Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 7 bài văn mẫu Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học, chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học
Đề bài: Viết bài văn bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học
Dàn ý chi tiết
1.Mở bài
- Truyện ngụ ngôn luôn là một thể loại mà em yêu thích, em đã đọc rất nhiều và em ấn tượng nhất là truyện “Ếch ngồi đáy giếng”.
2.Thân bài
* Giới thiệu qua về truyện ngụ ngôn và truyện “Ếch ngồi đáy giếng”.
- Truyện ngụ ngôn là truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính chất đối nhân, xử thế, dùng loài vật, sự việc để nói về một quan điểm nhân sinh trong xã hội.
- Nội dung của truyện thường là phê phán thói hư tật xấu của con người, nêu lên những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống.
- “Ếch ngồi đáy giếng” kể về một con ếch sống trong một cái giếng lâu ngày, nghĩ rằng trời chỉ nhỏ bằng cái vung và nó là chúa tể. Khi mưa đổ xuống, ếch ra khỏi giếng đi lại huênh hoang như một vị chúa tể và bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
* Cảm xúc của em đối với truyện “Ếch ngồi đáy giếng”
- Phê phán thói huênh hoang, chủ quan, không coi ai ra gì của con ếch: Do nó quá xem thường mọi thứ xung quang, luôn coi mình là nhất nên phải gánh chịu hậu quả là bị giẫm bẹp.
- Phê phán tầm hiểu biết hạn hẹp của con ếch: do sống trong môi trường trật hẹp, mỗi khi kêu thấy mấy con vật xung quang sợ hãi nên nó nghĩ mình là chúa tể, không coi ai ra gì.
- Bài học: Không để bị khuất phục bởi hoàn cảnh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải học hỏi để mở mang kiến thức, tầm hiểu biết của bản thân. Tôn trọng mọi người và mọi thứ xung quang chúng ta.
3.Kết bài
- Truyện đã dạy cho em một bài học triết lí nhân sinh sâu sắc về tầm quan trong của việc mở rộng tầm hiểu biết
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 1
Câu truyện ngụ ngôn ếch ngồi đáy giếng không chỉ đem đến sự giải trí cho người đọc mà truyện ngụ ngôn ếch ngồi đáy giếng còn mang đến một bài học ý nghĩa cho những con người có tầm nhìn hạn hẹp, quen thói hống hách không coi ai ra gì.
Câu truyện ngụ ngôn ếch ngồi đáy giếng là một câu truyện dân gian xưa kia, mượn hình ảnh các con vật, sự vật nhằm nói bóng gió ám chỉ về chuyện con người với ý nghĩa răn dạy vô cùng sâu sắc, chính vì thế nó không chỉ là câu truyện ngụ ngôn được truyền từ đời này sang đời khác mà nó còn trở thành một câu thành ngữ của dân ta.
Từ câu chuyện của chú ếch nhỏ sống dưới cái đáy giếng nhỏ hẹp quá lâu đến mức chú ta nghĩ rằng những con vật tồn tại xung quanh mình chỉ có cua, ốc, nhái, bầu trời chỉ nhỏ như cái miệng giếng mà không nghĩ rằng tất cả đó chỉ là một phần rất rất nhỏ của cuộc sống, của môi trường ben trên kia.
Chính vì được làm chúa tể tại nơi mình sống, với các thần dân là những con vật nhỏ bé mà chỉ cần nghe thấy tiếng ộp ộp của chú ếch đã khiếp sợ mà chú đã trở nên kiêu căng, hợm hĩnh từ lúc nào không hay. Tính cách ấy ăn sâu vào ếch, ếch coi trời bằng vung, chủ quan, khinh đời vì nghĩ rừng mình là to lớn nhất. Đến một ngày khi trời mưa lớn, dòng nước dềnh lên đưa ếch ra khỏi cái đáy giếng nhỏ bé đó thì mọi chuyện đảo lộn hết. Môi trường sống thay đổi không còn là phạm vi nhỏ hẹp nữa đòi hỏi ếch phải thay đổi, tuy nhiên ếch vẫn nghĩ rằng mặt đất kia cũng giống như đáy giếng mà ếch vẫn sống trước kia và nó vẫn nghĩ mình là chúa tể của nơi này.
Chính từ câu truyện nhỏ đó với nghệ thuật ẩn dụ khéo léo của tác giả dân gian mà mang đến bài học về cách nhìn nhận thế giới xung quanh cho con người, ngoài ra câu truyện cũng nhằm phê phán những người có thói huênh hoang, khoác lác, từ đó khuyên răn những con người đó bỏ tính cách ấy đi, mở rộng hơn tầm nhìn hạn hẹp của mình. Chính vì sự kiêu ngạo, không cẩn thận và không coi ai ra gì như vậy đã khiến nó bị một con trâu giẫm bẹp.
Tuy câu truyện ngụ ngôn ngắn gọn nhưng mang đầy đủ ý nghĩa, được chia làm 2 phần rõ rệt với một phần nói về trình độ và cách sống của ếch phần 2 chính là hậu quả mà cách sống đó mang lại từ đó đem đến bài học ý nghĩa cho mọi người.
Tác giả dân gian khéo léo đặt bối cảnh vào nhân vật để nêu lên ý nghĩa tượng trưng qua những hình ảnh hiện thực. Tiếng kêu của ếch thì âm vang mà giếng lại quá nhỏ không đủ để cho ếch nhận ra sự hống hách và kém hiểu biết thái quá của chính mình. Chính vì vậy cơn mưa không phải là nguyên nhân gây nên cái chết của ếch mà chính và thói chủ quan không coi ai ra gì của nó gây nên.
Qua câu truyện ngụ ngôn ếch ngồi đáy giếng chúng ta có được một bài học đó là không nên có thói kiêu ngạo không coi ai ra gì dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Con người phải không ngừng học hỏi vì ở đời còn rất nhiều những thứ chúng ta không ngờ tới nếu không ngừng mở mang tầm hiểu biết của mình thì sẽ chuốc lấy những thất bại và hậu quả nghiêm trọng.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 2
Chúng ta vẫn truyền tai nhau câu nói: “Đoàn kết là sức mạnh” và từ xa xưa ông cha ta đã nhận thức đúng về vai trò của đoàn kết và mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Dưới hình thức một truyện ngụ ngôn dí dỏm, “Chân tay tai mắt miệng” đã để lại cho em những bài học sâu sắc.
Truyện kể về những bộ phận trên cơ thể con người đó là chân, tay, tai, mắt, miệng. Chân, tay, tai, mắt vì cho rằng miệng lúc nào cũng ngồi không hưởng quả ngon, vật lạ mà không chịu làm việc nên đã nảy sinh ganh tị và đồng loạt bảo nhau không làm việc, để cho lão miệng tự kiếm cái ăn. Sự đố kỵ của các bộ phận khiến chúng ngày càng yếu ớt, mệt mỏi. Nhưng cuối cùng họ cũng hiểu ra vấn đề và lại cùng nhau chung sống hòa thuận.
Trình bày suy nghĩ của em về truyện ngụ ngôn Chân tay tai mắt miệngĐiều chúng ta dễ dàng nhận thấy nhất ở câu chuyện là nếu không có thức ăn cơ thể sẽ trở nên yếu ớt, mệt mỏi. Chân, tay bủn rủn, chẳng thể cất nổi mình. Mắt thì “suốt ngày lờ đờ, hai mí nặng trĩu”. Tai thì lúc nào cũng cảm thấy ù ù bên trong… Nhưng đằng sau đó, câu chuyện chứa đựng bài học thật sâu sắc. Giống như chân, tay, tai, mắt, miệng, mỗi một cá thể trong xã hội đều có mối liên hệ với nhau và chúng ta sẽ tạo thành một cộng đồng không thể tách rời. Truyện đã khẳng định: trong xã hội, mỗi người là một cá tính riêng, có những khả năng, do đó sự phân công công việc và cách thức đóng góp cũng khác nhau. Tuy vậy, cá nhân nào cũng phải có trách nhiệm với cộng đồng và nếu cá nhân đó chỉ biết sống cho mình thì sẽ không thể có một chỉnh thể thống nhất. Bên cạnh mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, câu chuyện còn là lời răn dạy mỗi người không nên sống so bì, đố kị bởi điều đó sẽ dẫn đến những quyết định sai lầm ảnh hưởng đến chính ta và đến những người quanh ta. Vậy nên ta cần sống, làm việc và cống hiến hết mình cho xã hội, có như vậy cuộc sống của ta mới có ích.
Lối kể chuyện dí dỏm đặc trưng của ngụ ngôn đã khiến câu chuyện dễ đi vào lòng người và khiến nó trở nên gần gũi hơn với tất cả mọi người. Câu chuyện tuy ngắn gọn nhưng những giá trị mà nó để lại sẽ còn ý nghĩa cho đến mãi về sau.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 3
Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng ta đã nhận thức rất đúng về vai trò của đoàn kết và mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân với cộng đồng. Nhận thức đó đã được đúc kết thành bài học bổ ích gửi gắm trong tục ngữ, ca dao và truyện cổ dân gian. Một trong những truyện mang ý nghĩa giáo dục thấm thìa, sâu sắc dưới một hình thức ngụ ngôn dí dỏm, thú vị là truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Truyện kể về hành động dại dột của Chân, Tay, Tai, Mắt vì suy bì, ganh tị với Miệng mà bảo nhau đồng loạt không làm việc, để cho lão Miệng tự kiếm lấy miếng ăn. Hành động nông nổi thiếu suy nghĩ ấy khiến cho cả bọn mệt mỏi, rã rời. Hiểu ra sai lầm, tất cả kéo nhau đến giảng hoà với lão Miệng. Rồi ai làm việc nấy, mọi người lại sống hoà thuận như xưa.
Trong truyện ngụ ngôn này, nhân vật là những bộ phận của cơ thể con người đã được nhân hoá. Thông qua truyện, người xưa muốn khẳng định: Trong xã hội, trong một tập thể, tất cả mọi người đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Không ai có thể tách rời khỏi cộng đồng và chỉ có đoàn kết, gắn bó, nương tựa lẫn nhau mới có thể tạo ra sức mạnh. Nếu chia rẽ sẽ dẫn tới suy thoái, diệt vong. Do đó mọi người phải biết hợp tác với nhau và tôn trọng công sức của nhau.
