Thuế máu – Nguyễn Ái Quốc - Ngữ văn lớp 8 - Nội dung, tác giả, tác phẩm

Tải xuống 2 1.5 K 4

Tài liệu nội dung chính bài Thuế máu Ngữ văn lớp 8 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.

Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp)

Thuế máu – Ngữ văn lớp 8 (ảnh 1)

Tìm hiểu chung về văn bản:

1. Đoạn trích Thuế máu

I – CHIẾN TRANH VÀ “NGƯỜI BẢN XỨ”

Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do”. Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lý và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kỳ diệu của trò biển diễn khoa học về phóng ngư lôi, đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái.

Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế.

Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”, nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy.

Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.

II – CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN

Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.

Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp, v.v...

Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu Á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản.

Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.

Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” – mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” – ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu Đ thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.

Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này phải chịu chết thôi nhưng không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.

Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi cơ hội để trốn thoát.

Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những người lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:

- “Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.

Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”? [...]

III – KẾT QUẢ CỦA SỰ HI SINH

Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Nê-gơ-rô” lẫn người “An-nam-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.

Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ, v.v... trước khi đưa họ đến Mác-xây xuống tàu về nước đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng một bài diễn văn yêu nước: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?

Thế là những “cựu binh” – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lý nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.

Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp bị mất một phần thân thể và vợ con của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài bán lẻ thuốc phiện.

Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc, mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho những người này khúc xương thối ấy là đủ để đền bù được một cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng.

Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi.

2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Ái Quốc (1890 - 1969) là tên gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ hoạt động trước cách mạng 1945.

- Nguyễn Ái Quốc có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Gia đình: Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - một nhà Nho yêu nước có tư tưởng tiến bộ có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Người. Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan.

- Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã sử dụng nhiều tên gọi khác nhau: Nguyễn Tất Thành, Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc... Tên “Nguyễn Ái Quốc” được sử dụng lần đầu tiên trong hoàn cảnh: Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt “Hội những người An Nam yêu nước”, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị hòa bình Versailles diễn ra tại Pháp, bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” - ký tên là Nguyễn Ái Quốc.

- Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, Người còn được biết đến với tư cách là một nhà văn nhà thơ lớn, được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

- Một số tác phẩm nổi bật:

  • Tuyên ngôn độc lập (1945, văn chính luận)
  • Bản án chế độ thực dân Pháp (1925, văn chính luận)
  • Đường Kách Mệnh (1927, tập hợp những bài giảng)
  • Con rồng tre (1922, kịch )
  • Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)
  • Các truyện ngắn: Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925)...
  • Nhật kí trong tù (thơ, 1942 - 1943)...

2. Tác phẩm

Xuất xứ

- Bản án chế độ thực dân Pháp (viết bằng tiếng Pháp) xuất bản lần đầu tại Pa-ri vào năm 1925, xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946.

- Tác phẩm bao gồm 12 chương và phần phụ lục Gửi thanh niên Việt Nam.

- Bản án chế độ thực dân Pháp đã tố cáo và kết án tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Đồng thời, tác phẩm cũng nói lên tình cảnh khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới, từ đó vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn để tự giải phóng dân tộc, giành độc lập.

- Đoạn trích “Thuế máu” thuộc chương 1 của Bản án chế độ thực dân Pháp.

3. Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (Mục 1 trong SGK): Chiến tranh và “người bản xứ”

- Phần 2 (Mục 2 trong SGK): Chế độ lính tình nguyện

- Phần 3 (Mục 3 trong SGK): Kết quả của sự hi sinh

4. Tóm tắt: Đoạn trích Thuế máu là lời tố cáo đanh thép nhất đối với chính quyền Pháp thuộc, là đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân. Tác phẩm là một bức tranh khốn cùng, tủi nhục của người dân nô lệ, không chỉ riêng ở nước ta mà còn ở các thuộc địa trên toàn thế giới. Tố cáo chế độ cai trị cũng có nghĩa là vạch ra con đường đấu tranh để giải phóng đất nước, giành quyền độc lập. Nguyễn Ái Quốc đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chỉ ra cho các dân tộc bị nô lệ trên khắp thế giới một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”

5. Phương thức biểu đạt: Nghị luận

6. Thể loại: Văn bản chính luận

7. Giá trị nội dung: Chính quyền thực dân đã biến người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần sự thực ấy bằng những tư liệu phong phú, xác thực, bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.

