Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau Ngữ văn 10 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau
Đề bài: Viết bài văn thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau.
Dàn ý Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau
- Nêu được vấn đề văn học có ý kiến khác nhau.
- Phân tích được ưu điểm và nhược điểm của những ý kiến khác nhau về vấn đề.
- Trình bày được quan điểm của bản thân về vấn đề, làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa ý kiến của bản thân với các ý kiến đã có.
- Tạo được sự đồng thuận tích cực giữa bản thân với những người tham gia thảo luận.
1. Chuẩn bị nói và nghe
a. Chuẩn bị nói
- Lựa chọn đề tài: Truyện ngắn không có cốt truyện li kì, hấp dẫn có thể là một truyện hay được không?
- Tìm ý và sắp xếp ý:
+ Như thế nào là truyện ngắn không có cốt truyện?
+ Tại sao “truyện ngắn không có cốt truyện” nhưng vẫn hay và hấp dẫn bạn đọc?
+ Những lí lẽ và bằng chứng nào cho thấy điều này?
- Xác định từ ngữ then chốt
b. Chuẩn bị nghe
- Tìm hiểu các thông tin cần thiết xung quanh vấn đề nêu ra để thảo luận.
- Ghi vắn tắt ý kiến của bản thân về vấn đề thảo luận.
- Sẵn sàng tham gia thảo luận để cùng đi đến cách hiểu thoả đáng về vấn đề.
Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau – Mẫu 1
Có ý kiến cho rằng: “Xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho truyện ngắn, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc ý đồ tư tưởng của mình”. Bạn có đồng ý với ý kiến đó không? Bạn nghĩ sao về những “truyện không có cốt truyện”? Theo bạn, một câu chuyện “không có cốt truyện” liệu có còn hay và hấp dẫn bạn đọc? Ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng thảo luận về vấn đề này.
Trước hết, chúng ta cần biết rằng như thế nào là “cốt truyện”, “truyện không có cốt truyện”? Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện; nó bao gồm các giai đoạn phát triển chính, một hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm văn học, nhất là đối với các sáng tác thuộc các loại tự sự và kịch. Cốt truyện thường gồm hai phương diện gắn bó hữu cơ : Vừa là phương tiện bộc lộ tính cách, vừa là phương tiện để nhà văn bộc lộ các xung đột xã hội. Cốt truyện được nhà văn xây dựng gồm các thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút. Nhờ đó, câu chuyện thêm phần kịch tính, hấp dẫn bạn đọc. Vậy sẽ ra sao nếu “truyện không có cốt truyện”? Khái niệm “truyện không có cốt truyện” chỉ mang tính ước lệ và quy ước cao, nó đánh dấu một sự cách tân nghệ thuật của các nhà văn hiện đại trong lĩnh vực tự sự học. Truyện không có cốt truyện thường có sự đan xen phức tạp giữa tự sữ với trữ tình và những miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật. Hiểu một cách đơn giản, truyện không có cốt truyện là loại truyện không có những tình huống li kì lắt léo, không thể tóm tắt, khó có thể kể lại được do kĩ thuật tự sự “dòng ý thức” của nhà văn đem lại.
Nhắc đến “truyện không có cốt truyện”, những sáng tác của Thạch Lam được coi là thành công nhất. Truyện ngắn của ông được nhận xét là đậm chất trữ tình. Ông không đi sâu vào khai thác những mâu thuẫn của hiện thực, không tạo dựng những tình huống kịch tính mà tập trung khám phá tâm hồn con người. “Dưới bóng hoàng lan” là một truyện ngắn như vậy. Câu chuyện diễn ra yên bình, nhẹ nhàng như chính bức tranh thiên nhiên trong sáng được diễn tả trong tác phẩm. Không có sự kiện nổi bật, không có biến cố, các nhân vật xuất hiện một cách tự nhiên, một cuộc sống sinh hoạt đời thường hiện ra không có gì độc đáo. Thế nhưng, nó lại có sức hút đến lạ. Sức hút đến từ dòng cảm xúc của các nhân vật. Thanh – một chàng trai trở về quê sau 2 năm xa với niềm mong nhớ khôn nguôi. Quê hương như dòng nước thanh khiết gột rửa tâm hồn chàng tránh xa khỏi chốn phồn hoa đô thị. Và bà của Thanh mang bóng hình người phụ nữ Việt Nam – một con người tần tảo, hi sinh, chịu thương chịu khó. Nga – một cô bé hàng xóm xinh xắn, hồn nhiên, dễ thương mang trong mình mối tình sâu kín đầu đời với Thanh. Mạch truyện diễn ra chậm rãi, nhẹ nhàng cùng những cảm xúc của nhân vật khiến bạn đọc như được hoà mình trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy.