Kết cấu truyện ngắn gọn. bố cục rõ ràng và có đầy đủ nhân vật, tình tiết, mâu thuẫn như một màn kịch nhỏ và hoàn cảnh nảy sinh mâu thuẫn chính là cuộc trao đổi giữa Chân, Tay, Tai, Mắt về sự cống hiến và hưởng thụ.
Truyện kể rằng: Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ xưa vẫn sống với nhau rất thân thiết. Bỗng một hôm, cô Mắt cho rằng lão Miệng quanh năm không phải làm việc mà lại được hưởng tất cả những miếng ngon miếng lành ; còn mọi người suốt ngày quần quật mà chẳng được gì. Ý kiến của cô Mắt nêu ra nhanh chóng được cậu Chân, cậu Tay và bác Tai ủng hộ. Cả bọn hăm hở đến gặp lão Miệng để nói thẳng với lão rằng: … Từ nay chúng tôi không làm để nuôi ông nữa. Lâu nay, chúng tôi đã cực khổ, vất vả vì ông nhiều rồi. Câu nói ấy chứa đựng sự bất bình mà mọi người cố chịu đựng bấy lâu. Chẳng thèm nghe lão Miệng phân trần phải trái. Bác Tai, cô Mái, cậu Chân, cậu Tay đều lắc đầu mà rằng : Không, không phải bàn bạc gì nữa, từ nay trở đi, ông phải lo lấy mà sống. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm gì cả. Xưa nay, chúng tôi có biết cái gì ngọt bùi ngon lành mà làm cho cực!
Nếu mới nghe qua thì lí sự của chúng có vẻ đúng, bởi thực tế là Mắt nhìn, Tai nghe, Tay làm, Chân đi… để kiếm sống, chứ còn Miệng thi chỉ có ăn uống, hưởng thụ, nào có phải vất vả, mệt nhọc gì đâu? Kẻ làm nhiều mà không được hưởng thụ gì, còn kẻ không làm lại được hưởng tất. Chúng bất bình, giận dữ, tẩy chay lão Miệng để cho lão biết thân. Chúng không hiểu rằng việc nhai nuốt của lảo Miệng cũng là làm. việc, biến thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể, trong đó có Chân, Tay, Tai, Mắt… Người có khỏe thì Mắt mới tinh, Tai mới thính, Chân, Tay mới nhanh nhẹn được. Trong cơ thể con người, mỗi bộ phận có một chức náng riêng nhưng tất cả phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì sự sống. Nếu một bộ phận suy yếu hoặc ngừng hoạt động, con người sẽ bị bệnh hoặc có thể chết.
Suy nghĩ nông nổi của Chân, Tay, Tai, Mắt đã phải trả giá. Chúng bảo nhau đồng loạt nghỉ việc. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cả bọn thấy mệt mỏi, rả rời. Cậu Chân, cậu Tay không còn muốn cất mình lên để chạy nhảy vui đùa như trước nữa. Cô Mắt thì ngày cũng như đêm, lúc nào cũng lờ đờ, hai mi nặng trĩu như buồn ngủ mà ngủ không được. Bác Tai trước kia hay đi nghe hò nghe hát, nghe tiếng gì cũng rõ, nay bỗng thấy lúc nào cũng ù ù như xay lúa ở trong, cả bọn lừ đừ, mệt mỏi như thế cho đến ngày thứ bảy thì không thể chịu được nữa, đành họp nhau lại để bàn…
May mắn là trong bọn họ, bác Tai đã hiểu ra nguyên nhân của tình cảnh đáng sợ ấy nên giải thích cho cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay: Chúng ta lầm rồi các cháu ạ. Chúng ta nếu không làm cho lão Miệng có cái ăn thì chúng ta sẽ bị tê liệt cả. Lão Miệng không đi làm, nhưng lão có công việc là nhai. Như vậy cũng là làm việc chứ không phải là ăn không ngồi rồi. Trước kia sống với nhau thân thiết như thế, nay tự dưng chúng ta gây nên chuyện. Lão Miệng có ăn thì chúng ta mới khoẻ khoắn được. Chúng ta nên đến nói lại với lão, các cháu có đi không?
Trước lời nói có tình có lí của bác Tai, cả bọn đã nghe ra và cố gượng dậy đi theo bác Tai đến nhà lão Miệng. Suốt bảy ngày không có cái ăn, lão Miệng cũng rơi vào cảnh sống dở chết dở: nhợt nhạt cả hai môi, hai hàm thì khô như rang, khônq buồn nhếch mép.
Tất cả mọi người vội vàng ai vào việc nấy: Bác Tai, cô Mắt vực lão Miệng dậy. Còn cậu Chân, cậu Tay thì đi tìm thức ăn cho lão Miệng ăn. Lão Miệng ăn xong, dần dần tỉnh lại. Và như có phép lạ, lập tức bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay tự nhiên thấy đỡ mệt nhọc, rồi thấy trong mình khoan khoái như trước. Từ một sự hiểu lầm dẫn đến hành động không đúng, nay hiểu ra, may mà còn cứu kịp.
Như vậy rõ ràng là Chân, Tay, Tai, Mắt và Miệng có liên quan mật thiết với nhau. Mỗi bộ phận tuy có chức năng riêng nhưng có cùng một nhiệm vụ chung là duy trì và phát triển sự sống của cơ thể. Không thể nói bộ phận nào quan trọng hơn cả. Sự khiếm khuyết bất cứ bộ phận nào cũng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động của con người.
Tử quan hệ không thể tách rời giữa các nhân vật, truyện ngụ ngôn này đã Khéo léo đặt ra bài học cho con người. Trong cuộc sống, một cá nhân không thể tồn tại nếu tách khỏi cộng đồng. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng là hết sức quan trọng. Truyện tuy ngắn gọn nhưng là lời khuyên khéo léo và thiết thực: Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Bởi vì suy nghĩ, hành động, cách ứng xử của cá nhân không chỉ tác động đến bản thân mà còn ảnh hưởng chung đến cả cộng đổng, tập thể.
Điều thú vị là qua truyện ngụ ngôn này, ông cha ta đã khẳng định: Trong xã hội, mỗi người có một năng lực, một trình độ khác nhau, do đó sự phân công công việc và cách thức đóng góp cũng khác nhau. Không nên suy bì, tị nạnh một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích chung. Bên cạnh việc đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, mỗi thành viên phải tự giác làm việc theo sự phân công của xã hội. Khi làm việc phải cống hiến hết sức mình cho cả cộng đồng. Có như vậy xã hội mới ngày càng tốt đẹp hơn.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 4
Trong cuộc sống có nhiều sự việc đi qua mà không bao giờ trở lại. Tuy nhiên chính bản thân sự việc đó lại để lại trong ta những kỉ niệm khó phai nhòa. Đọc một tác phẩm cũng vậy, có những câu chuyện ta chỉ đọc một lần nhưng nó lại khắc sâu vào tâm trí mỗi chúng ta mãi mãi, riêng với bản thân tôi, truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong tôi những dư ba, ấn tượng mà có thể nói, đến bây giờ tôi vẫn không bao giờ quên. Đặc biệt là qua đoạn trích cùng tên, với nhân vật bé Thu và ông Sáu với những tình cảm cha con đầy tha thiết và xúc động.
Ông Sáu khi đi kháng chiến, có một đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi. Trong những năm tháng kháng chiến vợ của ông cũng đến thăm ông vài lần và lần nào ông Sáu cũng bảo mang con đến. Tuy nhiên vì chiến trường miền Đông đầy ác liệt nên vợ của ông không dám đưa Thu - tên con gái họ đi. Và ông chỉ được nhìn con qua những tấm ảnh nhỏ mà thôi. Và giờ đây, khi trở về thì tình cha con ấy lại trỗi dậy trong lòng ông, ông cảm thấy nôn nao. Ngay lập tức, khi xuống thuyền, ông thấy một đứa bé chừng bảy, tám tuổi, tóc ngang vai thì ông Sáu biết ngay đó là con mình rồi chưa chờ xuồng cập bến, ông đã nhún chân nhảy thót lên bờ, vội vàng bước những bước dài rồi kêu: "Thu! con". Điều đó thể hiện một tình cảm của người cha một cách tự nhiên, quá xúc động. Chính điều này đã làm cho tôi cảm thấy dường như chính lúc này đây trái tim của người cha tội nghiệp reo lên đầy sung sướng khi sau tám năm trời mới được nhìn thấy mặt con và dường như ông cũng mong sự đáp lại tình cảm của con. Nhưng con bé lại đầy ngơ ngác, lạ lùng, không biết đó là ai. Còn ông Sáu thì vẫn đầy xúc động miệng nói không thành lợi, giọng lắp bắp: "Ba đây con"! Lúc đó chính là lúc tình cảm của người cha trào lên đến đỉnh điểm và không thể toát ra bằng lời vì ông đã quá xúc động. Sau đó ngay lập tức Thu đã chạy vào nhà còn ông Sáu thì đứng sững lại đó có lẽ do quá bất ngờ trước hành động của con. Tuy nhiên theo tôi thấy, thái độ, cách cư xử của Thu là hoàn toàn hợp lý vì Thu là một đứa trẻ và Thu cũng chưa bao giờ gặp người đó. Còn ông Sáu thì đầy thất vọng, ngỡ ngàng trước cách cư xử của con.
Sau đó, ông Sáu vẫn cố gắng để con nhận ra mình là cha. Cả ngày ông chẳng đi đâu xa, suốt ngày ở bên con, săn sóc, vỗ về con. Tuy nhiên càng gần gũi để kéo gần khoảng cách cha con bao nhiêu thì con bé lại càng đẩy ra bấy nhiêu. Ông chỉ mong có một điều là được gọi mình một tiếng "ba". Chỉ một tiếng "ba" mà thôi! Đó là một mong muốn mà với người khác có thể là điều hoàn toàn bình thường, nhưng với ông Sáu điều đó thật khó khăn. Những hành động của ông Sáu giúp đỡ con hay vỗ về nó đều bị con bé phản ứng lại. Nhưng chính cái tình cha đó đã giúp ông kiên trì vượt qua. Đến một bữa cơm, khi ông gắp trứng cá to, vàng bỏ vào bát nó thì bất thần con bé hất ra, cơm văng tung toé và không kịp suy nghĩ gì ông đã đánh một cái vào mông nó. Chính điều này đã làm ông hối hận và theo tôi thì dường như lúc đó ông muốn lại nói với nó: "Ba xin lỗi con, thật tình ba không muốn đánh con". Còn Thu thì có lẽ hơi hối hận vì việc làm của mình.