8. Giá trị nghệ thuật:

- Nghệ thuật đả kích, châm biếm sắc sảo, tài tình.

- Lựa chọn và xây dựng hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo.

- Giọng điệu trào phúng đặc sắc.

- Ngôn từ mang màu sắc châm biếm.

- Thủ pháp tương phản, đối lập. 

Sơ đồ tư duy Phân tích văn bản Thuế máu

Phân tích Thuế máu hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích văn bản Thuế máu

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Thuế máu” là văn bản nghị luận sắc bén, nổi tiếng của Nguyễn Ái Quốc với nghệ thuật trào phúng sắc sảo, vạch trần sự ác độc, thủ đoạn tàn bạo của thực dân Pháp với người dân thuộc địa trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 1.

II. Thân bài:

* Luận điểm 1: Chiến tranh và người bản xứ

- Giọng điệu của bọn thực dân

+ Trước chiến tranh thế giới lần 1, chúng cay nghiệt, khinh thường người dân thuộc địa bằng những cái tên “bọn da đen bẩn thỉu”, hay bọn “An-nam-mít”, bọn chỉ biết “kéo xe tay và ăn đòn”.

+ Sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân bất ngờ thay đổi chóng mặt, chúng gọi người dân thuộc địa là “con yêu”, là “bạn hiền”, ngợi ca và phong cho họ là những “chiến sĩ tự do bảo vệ công lí”.

+ Tại sao có sự thay đổi như vậy? Vì sau khi chiến tranh xảy ra, bọn thực dân muốn dùng dân thuộc địa để giúp chúng bành trướng và chết thay cho chúng

- Số phận của người dân thuộc địa

+ Trên chiến trường tàn khốc: họ buộc phải xa gia đình, xa quê hương, người phơi thây ngoài chiến trường, kẻ chết khi vượt biển, bỏ xác tại nơi hoang vu, bị tàn sát không thương tiếc…

+ Ở hậu phương, họ bị bọn thực dân bóc lột, vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng, bị nhiễm khí độc đến nỗi “khạc ra từng miếng phổi”.

⇒ Số phận thảm thương, bế tắc của những người dân thuộc địa.

* Luận điểm 2: Chế độ lính tình nguyện

- Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân rất vô lí để bắt ép người dân Đông Dương đi lính và vơ vét của cải của họ:

+ Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính

+ Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn không đi lính thì xì tiền ra.

+ Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối.

⇒ Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.

- Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.

-  Phản ứng của người dân

+ Tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân

+ Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét không từ thủ đoạn.

⇒ Họ không hề tình nguyện như lời phủ toàn quyền Đông Dương đã công bố trước toàn thế giới.

* Luận điểm 3: Kết quả của sự hi sinh

- Một loạt các câu nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi mà tác giả đang muốn khẳng định, vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp đối với những người dân Việt Nam

+ Chúng thẳng thừng tuyên bố: “Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.”

+ Chúng thậm chí còn ra sức vơ vét , gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người.

⇒ Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sự gian xảo, bỉ ổi của chúng.

* Luận điểm 4: Nghệ thuật

- Văn bản nghị luận với những luận điểm, luận cứ sắc sảo, chân thực, logic

- Sử dụng những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm

- Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm, khi chua xót uất hận.

III. Kết bài

- Văn bản “Thuế máu” nói riêng và “Bản án chế độ thực dân Pháp” nói chung chính là nhát dao sắc bén của Nguyễn Ái Quốc, đâm thẳng vào “tim đen” của bọn thực dân và sự đau khổ của người dân các nước thuộc địa.