Truyện tâm tình, với nghệ thuật xoáy sâu vào tình cảm người đọc bằng giọng văn nhỏ nhẹ, thủ thỉ, điềm tĩnh và lắng sâu, nhiều dư vị, dư vang, bằng một hình tượng nghệ thuật có sức lay động và ám ảnh sâu sắc. Thạch Lam đã đem đến cho bạn đọc những cảm nhận về tình yêu quê hương, tình yêu gia đình và mối tình đôi lứa hồn nhiên, trong sáng. Câu chuyện khép lại nhưng mở ra trong lòng bạn đọc nhưng suy tư, trăn trở về con người, về cuộc đời. Đó chính là thành công của một tác phẩm “truyện không có cốt truyện”.
Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau – Mẫu 2
Trong kho tàng truyện ngắn của văn học Việt Nam, rất nhiều tác phẩm nổi danh không chỉ nhờ cốt truyện, nội dung hấp dẫn người đọc mà tuyến nhân vật trong truyện cũng có khả năng thu hút người đọc đi sâu vào tìm hiểu chuyện. Mỗi truyện ngắn đều có một hệ thống nhân vật với vai trò khác nhau nhưng nếu chỉ nhìn cách tác giả miêu tả họ thì người đọc chưa thể đánh giá được chính xác tính cách sâu bên trong con người họ. Điển hình là nhân vật người quản ngục trong truyện ngắn Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân. Liệu nhân vật quản ngục trong Chữ người tử tù có thật sự là một người uy quyền, tự do như chúng ta nhìn thấy qua lời văn của Nguyễn Tuân hay không?
Tác giả Nguyễn Tuân viết truyện Chữ người tử tù năm 1939 và tác phẩm xứng đáng là một tờ hoa, trang hoa đích thực của ông. Nói lên sự thành công của tác phẩm chính là do Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật hết sức độc đáo cùng với tình huống truyện hấp dẫn, có một không hai. Nói về nhân vật thì ngoài nhân vật Huấn Cao – tử tù thì còn có nhân vật quản ngục – thanh âm trong trẻo nhưng lạc vào một bản nhạc mà âm điệu xô bồ.
Đầu tiên độc giả nhận thấy được ngục quan có một ngoại hình ưa nhìn dễ nhìn. Đó là đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu, thế rồi với vẻ mặt tư lự, nhăn nheo, có một đời sống nội tâm sâu sắc và lại còn cả nghĩ. Viên quản ngục sau khi nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường về việc nhận 6 tử tù mà trong đó có Huấn Cao – người nổi tiếng với tài viết chữ đẹp. Thế rồi độc giả cũng càng không quên được hình ảnh ngục quan như cứ đăm chiêu và nghĩ ngợi. Thông qua việc miêu tả chi tiết những biến đổi tinh vi của nhân vật thì Nguyễn Tuân cũng đã giúp cho chúng ta nhận thấy được ngục quan thực sự là một người từng trải, ông lại có một tính cách vô cùng nhẹ nhàng chứ không tàn ác giống như những tên cầm quyền khác trong chốn đề lao.
Thực sự nhân vật quản ngục không phải là một hung thần với đôi bàn tay vấy máu mà ông được biết đến là một nhà nho, đọc nhiều sách thánh hiền và lại có những đức tính tốt. Việc làm quản ngục có thể thét ra lửa và thêm nữa là bộ hạ tay chân là bọn côn đồ, tàn nhẫn,… toàn những điều xấu, thế nhưng quản ngục lại khác lạ. Với quản ngục nét tính cách không thay đổi, vẫn luôn luôn dịu dàng. Thông qua đây ta nhận thấy được tấm lòng thì nhân hậu bao dung của quản ngục cũng đã biết giá người, biết trọng người ngay nữa. Điều đó được thể hiện đó chính là lúc nhận tù, ngục quan lúc này đây cũng thật đáng trọng biết bao nhiêu. Nhất là khi đứng trước thái độ như nhâng nháo, hách dịch, tàn nhẫn của bọn lính ngục, ông ta chỉ nhẹ nhàng mà nghiêm trang nói một câu đó là: “Việc quan, ta có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”.
Có thể nói được văn chương lãng mạn thời tiền chiến thường sử dụng thủ pháp tương phản đối lập. Dùng thủ pháp này có thể làm nổi bật nghịch lí của hoàn cảnh, nổi bật được những bi kịch của số phận. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy, thông qua cảnh nhận tù, thì ta nhận thấy được nó cũng đã tương phản giữa ngục quan và lũ lính ngục, đối lập chính cái thuần khiết đối với đống cặn bã, giữa người có tâm điền tốt đẹp với lũ quay quắt và tàn độc. Thông qua đó làm nổi bật nhân cách tốt đẹp của quản ngục mà như Huấn Cao nhận xét có một thanh âm trong trẻo chen vào chính giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
Người đọc có thể nhận thấy được hình ảnh quản ngục được xem chính là một trong những thành công của Nguyễn Tuân ở trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật ở phương diện đó là sự tài hoa độc đáo của nghệ sĩ bậc thầy. Ngục quan luôn yêu cái đẹp với tấm lòng biệt nhỡn liên tài, thêm vào đó là tâm hồn tính cách của ngục quan – nhân vật góp phần làm lên sức hấp dẫn của truyện Chữ người tử tù.
Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau – Mẫu 3
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường.........
Trước một tác phẩm truyện, mỗi người đọc có thể có những cảm nhận, quan điểm riêng biệt, những đánh giá khác nhau về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó, hoặc những cách lý giải khác nhau về một nhân vật, tình tiết truyện. Đến với bài nói ngày hôm nay tôi xin chia sẻ quan điểm của tôi trước ý kiến: Để hiểu đúng nhân vật Huấn Cao, có nhất thiết phải biết tường tận về Cao Bá Quát - một nhân vật lịch sử được Nguyễn Tuân chọn làm nguyên mẫu không?.
Trước hết tôi sẽ trình bày lí do vì sao tôi lựa chọn vấn đề này. Thứ nhất, vấn đề mối quan hệ giữa nguyên mẫu và nhân vật trong tác phẩm là một trong nhiều yếu tố cần phải quan tâm khi người đọc tiếp nhận tác phẩm. Liệu có nên đồng nhất nhân vật trong tác phẩm và nguyên mẫu ngoài đời không? Thứ hai, Nguyễn Tuân lựa chọn Cao Bá Quát làm nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao, vậy sự tương đồng và khác biệt khi hư cấu một nhân vật văn học nằm ở đâu? Liệu có cần phải biết tường tận về một nhân vật lịch sử để lý giải một nhân vật văn học không? Để trả lời các câu hỏi trên, tôi xin phép trình bày một số quan điểm của cá nhân tôi.
Tác phẩm “Chữ người tử tù’ nằm trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940 của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn Cao như một hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương, Nguyễn Tuân đã gửi gắm quan điểm nghệ thuật và nhân sinh sâu sắc qua nhân vật chính này. Huấn Cao hiện lên với tài viết chữ nổi tiếng, với khí phách hiên ngang - là tử tù nhưng rất ung dung, bình thản, thái độ đầy ngạo mạn và khinh bạc trả lời viên quản ngục, luôn bình thản, ung dung chờ đợi cái chết, không chịu khuất phục trước uy quyền; với thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp - không tham quyền, hám lợi mà bán rẻ giá trị của mình, trọng nghĩa khí.
Chữ Cao trong tên của nhân vật gợi nhắc đến tên tuổi của một nhân vật có thật trong lịch sử - Cao Bá Quát, người cũng nổi tiếng với tài viết chữ đẹp. Dân gian có câu “thần Siêu thánh Quát” để ca ngợi hai con người có nét chữ xuất thần. Cao Bá Quát sống vào khoảng thế kỷ 19, là một nhà nho, nhà thơ lớn, “văn võ song toàn”; một vị quan thanh liêm, chính trực, bảo vệ quyền lợi cho dân, cũng là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, từng bị triều đình bắt giam.
Giữa nhân vật trong “Chữ người tử từ” và nhân vật lịch sử có rất nhiều điểm tương đồng: đều là người có tài viết chữ đẹp, văn võ song toàn, có bản lĩnh, khí phách kiên cường, bất khuất, tính cách ngang tàn. Trong mắt triều đình, họ đều là tên giặc nguy hiểm đã nổi dậy khởi nghĩa, nhưng trong mắt nhân dân, họ là những anh hùng đã đứng lên bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Cả hai đều là những người tôn thờ cái đẹp, Cao Bá Quát chỉ cúi đầu trước nét đẹp thanh tao của hoa mai; Huấn Cao say mê thú chơi chữ tao nhã.
Nhưng giữa nhân vật lịch sử và nhân vật văn học vẫn có một khoảng cách xa, và nhà văn đã dùng tưởng tượng của bản thân để lấp đi khoảng cách đó. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, Huấn Cao (người tử tù) hiện lên như một người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp qua cảnh ông cho chữ quản ngục. Ở một nơi toàn “phân gián, phân chuột”, mạng nhện giăng đầy, nền ẩm ướt... người cho chữ lại là người tử tù “tay đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng tư thế cho chữ thì hiên ngang, lồng lộng. Tuy nhiên, nguyên mẫu trong thực tế - Cao Bá Quát, không được lưu truyền câu chuyện cho chữ nào. Mặc dù chữ của Cao Bá Quát rất đẹp, rất quý, nhưng thực tế không có cảnh cho chữ khuôn mẫu nào ở nhân vật này để Nguyễn Tuân tái hiện. Vì thế, cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là một sáng tạo độc đáo. Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật quản ngục - một người kính nể, ngưỡng mộ Huấn Cao, biệt đãi Huấn Cao vì muốn được xin nét chữ quý. Nhưng trong lịch sử, trong suốt thời gian dài bị giam cầm, Cao Bá Quát thường chịu nhục hình tra tấn.
Từ con người đời thực là Cao Bá đến con người trong văn học Huấn Cao là một sự sáng tạo của Nguyễn Tuân, là sự bù đắp của nghệ thuật vào phần thiếu hụt của cuộc sống. Tìm hiểu thêm về Cao Bá Quát để thấu hiểu được một thời “vang bóng”, con người “vang bóng” mà Nguyễn Tuân tôn sùng là thời đại nào. Nhưng nếu rập khuôn nguyên mẫu vào nhân vật văn học, thì rất nhiều điểm chênh sẽ hiển lộ ra. Vì thế, tôi cho rằng khi tìm hiểu về Huấn Cao, có thể tìm hiểu về Cao Bá Quát, nhưng không nên áp đặt toàn bộ những tư liệu đó vào việc lý giải nhân vật.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ của thầy cô về vấn đề mà tôi đang suy ngẫm, đồng thời rất sẵn lòng được cùng thảo luận những vấn đề khác mà thầy cô và các bạn đưa ra.
Thảo luận về một vấn đề văn học có ý kiến khác nhau – Mẫu 4
Chữ người tử tù là một truyện ngắn lãng mạn xuất sắc, tiêu biểu cho lý tưởng thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của ông.
Chữ người tử tù là một truyện ngắn gọn. Thế giới nhân vật ở đó cũng không nhiều. Thế nhưng nhân vật nào trong thiên truyện này cũng hiện lên thật sống động với số phận riêng, vẻ đẹp riêng. Vốn là người phóng túng, tài hoa, khinh bạc cái xã hội thối nát đương thời, Nguyễn Tuân đã say sưa, trân trọng khi xây dựng hình tượng người tử tù Huấn Cao.
Khi xây dựng hình tượng người tử tù Huấn Cao, Nguyễn Tuân dựa vào nhân vật lịch sử từng một thời vang bóng. Vậy ông đã tìm thấy những gì ở Cao Bá Quát - nguyên mẫu của hình tượng Huấn Cao? Cao Bá Quát nổi danh với văn hay chữ tốt, lại là người sống có lý tưởng, có bản lĩnh, bất chấp cường quyền. Trong lịch sử dân tộc ta, không thời đại nào vắng bóng anh hùng, nhưng kiểu anh hùng - nghệ sĩ như Cao Bá Quát không nhiều lắm. Cao Bá Quát vừa là một nhà nho uyên bác, vừa là một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa vừa là một cá tính tài hoa vừa là một nhân cách cứng cỏi. Vì thế, chúng ta hiểu vì sao trong sáng tác của Nguyễn Tuân cả trước và sau Cách mạng, Huấn Cao là một trong số không nhiều nhân vật mang vẻ đẹp rực rỡ, vẹn toàn nhất. Ở nguyên mẫu Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã tập trung tô đậm những nét cao quý phù hợp với lý tưởng của mình và Huấn Cao là hiện thân lồng lộng của cái đẹp trong hoàn cảnh đen tối, tù túng thời đó.
Huấn Cao trước hết là một con người tài hoa khác thường. Mở đầu truyện ngắn, thông qua cuộc đối thoại bàn luận giữa quản ngục và thơ lại mà nhà văn giới thiệu với người đọc vẻ đẹp này của Huấn Cao. Ấy là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp. Người xưa thường treo trong nhà, nơi trang trọng nhất những bức họa quý, những hàng chữ đẹp viết trên lụa óng hoặc khắc trên gỗ phủ sơn mài. Ấy là tài thư pháp, là thú chơi chữ - một nét đẹp của truyền thống dân tộc... Bởi cảm cái tài viết chữ của Huấn Cao nên viên quản ngục có sở nguyện thiết tha: có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Trong tâm niệm của quản ngục có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Cái sở nguyện thầm kín, thiết tha trôi đi, ngày Huấn Cao bị hành hình mỗi lúc một gần.
Chữ ông Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm thì viên quản ngục mới kiên trì, mới đối xử nhún nhường đến thế để mong được ông cho chữ. Mà đâu phải kiên trì, nhún nhường (ngay cả khi bị lạnh lùng đuổi ra), còn phải dũng cảm nữa. Biệt đãi một tên tử tù như thế rõ ràng là hành vi rất nguy hiểm. Hành vi này ắt phải trả giá rất đắt nếu bị bại lộ.
Người nghệ sĩ tài hoa Huấn Cao cũng là một con người có tâm đẹp. Nguyễn Du đã từng viết Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Chính cái tâm này khiến người đời càng nể trọng Huấn Cao, khiến viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin chữ. Có tài nhưng Huấn Cao đâu dễ phung phí! Chữ của ông vàng ngọc không mua được, quyền thế không ép buộc được. Cái tâm của một kẻ có tài thể hiện ở lòng tự trọng, ở chỗ biết giữ lấy, biết tiếc cho cái tài của mình, biết dùng cái tài đúng lúc, đúng chỗ.
Lòng tự trọng của Huấn Cao thể hiện rõ nhất qua ý thức giữ trọn thiên lương dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Khi viên quản ngục đánh bạo mở cửa buồng giam ông Huấn, ngỏ ý muốn biệt đãi ông miễn là ngài giữ kín cho, Huấn Cao chưa hiểu lòng tốt, thiên lương ở viên quản ngục khác thường này, cứ nghĩ y như trăm ngàn viên quản ngục tham lam, tàn nhẫn khác. Ông không muốn hưởng ơn huệ của người khác, nhất là lúc người ấy đang ở phía đối địch với mình. Cho đến khi cất lên những lời truyền dạy, khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục, Huấn Cao vẫn muốn người này giữ thiên lương cho lành vững, đừng để nhem nhuốc mất cái đời thiên lương đi.