Trong ba ngày nghỉ ngắn ngủi, ông đã ở bên con nhưng con không nhận. Giờ đây ngày chia tay bà con làng xóm ông định mang theo nỗi buồn đó. Nhưng trong lúc không ai ngờ đến đó, một tiếng kêu đã xé lòng ông: "Ba... a...a... ba". Đó là tiếng "ba" đầy xót xa nghe sao mà xé lòng ta đến thế! Tiếng "Ba" đó là sự dồn nén trong Thu tám năm nay và bây giờ nó vỡ tung ra từ ngay trong sâu thẳm đáy lòng con bé. Tiếng "ba" với nó là điều khát khao hơn mọi đứa trẻ khác vì ngay từ nhỏ nó đã không có tình yêu thương của cha. Giờ đây tiếng "ba" vang lên đầy tự nhiên, ngỡ ngàng trong giây phút cuối cha con chia tay. Và bây giờ nó muốn có ba, nó bật khóc vì hạnh phúc, nó hôn tóc, hôn cổ và hôn với vết sẹo dài trên má của ba nó nữa. Thành ra lý do nó không nhận ba là do vết thẹo đó, nó thấy ra lí do nó không nhận ba là do vết thẹo đó, nó thấy trong ảnh ba nó khi đánh Tây thì nó mới hiểu ra. Nhưng vừa nhận ra thì cũng là lúc phải chia tay. Sung sướng và có lẫn sự xúc động ông ôm con và tạm biệt nhưng con bé không muốn ba phải đi. Cho đến khi ông hứa mua cho nó một chiếc lược thì nó mới để cho ba nó đi.
Ở chiến trường tuy chiến tranh đầy ác liệt nhưng anh vẫn cố công làm bằng được chiếc lược ngà.
Trong khi làm, anh cảm thấy vui vui như đứa trẻ nhận được quà. Anh cố gắng làm tỉ mỉ, thận trọng có công như người thợ bạc. Khi chiếc lược được làm xong anh cảm thấy sung sướng vì mình như đã thực hiện được phần nào lời hứa. Sau đó anh lại khắc trên sống lưng chiếc lược “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Hàng đêm nhớ con anh lại đem lược ra ngắm chải lên đầu cho lược thêm bóng, mượt. Điều đó đã làm cho tôi xúc động về tình cảm đầy thiêng liêng của người cha dành cho con. Rồi một chuyện không may xảy ra, đó là anh Sáu hi sinh. Trong giờ phút cuối cùng, tuy không đủ sức trăng trối, nhưng phải chăng tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong con người anh. Anh đưa chiếc lược cho Ba – một người đồng đội thân thiết và nhìn Ba hồi lâu như trăng trối rằng: “Hãy đưa chiếc lược này đến cho Thu”. Cái nhìn đó có thể nói rằng đó là cái nhìn của sự nhờ cậy, tin cậy, gửi gắm cả tâm hồn anh qua đó. Đọc đến đây, tôi cảm thấy như mình đang sống cùng nhân vật, trong cùng một hoàn cảnh và tôi cảm thấy có một cái gì đó bức bối, ngột ngạt trong tôi. Phải chăng tôi quá xúc động? Đó là sự xúc động trước tình cha con đầy thiêng liêng, cao quý, nó có thể trỗi dậy ngay cả khi con người ta đang đối mặt giữa sự sống và cái chết. Khi nhân vật Ba nhận lời thì anh mới nhắm mắt tức ước nguyện xem như được chấp nhận.Sau này, bác Ba đã gặp Thu - giờ đây là cô gái giao liên đầy dũng cảm và bác đã trao lại kỉ vật đó cho Thu.
Qua tác phẩm chúng ta có thể thấy vì hạnh phúc của con người cha sẵn sàng làm tất cả và ngay khi chúng ta sắp chết thì tình phụ tử nó luôn trỗi dậy. Nó giúp cho tôi nhận thấy tình phụ tử là một tình cảm đầy thiêng liêng và đáng trân trọng. Đồng thời qua đây tôi cũng muốn gửi gắm một bức thông điệp: Chúng ta cần phải giữ gìn và quý trọng tình phụ tử vì đó là tình cảm đầy thiêng liêng.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 5
Nhắc tới Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), người đời nhớ tới tác phẩm Vũ trung tùy bút của ông. Một bút pháp nghệ thuật tinh tế, tài hoa, một phong thái thư nhàn cao nhã, ông tiêu biểu cho cốt cách kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê - Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút đặc sắc, rút trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Tùy hứng mà viết, tùy bút mà viết, cảm hứng dào dạt, dâng trào, cảnh ăn chơi xa hoa của chúa Trịnh Sâm, cảnh bán hàng của bọn nội thần nội thị, cảnh tấu nhạc của bọn nhạc công cung đình tại chùa Trấn Quốc nơi Hồ Tây giữa thế kỉ XVIII, sự nhũng nhiễu của bọn hoạn quan khắp chốn dân gian đã được tác giả Vũ Trung tùy bút chấm phá qua một vài nét, thế mà ta chỉ đọc qua một lần là có thể nhớ mãi.
Chuyện cũ... đã xảy ra vào khoảng năm Giáp Ngọ - Ất Mùi (1774 - 1775), đó là lúc Đàng Ngoài "vô sự", là những năm tháng hoàng kim của Thịnh Vương (Trịnh Sâm); khi mà người ngọc Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa: Thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ mỗi tháng ba bốn lần. Cảnh đón tiếp với các thứ nghi lễ thật tưng bừng độc đáo. Có "binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ" Có tổ chức hội chợ, do quan nội thần cải trang "đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”
Thuyền ngự đi tới đâu thì các quan hô tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ... Gác chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi hòa nhạc của bọn nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng "liên tục" nhằm thỏa mãn cuộc sống ăn chơi của vua chúa và bọn quan lại thời Lê - Trịnh. Bao nhiêu tiền của, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân bị bòn vét đến kiệt cùng. Phạm Đình Hổ đã được mắt thấy tai nghe những Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh nên cách kể, cách tả của ông rất sống động.
Để được sống trong xa hoa, hưởng lạc đế vương, từ chúa đến quan đều trở thành bọn cướp ngày ra sức hoành hành, trấn lột khắp chốn cùng quê. Chúa thì "sức thu lấy" trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian “không thiếu một thứ gì". Có những cây cảnh "cành lá rườm rà như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng" phải dùng đến một cơ binh mới khiêng nổi, từ bên bắc chở qua sông đem về. Trong phủ chúa "điểm xuyết" bao núi non bộ trông lạ mắt như "bốn bể đầu non". Vườn ngự uyển, trong những đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm "ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn". Nếu như trong Thượng kinh kí sự, Lê Hữu Trác ngạc nhiên viết:
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.
Thì ở đây, Phạm Đình Hổ ái ngại: "Kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường". Cuộc sống cực kỳ xa hoa ấy là nguyên nhân cho sự sụp đổ ngai vàng ngày một ngày hai sẽ nổ ra. Đó là năm 1782, Trịnh Sâm qua đời; loạn kiêu binh nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá tan hoang; năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà lần thứ nhất, cơ nghiệp họ Trịnh tan tành trong nháy mắt! "Cái triệu bất tường" mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Quy luật cuộc đời vô cùng sòng phẳng, cay nghiệt:
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?
(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)
Bọn hoạn quan trong phủ chúa vừa trắng trợn vừa xảo quyệt, như dân gian đã khinh bỉ chửi vào mặt: "Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan". Chúng dùng thủ đoạn "nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm". Chỉ bằng hai chữ "phụng thủ" biên ngay vào chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay của bất cứ nhà nào là chúng cướp được. Chúng còn lập mưu đêm đến cho tay chân sai lính lẻn vào "lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền". Chúng ngang ngược "phá nhà phá tường" của dân để khiêng hòn đá hoặc cây cối gì mà chúng cướp được! Đối với nhà giàu thì chúng lập mưu vu cho là "giấu vật cung phụng" để hành hạ, để làm tiền, nhiều người phải "bỏ của ra kêu xin”, có gia đình "phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ"
Gia đình tác giả thuộc hàng quan lại, quý tộc thời Lê - Trịnh. Trước sự nhũng nhiễu hoành hành, mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người nhà chặt cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng", hai cây lựu trắng, lựu đỏ "lúc ra quả trông rất đẹp". Chi tiết này, tình tiết này rất sống, rất thực.
Tác giả đã kể lại một chuyện có thật của gia đình mình ở phường Hà Khẩu để vừa tạo nên niềm tin cho người đọc mai hậu, vừa phê phán bộ mặt tham lam, ghê tởm của bọn quan lại thời Lê - Trịnh, vạch trần sự thối tha trong phủ chúa.
Trang tùy bút Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có giá trị lịch sử sâu sắc, nó đã làm hiện lên cảnh vật và con người, cuộc sống xa hoa ăn chơi của vua chúa, hành động ăn cướp, làm tiền trắng trợn của bọn quan lại trong phủ chúa.
Ngòi bút của Phạm Đình Hổ rất trầm tĩnh và sâu sắc. Mọi cảm xúc, ý nghĩ của ông về nhân tình thế sự được gửi gắm qua những chi tiết, tình tiết, mẩu chuyện rất sống động, rất chọn lọc, đậm đà, nhã thú.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 6
Hồ Chủ tịch không những là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam mà còn là một thi sĩ nổi tiếng.
Đọc bài thơ Cảnh khuya em càng thấy rõ hơn tâm hồn thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ trong Bác. Em thấy say mê cảnh đẹp hùng vĩ nên thơ của núi rừng Việt Bắc - cái nôi của cách mạng. Em cũng rất khâm phục, kính yêu lòng yêu nước vĩ đại của Bác:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Bức tranh thiên nhiên đẹp của rừng Việt Bắc thể hiện ở ngay câu thơ đầu:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên thơ mộng hơn, tươi đẹp hơn nhờ biện pháp so sánh tài tình và độc đáo:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Âm thanh mới trong trẻo, du dương, ngân nga làm sao. Âm “a” cuối câu gợi nên cung bậc của tiếng suối đều đặn, miên man, mang lại cho tâm hồn em một âm hưởng thiết tha, ngọt ngào, mà sâu lắng.