Top 10 bài Phân tích Thuế máu hay nhất (ảnh 2)

Bài văn mẫu: Phân tích văn bản Thuế máu – mẫu 1

Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921-1925, đăng tải lần đầu tiên tại Paris trên Báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản.

Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục, với cách thành văn ngắn gọn, súc tích, cùng với những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải đóng “thuế máu” cho chính quốc… để “phơi thây trên chính trường Châu Âu”, đày đọa phụ nữ, trẻ em “thuộc địa”; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ, v.v… Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các dân tộc bị áp bức đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác-Lm ênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Năm 1946, ở Việt Nam, tác phẩm này đã được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Hà Nội. Năm 1960, Nhà xuất bản Sự Thật lần đầu tiên đã xuất bản bằng tiếng Việt. Đoạn trích Thuế máu Thuộc chương I Bản án chế độ thực dân Pháp. Ở chương này tác giả tập trung vạch trần bộ mặt kẻ thù, nói lên nỗi nhục khổ của những người dân bị áp bức, kêu gọi nhân dân thuộc địa đoàn kết đấu tranh.

Đoạn trích gây ấn tượng với người đọc ngay từ nhan đề của nó: Thuế máu. Trong thực tế không có thuế nào gọi là "thuế máu", chỉ có thuế thân, thuế gạo, thuế muối,… Thuế máu là cách đặt tên của tác giả nhằm phản ánh một thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn của chế độ thực dân, ở các nước thuộc địa: biến người dân nơi đây thành vật hi sinh trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Qua nhan đề này, nhà văn muốn phản ánh số phận bi thảm của người dân thuộc địa, đồng thời biểu lộ thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công, vô lí, song có lẽ một trong những thứ thuế tàn ác, dã man nhất là thứ thuế thu bằng xương máu và tính mạng của họ.

Trình tự và cách đặt tên các phần trong chương Thuế máu cũng hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp để bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chính quyền thực dân cai trị. Từ Chiến tranh và người bản xứ đến Chế độ lính tình nguyện rồi Kết quả của sự hi sinh, qua các phần tiếp nối nhau như thế, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước phơi bày bản chất "ăn thịt người" của bè lũ thực dân.

Phần một: Chiến tranh và người bản xứ. Ở phần này, tác giả nêu bật sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm: trước khi xảy ra chiến tranh và khi chiến tranh vừa bùng nổ. Trước chiến tranh, người dân thuộc địa bị bọn thực dân cai trị coi là giống người hạ đẳng, ngang hàng với súc vật: … họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, bọn thực dân cần lính, cần người tham gia chiến tranh thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do".

Tác giả đưa ra hai thái độ trái ngược hoàn toàn ấy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân trong việc biến dân thuộc địa thành vật hi sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay. Số phận của người dân bản xứ trong các cuộc chiến tranh được Nguyễn Ái Quốc khắc họa thật thê thảm: Họ phải xa lìa vợ con, xuống tận đáy biển bảo vệ Tổ quốc cho các loài thủy quái, bỏ xác tại miền hoang vu. Ra chiến trường là thế, còn ở hậu phương, người dân thuộc địa cũng không kém phần thê thảm. Hầu hết họ phải làm kiệt sức trong xưởng thuốc, hít phải những luồng khí độc, "khạc ra từng miếng phổi".

Và tác giả đã tổng kết lại về số phận của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa bằng một con số cụ thể: "Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa". Tác giả đã nêu ra một con số khủng khiếp về số người bản xứ đã bỏ mình trôn đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất: Tổng cộng cố bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa.

Phần hai: Chế độ lính tình nguyện.

