởi lói sính ngữ, sùng ngoại của một bộ phận người Việt. Trong cách nói, cách viết lại không đúng ngữ nghĩa, mục đích sử dụng hay chuẩn mực về cú pháp khiến cho tiếng Việt tiếng không còn là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu.
Một hệ thống từ ngữ mang tính bạo lực, phản cảm vốn là điều hạn chế trước đây thì ngày nay lại được sử dụng khá phổ biến làm mất đi sự tế nhị. lịch sự của người Việt ta đã được khẳng định và gìn giữ trong mấy nghìn năm qua. Trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trước hết phải thuộc về giới trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuổi trẻ phải có tình cảm yêu mến, có ý thức tôn trọng, yêu quý và gìn giữ Tiếng Việt như gìn giữ cuộc sống của chính mình.
Mỗi người Việt Nam phải có ý thức trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong chính hoạt động sử dụng tiếng Việt khi giao tiếp. Phải rèn luyện năng lực nói và viết theo đúng chuẩn mực, quy tắc ngôn ngữ để đảm bảo sự trong sáng. Lời nói phải vừa đúng, vừa hay, vừa có văn hóa. Có thói quen cẩn trọng, cân nhắc, lựa lời khi sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp sao cho lời nói phù hợp với nhân tố giao tiếp để đạt hiệu quả cao nhất.
Cần có những hiểu biết cần thiết về các chuẩn mực và nguyên tắc sử dụng tiếng Việt ta. Muốn có hiểu biết cần tích lũy kinh nghiệm từ thực tế giao tiếp, từ sự trau dồi vốn ngôn ngữ qua sách giáo khoa, hoặc qua việc học tập ở nhà trường. Tiếp nhận tiếng nước ngoài đúng cách và có bản lĩnh.
Khi nói năng, phải lịch sự, tinh tế, thể hiện văn hóa cao đẹp của người Việt ta trong giao tiếp. Không nói những lời thô tục, mất lịch sự, thiếu văn hóa và mạnh mẽ loại bỏ những lời nói thô tục, kệch cỡm pha tạp, lai căng không đúng lúc.
Phải biết xin lỗi người khác khi làm sai, khi nói nhầm. Phải biết cám ơn người khác. Giao tiếp đúng vai, đúng tâm lí, tuổi tác, đúng chỗ. Biết điều tiết âm thanh khi giao tiếp. Không ngừng sáng tạo, bổ sung vào hệ thống từ ngữ tiếng Việt ta ngày càng phong phú và trong sáng hơn.
Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Có lẽ tiếng Việt của chúng ta đẹp bởi vì tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp, bởi vì đời sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ trước tới nay là cao quý, là vĩ đại, nghĩa là rất đẹp”. Trải qua thời gian, nó không ngừng được bồi đắp bởi “tiếng nói của quần chúng nhân dân, đầy tình cảm, hình ảnh, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa”. Đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học, văn nghệ mà những nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc ta như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,… và các nhà văn nhà thơ ngày nay đã nâng lên đến trình độ cao về nghệ thuật, khiến cho nó trở nên trong sáng, đẹp đẽ lạ thường. Chính cái giàu đẹp đó đã làm nên cái chất, giá trị, bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt, kết quả của cả một quá trình và biết bao công sức dồi mài…
Tiếng Việt ta là một thứ tiếng rất giàu và đẹp. Tiếng Việt ta là linh hồn của dân tộc ta. Vì thế, thế hệ tuổi trẻ ngày nay phải có ý thức và trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt như gìn giữ chính linh hồn của mình. Một khi tiếng Việt mất đi sự trong sáng vốn có của nó thì văn hóa và tình cảm của dân tộc cũng thay đổi theo. Dĩ nhiên, điều đó là không ai mong muốn.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 7
Một việc vô cùng khó khăn với xã hội hiện nay là giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Tiếng Việt được tạo lên với những truyền thống đạo lý, sự trong sáng về mọi mặt của dân tộc ta.