Là người từng lãnh đạo nông dân tỉnh Sơn khởi nghĩa chống lại triều đình để rồi lãnh án tử hình, là kẻ cầm đầu bọn phản nghịch, Huấn Cao còn nêu cao vẻ đẹp của khí phách cứng cỏi, của tinh thần dũng cảm, thái độ coi thường cái chết. Ngay từ những giờ phút đầu tiên xuất hiện ở trại giam tỉnh Sơn, Huấn Cao đã tỏ rõ khí phách của mình bằng hành động rỗ gông. Bất chấp lời dọa đùa của tên lính áp giải, người đứng đầu cái gông bằng thang gỗ lim nặng dễ đến bảy, tám tạ ấy đã lạnh lùng khom mình thúc mạnh đầu gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái khiến một trận mưa rệp rơi xuống. Cũng người ấy ngồi đợi ngày chết chém mà không hề tỏ ra nao núng, vẫn ung dung đường hoàng... Cũng người ấy cố ý làm ra khinh bạc đến điều đối với viên quản ngục... Lại đến khi nhận được tin sáng sớm ngày mai sẽ bị giải về kinh để lĩnh án tử, người ấy chỉ lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười. Huấn Cao quên việc cái chết đang đến gần mà chỉ lo làm sao đền đáp tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục.
Từ bước ngoặt trong cốt truyện để đi đến cảnh cho chữ trong nhà giam cuối truyện ngắn, ta thấy hiện lên vẻ đẹp của một tấm lòng trọng nghĩa, của một người ứng xử cao thượng, đầy tinh thần văn hóa. Những bậc anh hùng - nghĩa sĩ thời xưa bao giờ cũng coi trọng đạo nghĩa. Vì chữ nghĩa, vì ân trả oán đền mà họ sẵn sàng hi sinh thậm chí cả tính mạng của mình. Khi chưa nhận ra lòng tốt của viên quản ngục, Huấn Cao không thèm chấp, lạnh lùng, cứng rắn. Song lúc chợt hiểu được đây là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ thì ông tìm mọi cách để báo đáp. Cao Bá Quát đã từng viết: Nhất sinh đê thủ bái lĩnh mai (Suốt đời chỉ biết cúi lạy trước hoa mai). Huấn Cao - con người suốt đời ngẩng cao đầu trước cường quyền, bạo lực ấy đã biết cúi đầu trước vẻ đẹp của một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, một nhân cách. Con người không hề sợ gông cùm, tiền bạc ấy đã biết sợ phụ một tấm lòng trong thiên hạ: Ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Chính Huấn Cao đã chủ động vạch ra kê hoạch cho chữ.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân thật giàu tính tạo hình và đầy chất thơ khi dựng lên một cảnh tượng xưa nay chưa từng có ở cuối truyện ngắn. Bút pháp nghệ thuật đối lập được nhà văn vận dụng triệt để trong cảnh này. Trong cảnh cho chữ hiện lên sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hành động và hoàn cảnh, giữa sức mạnh tinh thần, bản lĩnh con người và vóc dáng ngoại hình, giữa cái đẹp, cái cao thượng và cái xấu, cái ác. Hoàn cảnh, địa điểm cho chữ xưa nay chưa từng có: bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu khiến khói tỏa như đám cháy nhà; tư thế của người cho chữ, nhận chữ xưa nay chưa từng có: Huấn Cao cho chữ trong đêm cuối cùng của cuộc đời, vẫn một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, viên quản ngục thì cẩn trọng, khúm núm, thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. Giờ đây, Huân Cao trở lại cương vị người cho chữ, người truyền giáo; viên quản ngục ở vị trí người nhận chữ, được đáp ứng sở nguyện thiết tha của mình bấy lâu nay. Không có kẻ phạm tội, không có cai ngục, thơ lại. Chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước những đôi mắt sùng kính, ngưỡng mộ của những kẻ liên tài.
Tất cả đều sống động trong ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, của thiên lương và khí phách. Sự gặp gỡ kì lạ giữa ba tấm lòng ấy khiến cho nơi buồng giam nhơ bẩn, giữa chốn ngục tù tàn bạo ngời sáng lên một sức mạnh của nhân cách cao cả, của tài hoa, của cái đẹp. Với cảnh cho chữ, kẻ tử tù Huấn Cao đã đi vào bất tử.
Qua những phân tích trên, có thể không ngần ngại khẳng định rằng Huấn Cao là một trong những hình tượng nhân vật đẹp nhất của sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân. Hình tượng này thể hiện khá đầy đủ đặc sắc tư tưởng thẩm mĩ và phong cách nghệ thuật của nhà văn.