Ở phần này, tác giả vạch trần các mánh khóe và thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân. Bọn chúng tiến hành những cuộc lùng ráp vây bắt, cưỡng bức người ta đi lính; lợi dụng chuyện bắt lính mà doạ nạt, xoay xở kiến tiền đối với những nhà giàu; sẵn sàng trói, xích, nhốt người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu như có chống đối. Trong khi thực hiện những hành vi bỉ ổi trên, chính quyền thực dân vẫn không quên rêu rao về lòng tự nguyện đầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bố trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn, họ đã tuyên bố rằng: "Các bạn ấy đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ". Có thật là người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu cho "nước mẹ Đại Pháp" như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền hay không? Tác giả kể rằng:

Không hề có sự tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác phẩm đã kể ra các sự thực: người dân thuộc địa hoặc trốn tránh hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi phải đi lính. Qua đây chúng ta thấy thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân Pháp thật bỉ ổi. Thực chất là dựng vũ lực bắt lính chứ không hề có “tình nguyện” nào cả. Bằng giọng điệu giễu cợt cùng những câu hỏi đanh thép, những dẫn chứng hùng hồn, tác giả đó vạch trần bản chất mánh khóe, vụ lợi, mị dân của thực dân Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã nhắc lại câu chuyện thực tế bằng giọng điệu giễu cợt các lời tuyên bố trịnh trọng của bọn thực dân cầm quyền rồi phản bác lại bằng những thực tế hùng hồn.Tiếng cười chua chát, tiếng cười nước mắt. Đằng sau là nỗi đau của tác giả. Không một lúc nào Người quên được nỗi đau của dân tộc mình, nhân dân mình dưới ách cai trị của bọn thực dân. Vậy thì, kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa cho các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy như thế nào? Bọn thực dân đã đối xử như thế nào đối với những người đã ra chiến trường thay họ? Đó chính là nội dung của phần ba của văn bản: Kết quả của sự hi sinh.

Kết quả sự hi sinh của người lính thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đối xử của chính quyền thực dân sau khi đã bóc lột xương máu họ đã được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh, chỉ tiết tiêu biểu có sức tố cáo rất lớn: Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyển nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê-gơ-rô" lẫn người "An nam-mít" mặc nhiên trở lại "giống người bẩn thỉu". Đối với người dân thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa và công lí. Cách đối xử của chính quyền thực dân với họ sau chiến tranh – sau khi đã bóc lột hết "thuế máu" thật tàn nhẫn, độc ác. Ở đây, nhà văn đã vạch trần được bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân cùng với bộ mặt trắng trợn khi tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mau sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đối với súc vật. Người dân thuộc địa lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bóc lột trắng trợn thuế máu.

Nhà văn đã sử dụng hàng loạt câu nghi vấn để lột trần được bộ mặt vô nhân đạo , tráo trở, tàn nhẫn và bản chất lừa dối, nham hiểm, độc ác, phi nhân tính của thực dân Pháp. Ba phần của chương Thuế máu được sắp xếp theo trình tự thời gian trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 – 1918. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột xương máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ các xứ thuộc địa cũng được phản ánh một cách chân thực và sinh động.

Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện chủ yếu qua hệ thống hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, những từ ngữ giàu khả năng gợi tả, gợi cảm và chất chứa sức mạnh tố cáo tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân. Ngôn ngữ tác phẩm mang màu sắc trào phúng rất rõ nét. Những từ mỉa mai như; "con yêu", "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do", "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế", "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế", "vật liệu biết nói…" vừa phơi bày bản chất dã man của chủ nghĩa thực dân, vừa tô đậm số phận bi thảm của người dân thuộc địa.

Tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông bằng cách nhắc lại những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để bóc trần bản chất lừa bịp vô liêm sỉ của chúng. Tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày sự thật trái ngược với lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế nên không thể chối cãi. Để tăng tính thuyết phục của lí lẽ, khi cần, tác giả còn dẫn ra ý kiến của người khác hay của chính đối tượng bị đả kích. Tác giả sử dụng có hiệu quả biện pháp nghệ thuật kể để nêu ra những câu chuyện, những bằng chứng rõ ràng. Các câu chuyện, các sự kiện, con số được nêu ra đều lấy từ thực tế sinh động nên không thể chối cãi. Để tăng tính xác thực, khi cần còn dẫn ra ý kiến của người khác hay lời lẽ của chính đối tượng đả kích.