Ngày nay việc mạng xã hội phát triển kèm theo những ngôn ngữ ngoại lai du nhập vào nước ta một cách nhanh chóng và phát triển ở tầng lớp giới trẻ, giới trẻ đã sáng tạo ra những từ ngữ kí hiệu riêng gây nên hỗn loạn trong việc giao tiếp hàng ngày. Những từ ngữ sáng tạo ấy không hề có âm sắc ngữ nghĩa, nó được giới trẻ ngầm hiểu với nhau nhưng đôi khi trong cuộc sống hàng ngày họ cũng mang ra dùng gây ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống.
Những người trẻ vô tư sử dụng những từ ngữ do mình sáng tạo kí hiệu ra mà vô tình không hay đã làm mất đi sự trong sáng thuần khiết của Tiếng Việt. Những ngôn ngữ được tạo nên không có trật tự, không có hệ thống mạch lạc rõ rang đã và đang được hòa trộn vào với Tiếng Việt, nó làm thay đổi đến sự giao tiếp giữa con người với con người, những người hiểu thì ít mà những người không hiểu thì nhiều. Cũng chính vì mải mê sáng tạo mà giới trẻ đã quên mất rằng phải học hỏi và trau dồi tiếng mẹ đẻ của mình nhiều hơn. Đó là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng trong xã hội ngày nay cần được loại bỏ.
Chính vì vậy, là một người công dân Việt Nam, chúng ta cần biết sử dụng Tiếng Việt một cách trong sáng, cần giữ gìn, phát huy truyền thống của dân tộc mình.
Nghị luận về vấn đề học sinh với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Mẫu 8
Việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt là một việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng với mỗi người dân của nước ta. Trong lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn sống đã có lần người nói về việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, cần phải phát huy Tiếng Việt truyền thống là cho Tiếng Việt ngày càng trở nên phong phú, hiện đại nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống vốn có của mình không bị lai hóa, hoặc pha lẫn với những thứ tiếng khác như Tiếng Hán, Tiếng Anh, Tiếng Pháp…
Tuy nhiên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, khi đất nước ta ngày càng mở rộng các mối quan hệ với nước ngoài đặc biệt là các nước Phương Tây thì việc lai căng, rồi sử dụng ngôn ngữ chung của Thế Giới là Tiếng Anh xen lẫn với Tiếng Việt càng trở nên phổ thông.
Đặc biệt là với các bạn trẻ hiện đại thích những thứ mới lạ, nhưng phong cách Tây hóa thì việc sử dụng ngôn ngữ lai Tây, Tiếng Anh xen lẫn Tiếng Việt trong cuộc sống hiện đại lại trở nên nhiều hơn và phổ biến hơn.
Điều này làm cho sự trong sáng của Tiếng Việt mất dần đi, không còn giữ được giá trị riêng của mình trong đời sống, sinh hoạt của con người. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận một sự thật vô cùng phũ phàng rằng cùng sự phát triển về công nghệ hiện đại thì việc sử dụng Tiếng Anh là vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì nếu không biết Tiếng Anh chúng ta không thể nào giao tiếp hòa nhập với bạn bè năm châu trên thế giới.
Các máy móc thiết bị đều có Tiếng Anh trong hướng dẫn sử dụng, không phải loại máy nào cũng được chuyển dịch sang Tiếng Việt vì thế nếu không học Tiếng Anh chúng ta sẽ không thể hiểu và áp dụng được trong cuộc sống.
Chúng ta sẽ trở thành những kẻ tụt hậu so với thời đại, so với sự phát triển chóng mặt của cả thế giới. Nhưng việc lạm dụng Tiếng Anh kiểu nửa Tây nửa Ta của các bạn trẻ hiện nay cũng là một trào lưu vô cùng nực cười và làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt.
Dù chúng ta biết rằng có nhiều từ Tiếng Anh khi sử dụng Tiếng Anh sẽ ngắn gọn xúc tích hơn ví dụ như dance là nhảy, hoặc fan là người hâm mộ, rồi country là đồng quê…. khi chúng ta sử dụng Tiếng Anh có ngắn gọn xúc tích hơn, nhưng với việc thường xuyên sử dụng Tiếng Anh xen vào cùng Tiếng Việt chúng ta sẽ làm cho Tiếng Việt mất đi giá trị của mình, mất đi giá trị trong sáng và ý nghĩa của nó trong thực tế đời sống.
Ngoài ra, nhiều bạn trẻ còn sử dụng từ lóng, tiếng lóng, tiếng lái, làm chệch chuẩn ngôn ngữ Tiếng Việt của nước ta, làm mất đi ít nhiều sự trong sáng của Tiếng Việt.
Trong xã hội hiện đại, nhiều bạn sẽ thích khám phá ra những ngôn ngữ mới, cách viết mới thể hiện cho sự trẻ trung phong cách của mình. Các bạn đã sáng lập ra rất nhiều từ ngữ mới mà những người lớn tuổi không thể nào hiểu hết ý nghĩa của nó. Phải thừa nhận rằng việc sáng tạo này làm cho lượng từ ngữ của Tiếng Việt phong phú đa dạng hơn rất nhiều, nhưng nó cũng làm lệch chuẩn khá nhiều ngôn ngữ vốn có của chúng ta.
Chính vì vậy, chúng ta cần phải dùng Tiếng Việt một cách đúng đắn hơn tránh dùng những từ ngữ lai căng từ Hán- Việt, từ Pháp- Việt, hay Anh Việt trừ trường hợp không có từ thay thế. Có một số từ ngữ được sử dụng trong thời kỳ Pháp thuộc mà hiện nay chúng ta chưa hề có từ Tiếng Việt để thay thế nên vẫn phải dùng tạm như những từ chỉ các bộ phận máy móc trong xe đạp như bi- đan, ghi- đông, gác-đờ-bu… đều là những từ phiên âm từ Tiếng Pháp ra, bởi chúng ta chưa có từ thay thế cho những từ ngữ này.
Có nhiều từ Hán- Việt sử dụng lâu ngày thành quen, khiến chúng ta quên mất Tiếng Việt chuẩn có nó. Hoặc cũng vì khi sử dụng từ Hán- Việt ta cảm thấy ý nghĩa của từ ngữ trở nên trang trọng hơn nên người dùng vẫn sử dụng Hán- Việt. Như từ Phụ nữ, hay Phụ khoa, Thiếu Nhi…sẽ hay hơn khi sử dụng là Đàn bà, trẻ em,…
Mặc dù việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt là vô cùng cần thiết nhưng không phải từ ngữ nào chúng ta cũng có thể sử dụng Tiếng Việt chuẩn một trăm phần trăm bởi có những từ Tiếng Việt khi đọc lên làm cho chúng ta cảm thấy không được trang trọng lịch sự với những hoàn cảnh trang nghiêm, lịch thiệp. Vì vậy, việc lựa chọn từ Hán Việt, hoặc Hán Nôm vẫn là việc làm không thể thay thế.
Việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt là việc làm của tất cả mọi người dân từ già tới trẻ, không phân biệt ai với ai mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với ngôn ngữ mẹ đẻ của Quốc Gia mình.
Chúng ta phải giữ gìn ngôn ngữ của ông cha, bảo vệ phát triển nó như một truyền thống, một sự tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc không để cho ngôn ngữ của mình bị mai một trong thời gian.
Để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt chúng ta cần phải có những quy định rõ ràng chặt chẽ về việc bảo vệ ngôn ngữ Quốc Gia. Cần xây dựng một hệ thống ngôn ngữ đúng chuẩn, tránh những ngôn ngữ chệch chuẩn của thế hệ trẻ. Cần phải loại trừ sự lố lăng trong việc sử dụng từ ngữ lai căng, chệch chuẩn của các bạn trẻ hiện nay.