Nghệ thuật so sánh còn tạo ra một vẻ đẹp mới cho hình ảnh thơ: Bác biến dòng suối thành tiếng hát, một âm thanh rất trong trẻo, trẻ trung. Tiếng suối như có hồn của người nghệ sĩ. Bác đứng dưới rừng Việt Bắc thưởng thức tiếng suối, thưởng thức cảnh thiên nhiên của núi rừng khi đã về khuya. Phải rất say mê, chan hòa với thiên nhiên, hòa hợp thân thiết với thiên nhiên Bác mới nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây dẫu không phải là người nghệ sĩ, không thân thiết được với thiên nhiên như Bác, em cũng thấy lòng mình rung động mãnh liệt. Em thấy vỏ cùng sung sướng, xúc động và em như thấy con suối hiện ra trước mắt mình thật lung linh, huyền ảo.
Nếu như tiếng suối làm cho cảnh vật tĩnh lặng, sâu lắng thì ánh trăng làm cho cảnh vật thơ mộng hơn:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Trăng tròn vành vạnh tỏa ánh sáng xuống trần gian. Những lùm cây rậm rạp được trăng chiếu xuống trông như những sợi kim tuyến lấp lánh trang điểm trên mái tóc bồng bềnh của nàng thiếu nữ. Trăng soi qua kẽ lá, chiếu xuống đất tạo thành muôn vàn những đốm trắng nhỏ li ti trên mặt đất lấm tấm như hoa gấm. Trăng, cây cổ thụ, bóng hoa tuy ở ba tầng bậc khác nhau nhưng chúng không cách biệt mà gắn bó, đan xen vào nhau, lồng vào nhau, tô thêm vẻ đẹp cho nhau. Chúng cũng sống động lên nhờ từ “lồng”. Trước mắt em là một bức tranh tươi đẹp, các nét cảnh hòa quyện đan xen khiến cho bức tranh đó làm em say mê, ngây ngất.
Cảnh rừng Việt Bắc rất phong phú nhưng Bác chỉ khắc họa một vài nét: ánh trăng, tiếng suối. Tuy nhiên em vẫn hình dung thấy một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Người.
Phải chăng Bác thao thức, chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên quá đẹp?
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Nghệ thuật so sánh này gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Cảnh rừng Việt Bắc như một bức tranh - “như vẽ“ một bức tranh tươi đẹp nhưng cũng hết sức hoàn hảo, có trăng, có suối, có bóng hoa, có cây cổ thụ. Hai lần tác giả dùng biện pháp so sánh trong bài như mỗi lần so sánh, mang đến một vẻ đẹp tươi khác nhau. Nhờ đó cảnh rừng Việt Bắc hiện ra cụ thể hơn. Hãy trở lại với tâm hồn của Bác. Bác muôn vàn kính yêu của chúng ta quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu nước sâu sắc. Khác với người xưa, Bác không những yêu thiên nhiên mà Bác còn lo lắng cho nước nhà, lo cho giang sơn tươi đẹp:
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Cảm xúc khâm phục Bác càng dâng lên trong em. Câu thơ đã lí giải toàn bộ nguyên do vì sao Bác không ngủ: vì lo nỗi nước nhà.
Nhờ câu thơ này em hiểu ra hoàn cảnh của Bác lúc đó. Có lẽ đã bao đêm Bác thao thức không ngủ như thế này vì Bác lo cho dân, cho nước. Rồi đêm nay, giữa núi rừng Việt Bắc, bất chợt gặp khung cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, lòng Bác tràn trề cảm xúc và đã bật ra những vần thơ chứ không phải Bác ngắm cảnh để làm thơ. Điều ấy càng khiến em xúc động. Em càng kính yêu, khâm phục vô bờ bến đối với tâm hồn, trái tim vĩ đại của Bác.
Đọc Cảnh khuya em vừa say mê với cảnh vừa khâm phục phẩm chất và tâm hồn của Bác. Đọc bài thơ em bắt gặp tâm hồn của người thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ. Tâm hồn ấy, tấm lòng ấy kết hợp hài hòa trong con người Bác. Bác không bao giờ xao lãng việc nước, xao lãng việc quân dù chỉ trong một chút thư giãn với thiên nhiên hay một thoáng mơ màng sau một ngày làm việc vất vả. Từ đó em càng thấy kính trọng, tôn kính Người.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 7
Tôi đi học là truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh, in trong tập Quê mẹ và được xuất bản năm 1941. Đây là một truyện ngắn thể hiện rất đầy đủ phong cách sáng tác của tác giả: đậm đà chất trữ tình, đằm thắm, êm dịu, trong trẻo và tràn đầy chất thơ. Truyện đã thể hiện một cách xúc động tâm trạng hồi hộp, cảm giác bỡ ngỡ của nhân vật tôi, chú bé được mẹ đưa đến trường lần đầu tiên trong ngày tựu trường.
Cảm xúc bắt đầu được khơi nguồn từ hiện tại với cảnh lá rụng vào cuối thu. Đó là một buổi ban mai đầy sương thu và gió lạnh: Buổi tựu trường xa xưa ấy thật đáng nhớ, cậu con trai bé bỏng được mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi. Con đường đi đến trường là con đường làng dài và hẹp vốn đã quen đi lại lắm lần nhưng tự nhiên chú bé thấy lạ. Cảnh vật quê nhà hình như đều thay đổi bởi lẽ vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Chú bé bảy tám tuổi cảm thấy mình đã khôn, không còn chơi bời lêu lổng lội qua sông thả diều như thằng Quý và không đi ra đồng nô đùa như thằng Sơn nữa.
Làm sao quên được buổi tựu trường xa xưa đó. Chú bé cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn khi được mặc chiếc áo vải dù đen dài, cầm trong tay hai quyển vở mới. Chú thêm cảnh mấy cậu học trò bằng tuổi mình áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau hay trao sách vở cho nhau xem. Chỉ cần hai quyển vở mới, dù tay ghì thật chặt mà chú vẫn cảm thấy nặng, rồi một quyển vở Xệch ra và chênh đầu chúi xuống đất. Nhìn thấy mấy cậu ôm sách vở nhiều lại còn kèm cả bút thước nữa, chú ngây thơ nghĩ chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ, tâm lý ấy của nhân vật tôi đã thoáng qua trí nhớ của mình một cách nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi. Hình ảnh so sánh duyên dáng quá, không hề sáo mòn, công thức: so sánh cái ý nghĩ chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước được so sánh với làn mây lướt ngang trên ngọn núi đã làm nổi bật ý nghĩ non nớt và ngây thơ trong sáng của nhân vật tôi.
Khi đứng trước ngôi trường, chú bé càng hồi hộp, bỡ ngỡ. Chú ngạc nhiên trước cảnh đông vui dày đặc cả người trước sân trường; ai cũng áo quần sạch sẽ, gương mặt vui tươi sáng sủa. Chú đã từng đi bẫy chim quyên với thằng Minh, và ghé lại trường một lần, đi quanh các lớp, cảm thấy trường xa lạ, cao ráo và sạch sẽ hơn các nhà trong làng. Thế mà buổi tựu trường hôm nay, chú cảm thấy trường Mĩ Lí của mình vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa ấp. Đứng giữa sân trường rộng, chú bé đâm ra lo sợ vẩn Vơ. Phải chăng tâm trạng bồi hồi, bỡ ngỡ là rất thực, rất điển hình đối với tuổi thơ trong buổi tựu trường đầu tiên trong đời mình.
Chú bé cũng như những học trò khác bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, con chim đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng, e sợ. Hình ảnh so sánh đặc sắc quá! Tâm trạng vừa khao khát học hành, ước mơ bay tới những chân trời xa. Chân trời ước mơ và hy vọng đã hiện về trong tâm tưởng của tuổi thơ trong buổi tựu trường.
Tiếng trống trường, tiếng trống trường ngày khai giảng tiếng trống dù ở đâu và bất cứ thời nào cũng gây chấn động, hồi hộp kỳ lạ. Hồi trống trường của trường Mỹ Lí đã thúc vang dội cả lòng chú bé. Khi học sinh xếp hàng vào lớp, chú cảm thấy mình chơ vơ. Và tất cả học trò đều bắt đầu vụng về lúng túng. Tưởng như không đi mà bị kéo dìu tới trước. Co chân rồi duỗi chân, cứ dềnh dàng mãi. Toàn thân thì run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp. Và khi ông đốc gọi tên, khi ông đốc nói, các em học trò vào lớp Năm đã lúng túng... càng lúng túng hơn. Nhiều em ôm mặt khóc, nhiều em thút thít. Riêng chú bé thì cố bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước nhưng vẫn dúi đầu vào lòng mẹ tôi khóc nức nở. Có bao giờ, chú quên được cái bàn tay yêu thương của mẹ vuốt nhẹ lên tóc mình. Tuy vậy, chú bé khi xếp hàng vào lớp Năm, được thầy giáo trẻ tuổi tươi cười đứng đón ở cửa lớp, nhưng chú vẫn cảm thấy lẻ loi: trong thời thơ ấu tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này.
Cảm xúc hồi hộp bâng khuâng dâng lên man mác trong lòng khi ngồi trong lớp, cảm thấy một mùi hương lạ xông lên. Chú thấy lạ và hay hay những hình treo trên tường. Chú nhìn ra ghế và lạm nhận đó là vật của riêng mình, nhìn người bạn tí hon ngồi cạnh không cảm thấy xa lạ mà quyến luyến tự nhiên... Có lúc chú đưa mắt thèm thuồng một cánh chim. Chú vòng tay lên bàn lẩm nhẩm đánh vần bài viết tập Tôi đi học. Tiếng phấn của thầy giáo đã đưa chú trở về thực tế.
Bằng trang hồi ức của mình, Thanh Tịnh đã diễn tả những kỷ niệm, những diễn biến tâm trạng hồi hộp, cảm giác bỡ ngỡ của nhân vật "tôi" trong buổi tựu trường theo trình tự thời gian, không gian: lúc đầu là buổi sớm mai mẹ dẫn đi trên con đường làng, sau đó là lúc đứng giữa sân trường, một hồi trống vang lên, nghe ông đốc đọc tên và dặn dò, cuối cùng là khi thầy giáo trẻ đưa vào lớp.
Tôi đi học là trang văn đầy chất thơ, chất thơ của kỷ niệm thời thơ ấu ngày tựu trường. Chất thơ ở giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm. Chất thơ ở sự lắng đọng và khơi gợi tâm hồn kí ức thời cắp sách trong mỗi chúng ta. Tôi đi học là một tiếng lòng man mác, bâng khuâng của một thời để nhớ, một thời để yêu. Kỷ niệm ấy rất đẹp và sâu sắc, vì thế sau này Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 8
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.
Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên cũng như đoàn thuyền lúc ra khơi:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời, gợi thời gian của hoàng hôn. Cùng với đó là hình ảnh nhân hóa biến không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài. Thiên nhiên đã bắt đầu khoảng thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.
Trong khi đó, đây mới là lúc con người bắt đầu công việc lao động. “Đoàn thuyền” - không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn - một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi lao động. Cách viết “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ. Đặc biệt là hình ảnh “câu hát căng buồm” gợi ra khung cảnh người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.
Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã khắc họa nổi bật lên hình ảnh người ngư dân:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện được tâm hồn lạc quan, không khí khẩn trường mà còn nói lên mong ước của họ. Công việc đánh cá vất vả là vậy nên người ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp được nhiều luồng cá để có thể đánh bắt được nhiều. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa được sử dụng khiến cho người đọc có một cảm nhận thú vị về con người lao động.
Tiếp đó, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.
Nhà thơ đã dành riêng một khổ thơ để nói về sự giàu có của biển cả:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được kể ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song. Đặc biệt nhất là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật thơ mộng. Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” - màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?
Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” - biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.
Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng - lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá - thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.
Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.
Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ với niềm tự hào về khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 9
Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương là một bài thơ cảm động. Tác phẩm được viết khi ông từ quan về quê sau năm mười năm xa cách. Ngôn ngữ chân thành đã diễn tả được nỗi nhớ quê hương tha thiết, đồng thời có chút ngậm ngùi, chua xót.
Hạ Tri Chương là người tài giỏi, kiến thức uyên bác, ông đỗ tiến sĩ và nhiều năm làm quan. Sau thời gian dài cống hiến cho đất nước, ông đã xin từ quan trở về quê hương. Bài thơ đã thể hiện cảm xúc chân thành của ông khi bước chân về quê hương yêu dấu. Mạch cảm xúc chủ đạo của bài tâm trạng nhớ thương tha thiết khi được trở về thăm quê nhà.
Có lẽ tình cảm yêu quê hương của ông luôn thường trực, canh cánh trong lòng nên ngay từ giây phút ban đầu trở lại quê hương cảm xúc ông dâng trào, buột lời mà thành ý, thành thơ. Hai câu thơ đầu nêu lên hoàn cảnh trở về quê hương:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải mấn mao tồi.
Ông kể đấy mà thực chất lại chính là để thể hiện tâm trạng của mình, một tâm trạng có phần ngậm ngùi, chua xót. Ngậm ngùi vì thời gian xa quê đã quá dài, trong suốt cuộc đời làm quan bận bịu trăm công nghìn việc ông chưa hề nghỉ ngơi để có một ngày trở về thăm quê hương. Ông còn ngậm ngùi vì khi xa quê tuổi còn trẻ, về quê thì tuổi đã già, khoảng cách giữa trẻ - già, giữa “li gia” – “hồi hương” đã hơn nửa thế kỉ li biệt. Và càng xót xa hơn khi cuối đời mới về quê nên thời gian sống ở quê nhà chẳng còn được là bao. Thật đáng ngưỡng mộ mà cũng thật đáng thương cho ông, cả đời tận tụy cho đất nước, khi được nghỉ ngơi thì tuổi đã quá cao, thời gian cho ông không còn nhiều.
Tình yêu quê hương của ông còn được thể hiện đặc biệt rõ ở câu thơ thứ hai. Tác giả nêu lên mối quan hệ giữa cái thay đổi và cái không thay đổi: dù mái tóc đã ngả bạc nhưng hồn cốt của quê hương thì sẽ chẳng thể nào thay đổi chính là giọng nói. Quê hương đã trở thành hơi thở, máu thịt của ông. Chao ôi, thật đáng trân trọng nhân cách cao đẹp của Hạ Tri Chương, tình yêu quê hương của ông thật tha thiết, bền chặt.
Hai câu thơ sau nói lên hoàn cảnh đầy nghịch lí nhưng qua đó lại càng rõ nét hơn về tình yêu quê hương của ông:
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?
Sự xuất hiện của những em bé vừa chân thực lại vừa kịch tính. Với bản tính hiếu động, có lẽ khi xuất hiện một vị khách lạ tất yếu những đứa trẻ sẽ hỏi han nguồn gốc quê quán. Và cũng vô cùng chân thực khi tác giả trở về đã là 86 tuổi, hơn nửa thế kỉ xa quê hương, bạn bè, bởi vậy mấy ai có thể nhận ra ông. Hạ Tri Chương bị đẩy vào tình huống là người làng nay lại hóa là “khách”. Thật ngậm ngùi và chua xót làm sao. Nhìn hình thức bên ngoài hai câu cuối mang sắc thái đùa vui, hóm hỉnh nhưng thực chất lại hết sức đau lòng. Làm sao có thể không chua xót cho được khi trở thành kẻ xa lạ trên chính quê hương của mình. Chỉ một chữ “khách” mà đã chất chứa biết bao ngậm ngùi, chua xót.
Bài thơ không chỉ hay và cảm động người đọc ở nội dung mà còn hấp dẫn ở hình thức nghệ thuật đặc sắc. Tác giả xây dựng cấu tứ bài thơ độc đáo: hai câu đầu và hai câu sau có sự chuyển ý bất ngờ, tự nhiên mà vẫn vô cùng hợp lí. Các câu chữ không trực tiếp bộc lộ tâm trạng mà nó được thể hiện qua giọng thơ, khiến bài thơ càng giàu sức gợi hơn. Nghệ thuật đối được tác giả vận dụng vô cùng điêu luyện. Thật tuyệt vời khi ông đã tạo nên phép đối chỉnh đến vậy: tiếu tiểu – lão; li gia – đại hồi; hương âm – mấm mao kết hợp với nghệ thuật tương phản bao trùm lên là cái không đổi: hương âm. Đã làm nổi bật lên tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng của ông.
Gấp trang sách lại tôi vẫn không khỏi bồi hồi xúc động trước tình yêu quê hương chân thành, thắm thiết của tác giả. Đó quả là một tình cảm đẹp đẽ, đáng trân trọng. Đọc xong bài thơ tôi cũng nhận ra rằng tình yêu quê hương là một trong những tình cảm thiêng liêng, bền vững nhất của mỗi con người. Mỗi chúng ta phải trân trọng, nâng niu tình cảm cao quý ấy.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 10
Trong những tác phẩm văn học đã được học ở cấp hai, truyện ngắn “Bến quê” của nhà văn Nguyễn Minh Châu (chương trình lớp 9) để lại trong tôi một ấn tượng rất mạnh mẽ. Tôi chưa đến tuổi của anh Nhĩ để thấm thía đủ cái triết lí sâu sắc mà nhà văn gửi gắm ở niềm khao khát hướng ra bên quê phía bên kia sông, nhưng tôi đã phần nào cảm nhận được nỗi niềm nuối tiếc của anh khi anh nằm trên giường bệnh đếm những ngày còn lại của cuộc đời mình.
Thói thường người đời vẫn coi thường hiện tại, mải mê đuổi theo những hư danh phía trước mà không nhận ra những giá trị đích thực của những gì mình đang có. Nhà văn Nguyễn Minh Châu qua Bến quê đã muốn nói với mọi người triết lí sâu xa ấy. Là nhà văn luôn có những phát hiện mới mẻ về những điều quen thuộc và giản dị của cuộc sống, ông đã phát hiện ra những nỗi băn khoăn, day dứt, nuối tiếc của con người khi đứng trước những gì đã qua. Anh Nhĩ đã từng đi rất nhiều nơi, cả cuộc đời anh chạy theo danh vọng mà anh quên mất cái bến quê trước cửa nhà. Anh không có thời gian để ý đến nó. Khi nằm trên giường bệnh, không còn khả năng đi lại, anh mới nhận ra rằng cái bến quê ấy hấp dẫn biết bao nhiêu. Anh bừng ngộ ra rằng anh đã chạy theo hư danh mà bỏ qua mất một điều quan trọng và vô cùng quý giá với mình. Anh ân hận vì cả cuộc đời anh mới chỉ sang cái bến sông ấy có hai lần, và một lần là ngày cưới của anh.
Mỗi con người đều có một bến quê trong lòng mình, nhưng không phải ai cũng nhận ra nó quý trọng và thiêng liêng để mà giữ gìn trân trọng khi còn đủ sức. Nhĩ nuối tiếc khi anh nhận ra cái bến quê ấy hấp dẫn với anh biết nhường nào và anh đã gửi gắm cả niềm khao khát ấy vào đứa con trai. Anh nhờ nó đi đò sang sông để mua cho anh bất cứ thứ gì phía bên sông ấy. Nhưng thằng bé, cũng như anh khi còn trẻ, không thể nhận ra những tâm sự của cha. Nó lại mải chơi nên bị lỡ chuyến đò ngang cuối cùng trong ngày. Thằng bé không vội vã bởi nó còn quá nhiều thời gian để sống, bởi với nó cái bến sông ấy cũng rất bình thường. Thằng bé sẽ lại giống như cha và như tất cả mọi người, không thể nhận ra sự đáng quý và đáng trân trọng của những gì đang trong tầm tay.
Một người bệnh nặng, không còn khả năng đi lại, ngắm cái bến sông qua khung cửa sổ, khó khăn nhích từng tí một trên giường để được ngắm cái bến sông. Và nuối tiếc vì mình đã vô tình với quê hương, với những điều bình dị và vô cùng quý giá. Cốt truyện chỉ đơn giản vậy thôi nhưng chứa đựng cả một vấn đề nhân sinh rất lớn. Điều nhà văn nói đến trong tác phẩm này cũng không phải là hoàn toàn mới: Phải biết trân trọng những gì mình đang có và đã có, không nên quá mải mê với những hư danh mà quên mất giá trị của hiện tại. Văn học đã từng nói về điều này. Những Nguyễn Minh Châu đã có một cách thể hiện thật giản dị và sâu sắc. Bến quê là câu chuyện về sự bừng ngộ của một con người ở những ngày cuối cùng của cuộc đời. Vì thế sự bừng ngộ ấy còn có ý nghĩa như một sự thức tỉnh đối với những ai đang sống, hăm hở để tiến đến tương lai và còn tiếp tục bỏ lại phía sau những điều nuối tiếc.
Cuộc sống không thể không có những tiếc nuối. Song nếu để mình phải nuối tiếc quá nhiều hoặc nuối tiếc những điều thiêng liêng nhất mà mình trót đánh mất nghĩa là đã bỏ phí một quãng đời quý giá.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 11
Chúng ta đã từng học qua những truyện ngắn như Lão Hạc, Tắt đèn và chắc không mấy ai trong số chúng ta lại không trầm trồ thán phục tài năng nghệ thuật của Nam Cao hay Ngô Tất Tố. Với riêng tôi, dù đã đọc đi đọc lại truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao rất nhiều lần nhưng dường như lần nào tôi cũng lại tìm thấy thêm được một vài điều lý thú. Nó cuốn hút tôi, lay động tôi, khi thì gợi trong tôi sự căm thù, khi lại gọi về chan chứa những yêu thương.
Lão Hạc là sản phẩm của một tấm lòng nhân đạo cao cả. Nó là tình yêu thương, là sự ngợi ca, trân trọng người lao động của Nam Cao. Giống như Ngô Tất Tố cùng nhiều nhà văn thời đó, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh người nông dân Việt Nam trước Cách mạng với những phẩm chất đáng quý, đáng yêu: chăm chỉ, cần cù, giàu tình yêu thương và giàu đức hy sinh.Trước cách mạng, Nam Cao say sưa khám phá cuộc sống và tính cách của người nông dân. Trong các tác phẩm của ông, môi trường và hoàn cảnh sống của nhân vật chính thường gắn liền với cái nghèo, cái đói, với miếng ăn và với các định kiến xã hội đã thấm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ vào cách nhìn của con người ở nông thôn.
Lão Hạc cũng vậy, suốt đời sống trong cảnh nghèo và cái đói. Lão đã dành hầu như cả đời mình để nuôi con mà chưa bao giờ nghĩ đến mình. Lão thương con vô bờ bến: thương khi con không lấy được vợ vì nhà ta nghèo quá, thương con phải bỏ làng, bỏ xứ mà đi để ôm mộng làm giàu giữa chốn hang hùm miệng sói. Và đọc truyện ta còn thấy lão đau khổ biết nhường nào khi phải bán đi cậu Vàng, kỷ vật duy nhất của đứa con trai. Không bán, lão biết lấy gì nuôi nó sống. Cuộc sống ngày thêm một khó khăn. Rồi cuối cùng, đến cái thân lão, lão cũng không giữ được. Lão ăn củ chuối, ăn sung luộc. Nhưng lão nghĩ, lão "không nên" sống nữa. Sống thêm, nhất định lão sẽ tiêu hết số tiền dành dụm cho đứa con mình. Vậy là, thật đớn đau thay! Lão Hạc đã phải tự "sắp xếp" cái chết cho mình. Cuộc sống của nông dân ta trước cách mạng ngột ngạt đến không thở được. Nhìn cái hiện thực ấy, ta đau đớn, xót xa. Ta cũng căm ghét vô cùng bọn địa chủ, bọn thực dân gian ác.
Lão Hạc chết. Cái chết của lão Hạc là cái chết cùng đường, tuy bi thương nhưng sáng bừng phẩm chất cao đẹp của người nông dân. Nó khiến ta vừa cảm thương vừa nể phục một nhân cách giàu tự trọng. Lão chết nhưng đã quyết giữ cho được mảnh vườn, chết mà không muốn làm luỵ phiền hàng xóm.
Đọc Lão Hạc ta thấy đâu phải chỉ mình lão khổ. Những hạng người như Binh Tư, một kẻ do cái nghèo mà bị tha hoá thành một tên trộm cắp. Đó là ông giáo, một người trí thức đầy hiểu biết nhưng cũng không thoát ra khỏi áp lực của cảnh vợ con rách áo, đói cơm. Cái nghèo khiến ông giáo đã phải đứt ruột bán đi từng cuốn sách vô giá của mình. Những cái thứ ấy bán đi thì được mấy bữa cơm? Vậy ra ở trong truyện tất cả đã đều là lão Hạc. Lão Hạc phải oằn mình mà chết trước thử hỏi những người kia có thể cầm cự được bao lâu?
Vấn đề nổi bật được thể hiện trong Lão Hạc là niềm tin và sự lạc quan của nhà văn vào bản chất tốt đẹp của con người. Thế nhưng điều quan trọng hơn mà nhà văn muốn nhắn gửi đó là một lời tố cáo. Nó cất lên như là một tiếng kêu để cứu lấy con người. Từ chiều sâu của nội dung tư tưởng, tác phẩm nói lên tính cấp bách và yêu cầu khẩn thiết phải thay đổi toàn bộ môi trường sống để cứu lấy những giá trị chân chính và tốt đẹp của con người.
Lão Hạc cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Nó cũng dạy ta, cuộc sống là một cuộc đấu tranh không phải chỉ đơn giản là để sinh tồn mà còn là một cuộc đấu tranh để bảo toàn nhân cách.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 12
Nguyễn Thành Long là một cây bút truyện ngắn nhưng vẻ đẹp nghệ thuật không nằm ở những phát hiện sắc sảo – táo bạo xung đột mạnh mẽ mà nghiêng về tạo dựng chất thơ nhẹ nhàng trong trẻo lặng thầm, kín đáo nhưng vẫn có sức ngân vang sâu rộng lâu bền. Lặng lẽ Sa Pa tiêu biểu cho phong cách dó của Nguyễn Thành Long. Truyện ra đời sau một chuyến đi thực tế kiểm nghiệm. Nguyễn Thành Long đã giới thiệu với chúng ta một vùng đất lặng thầm nhưng ở đó vẫn có những con người đang ngày đêm làm việc cống hiến quên mình cho quê hương đất nước.
“Lặng lẽ Sa Pa” khi mới đọc cái tên ta có cảm giác Nguyễn Thành Long đang viết về một nơi yên ắng, lạnh giá, hiu hắt hoặc nghĩ về một vùng đất nghỉ ngơi tham quan du lịch Sapa nhiều hơn. Nhưng điều kì diệu và bất ngờ là trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang lên những nhịp sống sôi động trong sáng, tuổi trẻ, vẫn lung linh những sắc màu và lan tỏa ấm áp lòng người. Nơi ấy đang bừng dậy sức sống của những con người, những tấm lòng đang sống, cống hiến làm việc âm thầm lặng lẽ cho quê hương đất nước. Đó là những con người sống đẹp, có ích cho đời, có lý tưởng ước mơ, niềm tin yêu vững bền vào nghề nghiệp, kiến thức, trình độ, khoa học mà nhân vật anh thanh niên là hiện thân vẻ đẹp đó.
Nhân vật anh thanh niên, ở tuổi đời hai mươi bảy vừa rời phồn hoa, đô thị đông đúc, anh lên công tác ở đỉnh núi Yên Sơn (Sapa) ở độ cao hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm mây mù tuyết phủ, suốt ngày làm bạn với núi đá rừng cây. Cái yên ắng, yên lặng tĩnh mịch đến ghê sợ để khiến cho người ta thoái thác nhiệm vụ rời bỏ vị trí nhưng theo tiếng gọi nghề nghiệp và tình yêu cuộc sống, công việc, anh đã tự nguyện gắn bó mình với nghề nghiệp khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Công việc là như vậy nhưng điều kiện làm việc là ngoài trời, kỹ thuật máy móc lại thiếu thốn đơn giản, thô sơ. Cả ngày nắng cũng như ngày mưa hay lúc giá rét lạnh buốt xương, anh vẫn phải lên “ốp” đúng giờ, ghi chép đầy đủ chính xác để bảo vệ cơ quan cấp bộ.
Thế nhưng tất cả những sự vất vả, khó nhọc, thiếu thốn với anh nào có kể gì, thấm tháp gì đâu so với sự lạnh lẽo buồn cô đơn đến “thèm người”. Ở chốn rừng sâu hoang vu vắng lặng, anh chỉ biết làm bạn với chim kêu vượn hót. Xuất phát từ lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm tự giác, ý thức được nhiệm vụ của tuổi trẻ: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Ở anh còn có một tấm lòng nhiệt tình say mê nghề nghiệp, nghiên cứu, sáng tạo và luôn tìm thấy niềm vui từ công việc. Anh từng tâm sự: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi”.
Ngoài là người có học thức, có trình độ, anh thanh niên lại còn có một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu nơi mình gắn bó, làm việc bằng cách tự tạo ra niềm vui từ công việc hiện thực – đẩy lùi buồn tẻ cô đơn như đọc sáng – nghiên cứu – trồng rau – trồng hoa, nuôi gà, cải thiện cuộc sống. “Thèm người” anh thanh niên tìm cách gặp người, gặp bạn để trao đổi, trò chuyện thân mật và cởi mở, luôn quan tâm chu đáo đến người khác. Anh tự tạo ra một cuộc sống ngăn nắp, khoa học, một thói quen chủ động trong mọi tình huống và công việc. Trong giao tiếp ở anh thanh niên toát lên một phong cách, một vẻ đẹp trong phong cách lời ăn tiếng nói khiêm tốn, vui vẻ, chân tình, lịch sự luôn biết sống vì mọi người.
Có thể nói ở anh thanh niên mang một vẻ đẹp trong sáng của người thanh niên thời đại mang trong mình những hiểu biết về tri thức, sống tận tụy, yêu nghề, yêu đời, hiểu được việc làm và chỗ đứng của mình từ đó mà hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ở anh còn toả sáng và sưởi ấm cho bao tâm hồn khác dẫu chỉ một lần gặp gỡ ngắn ngủi cho những người đến Sa Pa.
Qua lời kể của anh thanh niên, ông kỹ sư nông nghiệp ở vườn ươm su hào và ông kĩ sư nghiên cứu bản đồ chống sét đều là những người sống lặng thầm trên mảnh đất Sa Pa mà lao động cần mẫn, say mê, quên mình vì mục đích chung của mọi người. Họ đang làm nên cái “lặng lẽ” mà ngân vang sôi động ở Sa Pa.
Bác lái xe trong vai người dẫn truyện là điểm dừng cho mọi cuộc gặp gỡ, tình cảm nảy sinh tốt đẹp trong cuộc gặp gỡ đặc biệt là trong 30 phút ngắn ngủi giữa ông họa sĩ và cô kỹ sư đã để lại trong tình cảm những con người đối với Sa Pa là một kỉ niệm tốt đẹp. Bác là người am hiểu anh thanh niên hơn ai về cuộc sống, sinh hoạt của anh và chính bác đã tạo ra cho anh thanh niên những niềm vui về tinh thần, đẩy lùi sự cô đơn, buồn vắng. Ông họa sĩ là nhân vật hóa thân của nhà văn, người xem đây là một chuyến đi may mắn trong cuộc đời nghệ thuật của mình. Còn đối với cô kĩ sư trẻ, cô đã phát hiện ra nhiều điều mới mẻ trong chuyến đi đầu đời giúp cô nhận thức về tình yêu nghề nghiệp cuộc sống vững tin hơn trong sự lựa chọn của mình. Người ta gọi đây là những tâm hồn đồng điệu đến với Sa Pa.
Truyện có một tuyến nhân vật, không có biến cố xung đột kịch tính. Các nhân vật đều dưới những cái tên chung, có cuộc sống và công việc khác nhau khiến mọi người sa vào đó đều có bóng dáng công việc của mình. Ngôn ngữ giàu nhạc điệu, giàu chất thơ mượt mà như ý nghĩa nhan đề của chính câu chuyện. Truyện ngắn như một bức tranh lung linh kì ảo đằm thắm, ấm áp tình người sâu lắng trong từng bức tranh thiên nhiên.
“Lặng lẽ Sa Pa” viết về con người bình thường, nhịp sống bình thường. Nhưng phía sau nhịp sống bình thường ấy là những âm vang âm sắc cuộc đời. Nguyễn Thành Long đã góp một tiếng nói nhỏ nhẹ để ngợi ca cuộc sống và tái hiện một cách đầy đủ những vẻ đẹp của con người, có năng lực trình độ, nhiệt thành và hăng say cách mạng trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 13
Đại dương là thế giới sâu thẳm mà con người luôn luôn khao khát muốn nghiên cứu hết được nó, không chỉ vậy những sinh vật nằm ở phía sâu dưới đại dương kia cũng là một bí ẩn rất nhiều nhà khoa học muốn tìm hiểu. Trong đó nổi bật nhất có lẽ chính lẽ người cá, có rất nhiều truyền thuyết, lời đồn liên quan tới nhân vật bí ẩn này. Chính vì vậy trong văn học cũng đã có rất nhiều tác phẩm liên quan đến người cá, mà em thích nhất là đoạn trích “Một ngày của Ích-chi-an” được trích ở phần đầu tiểu thuyết “Người cá” của Alexander Romanovich Belyaev.
Một ngày của Ích-chi-an diễn ra từ khi trời chuẩn bị sáng cho đến tận đêm khuya. Ích-chi-an chính là nhân vật người cá mà mỗi người chúng ta có lẽ ai cũng ao ước một lần được nhìn thấy. Cậu coi biển cả như là nhà của mình, coi cá heo là bạn và vui đùa trên những con sóng. Dù cho biển cả có mưa giông hay bão bùng thì Ích-chi-an vẫn yêu thương biển cả. Cậu hít thở luồng không khí trong lành từ biển cả vào phổi bằng mang của mình và cảm xúc bình yên
Không chỉ vậy khi lên bờ Ích-chi-an còn là người bảo vệ cho những chú cá bị mắc kẹt trên bờ sau cơn bão. Cậu giống như người con của biển cả khi đám mình trong biển cả để vui đùa với đàn cá nhỏ, chiếc đuôi cá giúp cậu trở thành một người con của biển cả thực thụ hơn. Nhưng khi lên bờ Ích-chi-an vẫn là một người bảo vệ cho đại dương, cho những sinh vật nhỏ bé của đại dương cần được giúp đỡ.
Em rất thích nhân vật Ích-chi-an, cậu không chỉ là một người cá mà còn là một người bảo vệ đại dương. Tuy rằng Ích-chi-an khác với hình tượng người cá xinh đẹp mà em hay tưởng tượng nhưng cậu là là một nhân vật với nét đẹp bình dị. Khi ở trên biển cả cậu thật vui vẻ nô đùa cùng đàn cá nhỏ hay là chạy theo người ban thân là cá heo. Ích-chi-an còn vui vẻ mà đùa cùng những cơn sóng, cậu yêu biển cả, yêu thiên nhiên và cậu bảo vệ những sinh vật biển nhưu một người anh hùng.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 14
Chắc hẳn mỗi chúng ta khi còn nhỏ đều tò mò không biết sô-cô-la được sản xuất ra sao và có cho mình ước mơ được một lần đi thăm quan về một nhà máy sản xuất sô-cô-la. Ước mơ này đã được Rô-a-đan hiện thực bằng lời văn và con chữ qua tác phẩm “Xưởng sô-cô-la”.
Sác-li là một cậu bé nghèo sống cùng bố mẹ và ông bà nội, ngoại. Cậu là người đã tìm thấy tấm vé vàng thứ năm và được đi thăm quan nhà máy của ông Quơn-cơ. Ông Quơn-cơ lấy chùm chìa khóa ra và giới thiệu với mọi người đây là trung tâm thần kinh của nhà máy, là trái tim của toàn bộ công việc, là nơi xuẩn xuất sô-cô-la.
Năm đứa trẻ và chín người lớn không khỏi ngạc nhiên khi trước mắt họ là một thung lũng rất đẹp với những đồng cỏ xanh rờn hai bên và ở đáy thung lũng có một dòng sông nâu. Giữa lưng chừng con sông nâu tạo thành một con thác và có một mớ đường ống thủy tinh vục vào lòng sông. Ở hai bên dòng sông cây cối mọc vô cùng đẹp mắt. Quơn-cơ đã giải thích cho lũ trẻ rằng dòng sông nâu đó chính là sô-cô-la mà cả tung lũng xinh đẹp này đều được ông tạo lên từ rất nhiều nguyên liệu khác nhau nhưng tất cả chúng đều có thể ăn được. Không chỉ vậy xưởng sô-cô-la của ông Quơn-cơ còn có cả những người tí hon, họ là người Um pơ – Lum pơ.
Xưởng sô-cô-la của ông Quơn-cơ như một thế giới cổ tích mà em thường mơ tới. Tất cả thật tuyệt vời khi ở trong đó bất cứ thứ gì cũng có thể ăn được. Ước gì em có thể là một trong năm bạn nhỏ may mắn thăm quan xưởng sản xuất sô-cô-la của Quơn-cơ.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 15
Trong cuộc sống, có những sự kiện đã xảy ra và không thể quay trở lại. Nhưng chính những sự kiện đó lại để lại trong chúng ta những kỷ niệm khó phai, khắc sâu vào tâm trí mỗi người mãi mãi. Đọc một tác phẩm cũng tương tự như vậy, có những câu chuyện ta chỉ đọc một lần nhưng nó lại ảnh hưởng đến tâm hồn ta mãi mãi. Đối với tôi, truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong tôi những dư vị và ấn tượng đặc biệt. Cụ thể, qua đoạn trích cùng tên, với nhân vật bé Thu và ông Sáu với những tình cảm cha con đầy tha thiết và xúc động, tôi vẫn nhớ mãi không quên.
Ông Sáu tham gia kháng chiến khi đứa con gái đầu lòng của ông chưa đầy một tuổi. Trong những năm tháng chiến tranh, vợ của ông đã đến thăm ông vài lần và mỗi lần, ông luôn yêu cầu mang theo con gái của mình. Tuy nhiên, vì chiến trường miền Đông rất đáng sợ nên vợ ông không dám mang theo Thu - tên con gái của họ. Vì vậy, ông chỉ được nhìn con qua những tấm ảnh nhỏ. Và giờ đây, khi ông trở về, tình cha con trong ông lại trỗi dậy, ông cảm thấy rất xúc động. Ngay khi xuống thuyền, ông nhận ra một đứa bé tóc ngang vai khoảng bảy, tám tuổi, và ông biết ngay đó là con của mình ngay trước khi xuồng cập bến. Ông nhún chân nhảy lên bờ ngay lập tức, bước nhanh và kêu gọi: "Thu! Con!". Hành động này thể hiện một tình cảm tự nhiên và quá xúc động của người cha.
Điều đó đã khiến tôi cảm thấy như lúc này, trái tim người cha tội nghiệp đang vang lên trong niềm hạnh phúc khi sau tám năm mới gặp lại con của mình, và ông mong con sẽ đáp lại tình cảm của mình. Nhưng đứa bé lại trông lạ lùng, không nhận ra ông. Trong khi đó, ông Sáu đầy xúc động và lắp bắp nói: "Ba đây con ơi"! Đó là lúc tình cảm của người cha phun trào lên đến đỉnh điểm, không thể bày tỏ bằng lời vì ông quá xúc động. Sau đó, Thu chạy vào nhà và ông Sáu đứng sững lại vì bất ngờ. Theo tôi thấy, thái độ và cách cư xử của Thu hoàn toàn đúng vì cô bé là một đứa trẻ và chưa bao giờ gặp người cha này. Tuy nhiên, ông Sáu thì thất vọng và bàng quan vì cách cư xử của con.
Sau đó, ông Sáu vẫn cố gắng để con nhận ra mình là cha. Suốt cả ngày, ông ở bên con, săn sóc và vỗ về. Tuy nhiên, mỗi lần ông cố gắng tiếp cận con thì con lại đẩy ông xa hơn. Ông chỉ mong được nghe con gọi mình là "ba". Đó là một điều đơn giản nhưng đối với ông Sáu thì rất quan trọng. Những hành động của ông Sáu để giúp con hay vỗ về con đều bị con bé phản đối. Nhưng tình cảm cha của ông giúp ông kiên trì vượt qua khó khăn. Một ngày, khi ông đang gắp trứng cá vàng bỏ vào bát, con bé đột nhiên hất nó ra, làm cơm văng tung tóe. Không kịp suy nghĩ, ông đã đánh một cái vào mông con. Điều này làm ông hối hận và ông có lẽ muốn nói với con: "Ba xin lỗi con, ba không muốn đánh con". Còn Thu thì có lẽ hối hận về hành động của mình.
Trong ba ngày nghỉ ngắn ngủi, ông đã dành thời gian ở bên con nhưng con không chịu nhận ra ông. Bây giờ đến lúc chia tay với bà con làng xóm, ông mang theo nỗi buồn đó. Nhưng đến lúc không ai ngờ đến, một tiếng kêu đầy xót xa đã vang lên: "Ba...a...a...ba". Tiếng "ba" ấy chạm đến lòng xót xa của ông. Đó là tiếng "ba" mà Thu đã dồn nén trong tám năm và bây giờ nó vỡ ra từ đáy lòng con bé. Đối với nó, tiếng "ba" là điều khát khao hơn cả đối với bất kỳ đứa trẻ nào khác, bởi từ nhỏ nó đã không có tình yêu thương của cha. Bây giờ, tiếng "ba" vang lên tự nhiên, ngỡ ngàng trong giây phút chia tay cuối cùng của cha con. Con bé muốn có ba, nó bật khóc vì hạnh phúc, nó hôn tóc, cổ và vết sẹo dài trên má của ba. Cuối cùng, con bé hiểu ra lý do tại sao nó không nhận ra ba là vì vết sẹo đó, khi nhìn thấy bức ảnh của ba đánh Tây thì nó mới hiểu được. Nhưng khi nó nhận ra, thì cũng là lúc phải chia tay. Ông và con bé đều vui và xúc động, ông ôm con và nói lời tạm biệt. Tuy nhiên, con bé không muốn ông đi, cho đến khi ông hứa sẽ mua cho nó một chiếc lược thì con bé mới đồng ý để ông đi. Trong chiến trường đầy ác liệt, ông vẫn cố gắng làm ra chiếc lược ngà.
Ông đã cảm thấy rất vui và hạnh phúc khi làm chiếc lược, như một đứa trẻ được tặng quà. Ông làm việc rất cẩn thận, tỉ mỉ như một người thợ bạc. Sau khi hoàn thành, ông đã khắc lên sống lưng của chiếc lược dòng chữ "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Ông luôn nhớ đến con, và mỗi đêm lại đem chiếc lược ra ngắm, chải để cho nó mượt mà. Tôi cảm động trước tình cảm thiêng liêng của người cha dành cho con. Tuy nhiên, một ngày không may, ông Sáu đã hy sinh. Trong giờ phút cuối cùng, dù không còn đủ sức, nhưng có lẽ tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong anh. Ông đã gửi chiếc lược đến cho anh Ba - một người đồng đội thân thiết và nhắn gửi rằng: "Hãy đưa chiếc lược này đến cho Thu".
Sau khi đọc đoạn văn đó, tôi cảm thấy như mình đang chung sống với nhân vật trong hoàn cảnh đầy áp lực đó. Cái nhìn của nhân vật đó là sự tin tưởng, gửi gắm cả tâm hồn ông qua đó... Tôi bị cuốn hút bởi tình cảm cha con đầy thiêng liêng và cao quý. Điều đó cho thấy rằng tình cảm này có thể hiện hữu ngay cả trong khi con người ta đang đối mặt giữa sự sống và cái chết. Khi nhân vật Ba nhận lời thì ông mới nhắm mắt tức ước nguyện xem như được chấp nhận. Sau đó, bác Ba đã gặp gỡ Thu - lúc đó đã là một cô gái dũng cảm và trao lại kỉ vật đó cho cô.
Từ tác phẩm này, chúng ta có thể thấy rằng tình cha con có thể thúc đẩy người ta làm mọi việc cho hạnh phúc của con người. Khi đối mặt với cái chết, tình phụ tử vẫn luôn hiện diện và trỗi dậy. Điều đó giúp tôi nhận thức được giá trị của tình cha con, một tình cảm thiêng liêng và đáng trân trọng. Từ đó, tôi muốn lan tỏa thông điệp rằng chúng ta cần phải giữ gìn và quý trọng tình phụ tử, vì đó là một phần không thể thiếu của cuộc sống.
Bày tỏ cảm xúc về văn bản truyện đã học - mẫu 16
Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) là một nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam, được biết đến với tác phẩm Vũ trung tùy bút. Ông là một danh nhân của thời kỳ cuối của triều đại Lê - Trịnh và đầu thời kỳ nhà Nguyễn, được coi là một ví dụ điển hình cho phẩm chất của những kẻ sĩ Bắc Hà. Bút pháp của ông tinh tế, tài hoa, và phong cách thư nhàn cao nhã, đã ghi dấu ấn đậm nét trong văn học Việt Nam.
Tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ đã vẽ lên một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, sang trọng trong phủ chúa Trịnh, và được rút gọn trong truyện ngắn Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh. Với tình cảm và tài hoa của một kẻ sĩ Bắc Hà cuối thời Lê - Trịnh và thời kì đầu nhà Nguyễn, tác giả đã tùy bút một cách tinh tế và tùy hứng, lồng ghép các cảnh ăn chơi, bán hàng, tấu nhạc của cung đình tại chùa Trấn Quốc, cũng như sự nhũng nhiễu của hoạn quan khắp chốn dân gian. Chỉ cần đọc qua một lần, ta đã có thể nhớ mãi vẻ đẹp của tác phẩm này.
Chuyện cũ... xảy ra vào khoảng thời gian Giáp Ngọ - Ất Mùi (1774 - 1775), khi Đàng Ngoài đang "vô sự" và Thịnh Vương (Trịnh Sâm) đang ở đỉnh cao của sự thịnh vượng. Đại phi Đặng Thị Huệ được chúa sủng ái trở thành nguyên phi. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, thường đi chơi ngắm cảnh đẹp và ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Mỗi tháng ba bốn lần, chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ. Cảnh đón tiếp với các nghi thức tưng bừng độc đáo, có "binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ". Hội chợ cũng được tổ chức, quan nội thần cải trang "đều bịt khăn, mặc đồ đàn bà, bày bán hàng hóa chung quanh bờ hồ".
Thuyền ngự đi đến đâu, các quan liên tục ghé vào bờ để mua bán các thứ, trong khi đó các quan lại tùy ý hô tụng đại thần. Chuông chùa Trấn Quốc trở thành nơi biểu diễn nhạc của các nhạc công cung đình. Đình đài, cung điện được xây dựng "liên tục" để đáp ứng nhu cầu ăn chơi của vua chúa và các quan lại thời Lê - Trịnh. Số tiền, vàng bạc, châu báu, nước mắt mồ hôi của nhân dân đã bị bọn quan tham nhũng cướp đoạt một cách vô tội vạ. Phạm Đình Hổ đã được nghe và thấy Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, vì thế cách kể, cách miêu tả của ông rất sống động.
Nhằm được sống trong hoa lệ và tận hưởng sự giàu sang, các quan chúa trong triều đã trở thành những kẻ cướp bóc, đàn áp dân chúng khắp nơi. Chúa cũng thu thập những vật phẩm quý giá như trân cầm, động vật kỳ quái, cổ vật và các loại cây cảnh để trang trí cho phủ. Có những cây cảnh có cành lá rậm rạp như cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài hàng chục mét, phải dùng đến một nhóm người mới có thể kéo được từ bên bắc qua sông. Trong phủ chúa, khắp núi non và bờ sông đều được trang trí hoa mỹ. Vườn ngự uyển vào những đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn râm ran, nhưng cũng có những đêm tiếng ồn ào, như trận mưa lớn kèm theo gió mạnh, khiến tổ chim bị tan nát. Ngạc nhiên việc này, Lê Hữu Trác đã viết trong Thượng kinh kí sự.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.
Phạm Đình Hổ có ngại ngần: "Người trí thức biết rằng đó là dấu hiệu của sự sụp đổ". Cuộc sống xa hoa đó là nguyên nhân của việc ngai vàng đổ sập dần theo từng ngày. Năm 1782, khi Trịnh Sâm qua đời, loạn kiêu binh bùng nổ và Thăng Long bị phá hủy tan hoang. Vào năm 1786, Nguyễn Huệ lần đầu tiên dẫn quân ra Bắc Hà và cơ nghiệp của gia tộc Trịnh bị hủy hoại trong chốc lát! "Dấu hiệu sụp đổ" mà Phạm Đình Hổ nghĩ tới thật linh nghiệm. Cuộc đời luôn tuần hoàn và không thể tránh khỏi những biến cố cay đắng.
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh.
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca viện hát, tan tành còn đâu?
(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)
Trong phủ chúa, bọn hoạn quan thì vừa xảo quyệt vừa trắng trợn. Dân gian khinh bỉ chửi chúng là "cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan". Chúng tận dụng "gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm" để cướp chim tốt khiếu hay hay cây cảnh trong chậu. Chúng còn mưu đêm đến để sai lính lẻn vào "lấy phăng đi, rồi buộc tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền". Chúng ngang ngược "phá nhà phá tường" của dân để cướp được hòn đá hoặc cây cối gì. Với nhà giàu thì chúng lập mưu vu để hành hạ bằng cách "giấu vật cung phụng" hoặc bỏ ra kêu xin tiền. Nhiều gia đình phải "bỏ của ra kêu xin", phá bỏ núi non bộ hoặc cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Gia đình của tác giả là những quan lại, quý tộc thời Lê - Trịnh. Trong hoàn cảnh rối ren đó, mẹ của Phạm Đình Hổ, một bà cung nhân, đã phải giao việc cho người nhà chặt hai cây lê "cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng" và hai cây lựu trắng, lựu đỏ "lúc ra quả trông rất đẹp". Những chi tiết này cực kỳ sống động và thực tế.
Trong tác phẩm của mình, tác giả đã kể lại một sự kiện có thật trong gia đình ở phường Hà Khẩu, nhằm mục đích vừa gieo niềm tin cho độc giả về tương lai, vừa lên án thái độ tham lam và đáng ghét của các quan lại thời Lê - Trịnh, đồng thời vạch trần sự thối nát trong phủ chúa.
Cuốn tùy bút "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" của Phạm Đình Hổ là một tài liệu lịch sử quan trọng, nó khắc họa chân thực cảnh vật và nhân vật, cuộc sống xa hoa của nhà vua và quan lại, những hành động ăn cướp, làm giàu không đàng hoàng của bọn hoạn quan trong phủ chúa.
Phong cách viết của Phạm Đình Hổ rất đặc trưng với sự trầm tĩnh và sâu sắc. Các cảm xúc và ý nghĩ về cuộc sống của ông được truyền tải qua những chi tiết, tình tiết và mẩu chuyện cực kỳ sống động và chọn lọc, tạo nên một tác phẩm đậm đà và nhã thú.