Trong đoạn trích, yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ, hài hòa làm cho văn bản nghị luận này trở nên sinh động, hấp dẫn. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu chung của tác phẩm, người đọc nhận ra thái độ yêu ghét rõ ràng của tác giả: căm phẫn chính quyền thực dân tàn ác và xót xa thương cảm cho thân phận người dân nô lệ của các nước thuộc địa bị bóc lột đến cả xương máu, tính mạng.

Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ thái độ đê mạt, hèn hạ của đám quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm trước chiến tranh và sau chiến tranh xảy ra, đồng thời đồng cảm sâu sắc với số phận bi thảm của những người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa ấy.

Video Phân tích Thuế máu

Bài văn mẫu: Phân tích văn bản Thuế máu – mẫu 2

Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc là tác phẩm tố cáo chân thực nhất tội ác của thực dân Pháp, chúng dùng mọi thủ đoạn khốc liệt nhất để đày đọa, bóc lột. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục. Trong đó phải kể đến chương 1 “Thuế máu”,chương này tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa và thủ đoạn tàn bạo của thực dân pháp trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hy sinh trên chiến trường hay dùng xương máu của người để làm giàu cho mình .

Bằng những lý luận chặt chẽ, tư liệu phong phú xác thực và hình ảnh giàu giá trị biểu cảm Nguyễn Ái Quốc đã cho ta thấy được bộ mặt thật của thực dân Pháp. Giọng văn của bác vừa kết án đanh thép vừa mỉa mai chua xót, vừa thông cảm xót thương. Trước hết cái tên “thuế máu” đã mang nhiều ý nghĩa. Nó gợi lên số phận đau thương bi thảm của người dân thuộc địa đồng thời thể hiện thái độ căm phẫn trước tội ác ghê tởm của chính quyền thực dân. Những người dân thuộc địa họ phải chịu nộp những thứ thuế vô lý bất công song thứ thuế tàn nhẫn dã man nhất đó chính là thứ thuế được thu bằng xương máu của họ . Thứ thuế này thật quá đắt đỏ nó đã được đánh đổi bằng cả tính mạng của người dân thuộc địa, qua đây ta thấy được tâm địa độc ác tham lam của chính quyền thực dân.

Chương gồm 3 phần rất rõ ràng được với những cái tên nêu bật được nội dung trong đó :chiến tranh người bản xứ, chế độ lính tình nguyện và kết quả của sự hy sinh. Trình tự cũng như cái tên trong các phần của chương thuế máu cũng đã hàm ý bóc trần các chính sách lừa bịp bóc lột người dân thuộc địa đến tận xương tủy của chế độ thực dân. Những cái tên cứ nối tiếp nhau như vậy đã từng bước phơi bày bản chất “ăn thịt người” của bè lũ thực dân. Đầu tiên là phần một chiến tranh người bản xứ. Ngay từ khi mở đầu ta đã thấy được sự đối lập trong thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa qua 2 thời điểm là trước khi chiến tranh và chiến tranh vừa mới nổ ra. Lúc đầu họ chỉ được coi như giống người hạ đẳng ngang hàng với súc vật, không có tiếng nói “ họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “Anamit” bẩn thỉu, cùng lắm chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta”.

Người dân thuộc địa bị coi thường bị chúng chà đạp dày vò coi không ra gì. Ấy vậy mà khi chiến tranh vừa nổ ra chúng bắt đầu lật mặt thay đổi thái độ nhanh chóng bởi chúng cần người tham gia chiến tranh, nhưng thật ra là cần người làm lá chắn làm mồi nhử địch. Người dân thuộc địa từ những tên bẩn thỉu đen nhẻmđó bỗng chốc trở thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Họ bỗng chốc được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sỹ bảo vệ công lý tự do”. Chao ôi những từ như “ con yêu”, “bạn hiền”, hay cái danh hiệu nghe thật giả tạo và ghê tởm đồng thời thể hiện được sự tráo trở của bọn thực dân. Tác giả đưa ra sự đối nghịch như vậy nhằm tố cáo thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chúng trong việc dùng người dân thuộc địa làm vật hy sinh. Luận điệu bịp bợm trơ trẽn của chúng được Nguyễn Ái Quốc nhắc lại với dụng ý châm biếm và đả kích sâu cay.

Số phận bi thảm của người dân thuộc địa được diễn tả rất cụ thể qua những câu văn “họ phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hay đàn cừu của họ, vượt đại dương đi phơi thây trên chiến trường châu âu. Không chỉ chết trên chiến trường mà người dân thuộc địa bị lấy đi mạng sống ở chỗ khác như “ xuống đáy biển để bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái, bỏ xác tại miền hoang sơ thơ mộng vùng Ban-căng,….” Rất nhiều rất nhiều cái chết khác nhau. Vậy gia đình họ sẽ nhận được cái gì sau cái chết này. Có lẽ là không gì cả. Những người không phải đi ra trận, họ cũng bị hành hạ thừa sống thiếu chết (chế tạo vũ phí phục vụ chiến tranh): làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô sơ”, nhưng lại phải nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp. Họ phải hứng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn, vì những kẻ khốn khổ ấy khạc ra từng miếng phổi, chả khác gì hít phải hơi ngạt.

Khi tác giả tổng kết lại số người chết trên đất Pháp, con số lên tới tám vạn người. Những con người này họ không còn nhìn thấy ánh nắng trên quê hương mình nữa, họ chết một cách vô nghĩa chết vì sự đểu giả, tham lam của chính quyền thực dân. Tiếp theo phần 2 chế độ lính tình nguyện, phần này tác giả vạch trần các mánh khóe thủ đoạn của bọn thực dân. Có đúng không khi người dân thuộc địa nguyện hiến dâng xương máu của mình cho “nước mẹ Đại Pháp” như lời chính quyền nói không? Dĩ nhiên là không rồi, chúng ta phải chịu đủ thứ thuế vô lý như sưu sai tạp dịch rồi bị bắt mua rượu, mua thuốc phiện. Thật quá bất công, ấy vậy mà phải chịu thêm cái vạ mộ lính. Những biến cố trong mấy năm gần đây chính là cái cớ để bọn thực dân tiến hành cuộc lùng ráp nhân lực trên tòa cõi Đông Dương. Khi bị bắt về những người dân thuộc địa được đặt với nhiều cái tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,…

Bọn chúng thực chất coi họ là những thứ vật liệu biết nói, được xếp ngang hàng với đồ vật bị coi khinh trong khi phải bán xương máu mồ hôi mình cho bọn thực dân. Thông qua cách gọi của chúng ta đã biết được bộ mặt lừa bịp dối trá dã man của thực dân pháp. Chúng biến một con người thành một công cụ để phục vụ cho chúng, để mặc sức hành hạ bóc lột. Giá trị con người bị hạ thấp vậy mà chúng tự vẽ nên cho mình bộ mặt thánh thiện giả tạo rằng những việc làm này là phục vụ cho nước pháp kính và họ sẵn sàng tự nguyện hiến dâng. Vâng hẳn là hiến dâng, hiến dâng kiểu gì mà ta thấy được cảnh chúng tóm những người khỏe mạnh nghèo khổ(chỉ biết chịu đựng thôi không kêu cứu vào đâu được) trước sau đó thì đến những người giàu (được chọn 2 con đường: xì tiền và đi lính tình nguyện).

Đây là hình ảnh mà chúng gọi là tình nguyện hiến dâng, cảnh bắt trói nhốt người ta như súc vật, và đàn áp dã man nếu chúng đối. Ấy thế mà chúng dám trịnh trọng tuyên bố rằng “ các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến của mình để người thì đi hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến cánh tay lao động như lính thợ”. Bằng những câu hỏi tu từ tác giả đã mỉa mai chua chát luận điệu dối trá ấy: “ nếu quả thật người dân An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay rượu về tỉnh, tốp thì trước khi xuống tàu bị nhốt trong trường học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn ? Những cuộc biểu tình ở Cao Miên, những cuộc bạo động ở Sài gòn, ở Biên Hòa và nhiều nơi khác nữa, phải chăng đây là biểu hiện của lòng “tấp nập đầu quân” và “không ngần ngại”. Những hình ảnh trên đã quá đối lập với câu nói của bọn thực dân, qua đây nó đã tố cáo sự lừa bịp đểu giả của chúng.

Cuối cùng phần 3 kết quả của sự hy sinh. Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các nhà cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người Nê – gơ rô và người An nam mít mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu. Thế mà trước lúc đó họ còn được đặt danh hiệu là “chiến sỹ tối cao bảo vệ công lý”, vậy mà giờ đây sau khi đã bị bóc lột lợi dụng xong, những người này bị phủi tay vất đi như một thứ công cụ hết hạn sử dụng. Không những thế để ghi nhớ công lao của người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết của cải của họ từ chiếc đồng hồ, bô quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua đến cái kỉ vật đủ thứ, … trước khi lên tàu về nước hay sao, ……..

Rất nhiều những hành động bỉ ổi và lật mặt của chúng. Khi về nước họ lại trở lại những thân phận cũ của mình là những tên bẩn thỉu trong khi trước đó họ được coi như những người “bạn hiền”, “con yêu”. Bộ mặt tráo trở của chính quyền đươc bộc lộ qua các hành động như tước đoạt hết các đồ vật mà người dân thuộc địa mua được, đánh dập ho vô cớ, đối xử với họ như súc vật. Ba phần của chương máu đươc sắp xếp theo trình tự thời gian một cách hợp lý (trước, trong và sau chiến tranh thế giới lần 1 ). Thông qua cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa và bộ mặt độc ác của chính quyền thực dân được bộc lộ một cách rõ ràng và triệt để.

Măt khác số phận đáng thương của người dân các xứ thuộc địa được phản ánh một cách sinh động và chân thực nhất. Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thông qua những hình ảnh chân thực tiêu biểu, những từ ngữ giàu chất gợi tả gợi cảm và chất chứa sức tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật gậy ông đập lưng ông khi nhắc lợi những mĩ từ, danh hiệu hào nhoáng hoa mỹ mà chính quyền thực dân khoác lên người dân thuộc địa để vạch trần bản chất dối trá vô nhân đạo của chúng. Thêm vào đó tác giả dùng liên tiếp các câu hỏi tu từ để phơi bày bộ mặt giả tạo của chúng, Rồi các hình ảnh con số bằng chứng chân thực khiến chúng không thể chối cãi được. Thông qua hệ thống hình ảnh và giọng điệu của Nguyễn Ái Quốc ta có thể thấy được thái độ căm phẫn trước tội ác của chính quyền thực dân và sự xót thương trước nỗi đau của người dân thuộc địa.

Đoạn trích Thuế máu đã cho ta thấy được bản chất thật sự của chính quyền thực dân, nỗi khổ cực của nhân dân. Đồng thời thấy được tình yêu thương vô bờ bến của bác đối với nhân dân ta nói riêng và người dân thuộc địa nói chung. Bác chính là cây bút văn chính luận xuất sắc của nước ta. Bằng những lý lẽ sắc đáng bằng chứng chân thực bác đã khắc họa nên nỗi uất ức mà dân thuộc địa phải chịu đựng.

Video tóm tắt kiến thức bài Thuế máu

Tài liệu có 2 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống