Sơ đồ tư duy bài Đánh nhau với cối xay gió (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 8

Tải xuống 8 2.5 K 4

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 tài liệu sơ đồ tư duy bài Đánh nhau với cối xay gió hay nhất, gồm 8 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Đánh nhau với cối xay gió Ngữ văn lớp 8.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Đánh nhau với cối xay gió dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 8:

Đánh nhau với cối xay gió

Bài giảng: Đánh nhau với cối xay gió

A. Sơ đồ tư duy bài Đánh nhau với cối xay gió

Sơ đồ tư duy bài Đánh nhau với cối xay gió

B. Tìm hiểu bài Đánh nhau với cối xay gió

I. Tác giả:

- Xéc- van- tét (1547- 1616) tên đầy đủ là Miguel de Cervantes Saavedra.

- Quê quán: là nhà văn người Tây Ban Nha.

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Ông được sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ và sa sút.

+ Khi 22 tuổi, ông đến Ý, đúng vào thời kỳ Phục Hưng và làm người hầu cho một Hồng y giáo chủ- đây là một cơ hội để ông có thể đọc sách và học tập.

+ Ông bị bắt giam ở An- giê từ năm 1575 đến năm 1580 và sống nghèo túng.

II. Tác phẩm

1. Thể loại: 

Tiểu thuyết.

2. Xuất xứ.

Tác phẩmĐánh nhau với cối xay gió thuộc chương VIII, trích trong tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê.

3. Bố cục:

- Bố cục: 3 phần

- Phần 1: (từ đầu đến “bọn khổng lồ”): Thấy và nhận định về những chhiếc cối xay gió

- Phần 2: Tiếp đến “con Rô-xi-nan-tê cũng bị toạc nửa vai”: Thái độ và hành động của mỗi người.

- Phần 3: Còn lại: Quan niệm và cách sử sự của mỗi người khi bị đau đớn, chung quanh chuyện ăn; chuyện ngủ

4. Tóm tắt

Đôn-ki-hô-tê là một lão quý tộc nghèo vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ, cùng đi với lão là giám mã Xan-chô-pan-xa. Một lần, hai thầy trò đi trên một cánh đồng. Đôn-ki-hô-tê nhìn thấy ba bốn chục chiếc cối xay gió lại tưởng là ba bốn chục tên khổng lồ. Lão thúc ngựa Rô-xi-nan-tê xông lên chẳng thèm để ý đến giám mã Xan-chô-pan-xa đang hét bảo lão đừng xông vào đánh nhau với cối xay gió. Gió thổi mạnh làm cánh quạt quay kéo theo ngựa và người lão văng ra xa. Xan-chô-pan-xa thúc lừa đến đỡ Đôn-ki-hô-tê. Tuy vậy, dù đau đến cỡ nào nhưng lão cũng không rên rỉ, không ăn uống gì và đêm đến thì thức trắng vì nghĩ đến tình nương. Còn Xan-cho-pan-xa hơi đau một tí là rên rỉ, ăn ngon lành vừa đi vừa chè chén, đêm đến, bác lăn ra ngủ một mạch đến sáng.

5. Giá trị nội dung:

- Qua văn bản tác giả chế giễu tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phong kiến lỗi thời, qua tính cách của hai nhân vật bộc lộ khi đối mặt với cối xay gió. Sự tương phản giữa Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan- xa đã tạo nên một cặp nhân vật bất hủ.Qua đó tác giả còn muốn báo trước sự xuất hiện của thời đại phục hưng với những con người mới, những tính cách mới nghị lực mới và sáng ngời chủ nghĩa nhân văn.

6. Gía trị nghệ thuật

- Thành công khi xây dựng được cặp nhân vật tương phản.

- Có giọng điệu hài hước, phê phán.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Hiệp sĩ Đôn-ki-hô-tê 

a. Nguồn gốc xuất thân và ngoại hình:

- Đôn Ki-hô-tê là một lão quý tộc nghèo vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ.

- Ngoại hình: gầy gò, cao lênh khênh, cưỡi trên lưng 1 con ngựa còm Rô-xi-nan-tê.

b. Phẩm chất, tính cách

* Lòng dũng cảm của một hiệp sĩ giang hồ trừ gian diệt ác, cứu người lương thiện

- Khi gặp những chiếc cối xay gió, Đôn Ki-hô-tê đã mường tưởng chúng thành những kẻ khổng lồ xấu xa. Vì vậy ông đã quyết tâm một mình lao vào “giao chiến giết hết bọn chúng”  “quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất”.

- Trên con đường phiêu lưu của mình, Đôn Ki-hô-tê luôn chọn những con đường có nhiều nguy hiểm bơi lẽ trên những con đường ấy mới có thể “gặp nhiều chuyện phiêu lưu khác nhau”.

- Sau khi thất bại ở cuộc chiến với cối xay gió, Đôn Ki-hô-tê dùng luôn 1 cành cây khô gắn cái mũi sắt để làm thành ngọn giáo, sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo.

⇒ Lòng dũng cảm, sẵn sàng đương đầu với khó khăn dù những điều đó chỉ là Đôn Ki-hô-tê tự tưởng tượng mà ra.

* Coi khinh những điều tầm thường, thực dụng của con người.

- Dù bị thương sau trận chiến, Đôn Ki-hô-tê vẫn không kêu than, rên rỉ bơi theo ông, hiệp sĩ giang hồ sẽ chẳng hề gì mấy vết thương đau đớn thể xác, dù “xổ cả gan ruột ra ngoài”. Đây có lẽ là điều ông đã học tập được từ các hiệp sĩ giang hồ trong những truyện phiêu lưu ông đã đọc.

- Đặc biệt, Đôn Ki-hô-tê không lấy việc ăn uống, rượu chè làm thích thú. Bởi đó chỉ là những nhu cầu của những con người tầm thường, thực dụng.

⇒ Đôn Ki-hô-tê coi thường những nhu cầu tầm thường của con người.

* Tình yêu say đắm và tấm lòng thủy chung.

- Đôn Ki-hô-tê say đắm một phụ nữ nông dân, thậm chí còn ban cho chị ta cái tên công nương Đuyn-xi-nê-a.

- Trong trận chiến với cối xay gió, Đôn Ki-hô-tê vẫn nghĩ đến người phụ nữ trong lòng ông và cầu mong nàng cứu giúp cho ông khỏi hiểm nguy. Dù trong lúc nguy nan nhất, Đôn Ki-hô-tê vẫn nghĩ đến người yêu và lấy đó làm động lực để chiến đấu mạnh mẽ hơn.

- Suốt đêm không ngủ để nghĩ tới nàng Đuyn-xi-nê-a của lão.

- Không cần ăn uống vì chỉ nghĩ đến người yêu cũng thấy no.

⇒ Mặc dù chỉ là do lão tự tưởng tượng theo truyện hiệp sĩ nhưng cũng có thể thấy, Đôn Ki-hô-tê là một người yêu say đắm, chung thủy.

c, Trong trận chiến:

- Đôn Ki-hô-tê hoang tưởng cho rằng cối xay gió, là kẻ thù, là những kẻ khổng lồ cần tiêu diệt.

- Không nghe lời can gián giải thích của Xan-chô mà cứ thế xông vào cối xay gió, vừa phát ra những lời đe dọa như một hiệp sĩ => Bảo thủ đến cùng cực.

=> Dù mắc chứng hoang tưởng nặng nhưng ta cũng nhận thấy được tinh thần thiện chiến, dũng cảm, lòng tự tin của Đôn Ki-hô-tê, chắc hẳn rằng ông ta đã có một ước mơ thật đẹp về việc thực thi công bằng.

d. Sau khi thua trận:

- Đôn Ki-hô-tê đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng đau đớn: "ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả ngựa và người văng ra xa". => Đôn Ki-hô-tê cũng thật đáng thương, tội nghiệp.

- Cú ngã trời giáng khiến ông ta không thể nào động đậy được, thế nhưng nghe Xan-chô Pan-xa xót xa, trách cứ, ông ta lại lập tức phản biện bằng lý lẽ của một hiệp sĩ rằng "chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường chứ không như những chuyện khác".

=> Điều đó minh chứng rằng Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa hề tỉnh ngộ, vẫn đang chìm trong ảo tưởng và lối suy nghĩ kỳ dị của mình, không lối thoát.

=> Đôn Ki-hô-tê là người có suy nghĩ hoang tưởng, hoang đường, dẫn tới những hành động điên rồ, ngược lại bác nông dân Xan-chô Pan-xa lại là người có nhận thức thực tế và tỉnh táo.

 e. Trên đường tiếp tục cuộc phiêu lưu:

- Những sự kiện nhỏ diễn ra trong đời sống hằng ngày lại càng làm ta nhận thức rõ tính cách của từng nhân vật, cũng như sự đối lập của cả hai.

- Đôn Ki-hô-tê thì có lý tưởng có khát vọng, luôn trên đường thực hiện hoài bão, ông dũng cảm, hão huyền, còn Xan-chô ngược lại thích cuộc sống yên ả, đời thường, nhát gan nhưng lại được cái thực tế.

2. Giám mã Xan-chô-pan-xa

- Xuất thân: Có xuất thân là nông dân.

- Hình dáng: Người béo lùn, cưỡi con lừa thấp và lùn.

- Mục đích: Nhận làm giám mã vì hi vọng được làm đốc cai trị vài hòn đảo.

- Việc làm:

   + Luôn mang theo bầu rượu và túi có hai ngăn đựng đầy thức ăn.

⇒ Là người nông dân thích danh vọng hão huyền.

   + Xan- chô-pan-xa đã can ngăn Đôn-ki-hô-tê khi có ý định đánh nhau với cối xay gió.

- Tính cách:

   + Hơi đau là rên rỉ.

   + Vô cùng quan tâm đến những nhu cầu vật chất hằng ngày như ăn, ngủ.

   + Tính tốt: luôn tỉnh táo và thực tế.

   + Tính xấu: sợ hãi, hèn nhát và thực dụng.

IV. Bài phân tích.

      Xéc-van-tét là một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng lớn nhất với nền văn học Tây Ban Nha. Một trong những tác phẩm nổi tiếng và làm nên tên tuổi của nhà văn ấy là cuốn tiểu thuyết có nhan đề Đôn ki-hô-tê. Tuy đã ra đời từ rất lâu, thế nhưng những giá trị mà nó để lại còn lưu giữ đến tận bây giờ, được nhiều độc giả yêu thích. Một trong những cảnh ấn tượng và đáng nhớ nhất của tác phẩm phải kẻ đến cảnh Đôn-ki-hô-tê, đồng thời là nhân vật chính của tiểu thuyết, đánh nhau với cối xay gió.

   Thoạt tiên khi nhìn thấy ba bốn chục chiếc cối xay gió, thì lập tức Đôn Ki-hô-tê cho rằng "có đến ba bốn chục tên khổng lồ ghê gớm" và ông ta định quyết chiến với những "tên khổng lồ" ấy để giành chiến lợi phẩm và trở nên giàu có. Đôn-ki-hô-tê còn tưởng tượng ra rằng những cánh quạt của cối xay gió là những "cánh tay dài ngoẵng". Trong tâm trí người "hiệp sĩ" ấy, những chiếc cối xay gió là kẻ thù của mình.

   Nghĩ vậy, Đôn-ki-hô-tê lập tức lên tinh thần của một chiến binh dũng cảm thúc ngựa phi vào những cối xay gió, không quan tâm đến những lời can ngăn của Xan-chô Pan-xa. Mặc dù những lời can gián, nhận thức thực tế của Xan-chô Pan-xa rất chí lý, nhưng trong mắt của Đôn Ki-hô-tê thì đó lại là những lời thiển cận của kẻ bề dưới, ông ta cho rằng: "Xem ra anh chẳng thành thạo gì về chuyện phiêu lưu". Như vậy có thể thấy được ở nhân vật này một tính cách bảo thủ đến cực đoan, lại thêm việc ông ta mê muội những cuốn tiểu thuyết hão huyền, khiến cuộc sống của mình trở nên hoang đường và nực cười.

   Quay trở lại với trận chiến, Đôn Ki-hô-tê đã có những lời nói đe dọa: "Chớ có chạy trốn, lũ hèn mạt nhát gan kia, bởi duy nhất chỉ có một hiệp sĩ tấn công bọn mi đây", tuy ngữ khí chắc chắn, rõ ràng mạch lạc, rất có khí chất của một hiệp sĩ, thế nhưng buồn cười ở chỗ Đôn Ki-hô-tê lại đang hoàn toàn chìm trong mộng tưởng và ảo giác do mình nghĩ ra, không phân biệt được đâu là thật đâu là giả. Thậm chí trong lúc chuẩn bị vào cuộc chiến ông ta lại bắt đầu nhớ về nàng thơ trong mộng của mình là nàng Đuyn-xi-nê-a, không khác gì những hiệp sĩ trong các cuốn tiểu thuyết, phải nói rằng Đôn Ki-hô-tê đã có một ảo tưởng rất thực và ông ta cũng đã diễn rất đạt vai của mình.

    Dù mắc chứng hoang tưởng nặng nhưng ta cũng nhận thấy được tinh thần thiện chiến, dũng cảm, lòng tự tin của Đôn Ki-hô-tê, chắc hẳn rằng ông ta đã có một ước mơ thật đẹp về việc thực thi công bằng, chính nghĩa như những hiệp sĩ nhưng đáng tiếc rằng đó mãi chỉ là mộng tưởng của ông ta.Và dĩ nhiên, ảo tưởng mãi không thể trở thành hiện thực, Đôn Ki-hô-tê cũng chẳng trở thành hiện thực với cái trò điên rồ của mình được, mà ngược lại ông ta đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng đau đớn: "ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả ngựa và người văng ra xa". Đọc đến đây ta thấy rằng dẫu có làm nên hành động điên rồ, nhưng Đôn Ki-hô-tê cũng thật đáng thương, đáng thương bởi ước mơ chinh chiến, phải chịu đòn đau nhưng vẫn huyễn hoặc bản thân mình đến phút chót. Cú ngã trời giáng khiến ông ta không thể nào động đậy được, thế nhưng nghe Xan-chô Pan-xa xót xa, trách cứ, ông ta lại lập tức phản biện bằng lý lẽ của một hiệp sĩ rằng "chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường chứ không như những chuyện khác". Điều đó minh chứng rằng Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa hề tỉnh ngộ, vẫn đang chìm trong ảo tưởng và lối suy nghĩ kỳ dị của mình, không lối thoát. Qua sự việc trên có thể nhận ra rằng Đôn Ki-hô-tê là người có suy nghĩ hoang tưởng, hoang đường, dẫn tới những hành động điên rồ, ngược lại bác nông dân Xan-chô Pan-xa lại là người có nhận thức thực tế và tỉnh táo.

    Sau trận chiến, hai nhân vật lại tiếp tục trên con đường phiêu lưu, những sự kiện nhỏ diễn ra trong đời sống hằng ngày lại càng làm ta nhận thức rõ tính cách của từng nhân vật, cũng như sự đối lập của cả hai. Ví như Đôn Ki-hô-tê không màng đến chuyện ăn uống, chè chén tầm thường, thì Xan-chô Pan-xa lại hay nghĩ về chuyện ăn uống, trong khi bác nông dân say giấc nồng, thì Đôn Ki-hô-tê lại thức trắng để nhờ về tình nương và suy nghĩ viển vông, đúng chất của một hiệp sĩ, một lãng tử. Sâu xa hơn, ta cũng biết được rằng sự đối lập ấy sở dĩ xuất phát từ xuất thân, một người là quý tộc, một người là nông dân, cuộc sống khác nhau dẫn tới những quan niệm sống cũng khác hẳn. Đôn Ki-hô-tê thì có lý tưởng có khát vọng, luôn trên đường thực hiện hoài bão, ông dũng cảm, hão huyền, còn Xan-chô ngược lại thích cuộc sống yên ả, đời thường, nhát gan nhưng lại được cái thực tế.

     Hai nhân vật trong câu chuyện được dựng lên từ những hình tượng hoàn toàn đối lập, tấn công lẫn nhau, Đôn Ki-hô-tê tuy ảo tưởng và điên rồ nhưng lại có những phẩm chất đáng quý, còn Xan-chô tuy tỉnh táo, tốt bụng nhưng lại hướng về những thứ tầm thường, không có hoài bão ước mơ. Đó chính là những mặt tích cực và tiêu cực trong mỗi con người, chúng đã được Xéc-van-tét chia đôi thành hai nhân vật thật thú vị, dễ khiến người đọc liên tưởng và ghi nhớ, đồng thời cũng học được nhiều bài học trong cuộc sống thực tế.

Sơ đồ tư duy Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió

Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió

I. Mở Bài

- Một trong những tác phẩm nổi tiếng và làm nên tên tuổi của Xéc-van-tét là tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê, tuy đã ra đời từ rất lâu, thế nhưng những giá trị mà nó để lại còn lưu giữ đến tận bây giờ, được nhiều độc giả yêu thích.

- Một trong những cảnh ấn tượng và đáng nhớ nhất của tác phẩm phải kẻ đến cảnh Đôn-ki-hô-tê, đồng thời là nhân vật chính của tiểu thuyết, đánh nhau với cối xay gió.

II. Thân Bài

* Trong trận chiến:

- Đôn Ki-hô-tê hoang tưởng cho rằng cối xay gió, là kẻ thù, là những kẻ khổng lồ cần tiêu diệt.

- Không nghe lời can gián giải thích của Xan-chô mà cứ thế xông vào cối xay gió, vừa phát ra những lời đe dọa như một hiệp sĩ => Bảo thủ đến cùng cực.
 => Dù mắc chứng hoang tưởng nặng nhưng ta cũng nhận thấy được tinh thần thiện chiến, dũng cảm, lòng tự tin của Đôn Ki-hô-tê, chắc hẳn rằng ông ta đã có một ước mơ thật đẹp về việc thực thi công bằng.

* Sau khi thua trận:

- Đôn Ki-hô-tê đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng đau đớn: "ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả ngựa và người văng ra xa". => Đôn Ki-hô-tê cũng thật đáng thương, tội nghiệp.

- Cú ngã trời giáng khiến ông ta không thể nào động đậy được, thế nhưng nghe Xan-chô Pan-xa xót xa, trách cứ, ông ta lại lập tức phản biện bằng lý lẽ của một hiệp sĩ rằng "chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường chứ không như những chuyện khác".

=> Điều đó minh chứng rằng Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa hề tỉnh ngộ, vẫn đang chìm trong ảo tưởng và lối suy nghĩ kỳ dị của mình, không lối thoát.

=> Đôn Ki-hô-tê là người có suy nghĩ hoang tưởng, hoang đường, dẫn tới những hành động điên rồ, ngược lại bác nông dân Xan-chô Pan-xa lại là người có nhận thức thực tế và tỉnh táo.

* Trên đường tiếp tục cuộc phiêu lưu:

- Những sự kiện nhỏ diễn ra trong đời sống hằng ngày lại càng làm ta nhận thức rõ tính cách của từng nhân vật, cũng như sự đối lập của cả hai.

- Đôn Ki-hô-tê thì có lý tưởng có khát vọng, luôn trên đường thực hiện hoài bão, ông dũng cảm, hão huyền, còn Xan-chô ngược lại thích cuộc sống yên ả, đời thường, nhát gan nhưng lại được cái thực tế.

* Nghệ thuật: 

- Sử dụng phép tương phản đối lập trong cách xây dựng nhân vật.

- Có giọng điệu hài hước, phê phán.

III. Kết Bài

- Hai nhân vật trong câu chuyện được dựng lên từ những hình tượng hoàn toàn đối lập, Đôn Ki-hô-tê tuy ảo tưởng và điên rồ nhưng lại có những phẩm chất đáng quý, còn Xan-chô tuy tỉnh táo, tốt bụng nhưng lại hướng về những thứ tầm thường, không có hoài bão ước mơ.

→ Đó chính là những mặt tích cực và tiêu cực trong mỗi con người, chúng đã được Xéc-van-tét chia đôi thành hai nhân vật thật thú vị, dễ khiến người đọc liên tưởng và ghi nhớ, đồng thời cũng học được nhiều bài học trong cuộc sống thực tế.

Top 16 bài Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió hay nhất (ảnh 1)

Bài văn mẫu: Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió – mẫu 1

Ngược dòng lịch sử, chúng ta hãy cùng nhà văn Xéc-van-téc đến với đất nước Tây Ban Nha cách đây khoảng hơn ba trăm năm (Thế kỷ XVI-XVII) để chiếm ngưỡng người anh hùng hào hiệp của xứ Man-tra Đôn Ki-hô-tê và giám mã Xan-chô Pan-xa trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm của họ. Đó là việc Đôn Ki-hô- tê đánh nhau với những chiếc cối xay gió, một trận đánh kỳ quặc. Với tài năng của mình Xéc-van-téc đã thành công trong việc khắc họa tính cách của hai nhân vật qua trận đánh.

Qua đoạn trích, ta thấy rõ tài nghệ của Xéc-van-téc trong việc xây dựng cặp nhân vật bất hủ Đôn Ki-hô-tê, Xan-chô Pan-xa tương phản về mọi mặt. Bức chân dung của hai nhân vật hiện lên mỗi lúc một rõ nét, rất cụ thể, sinh động, từ ngoại hình, trí tuệ, ước muốn đến đến hành động và quan niệm cuộc sống.

Đôn Ki-hô-tê là nhân vật chính, lão tự phong cho mình là hiệp sĩ, chàng hiệp sĩ tuổi trạc năm mươi, gầy gò, cao lênh khênh. Cưỡi trên lưng con ngựa còm có cái tên mĩ miều chiến mã Rô-xi-nan-tê, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ sắt, vai vác giáo dài, toàn những thứ han rỉ của tổ tiên để lại, rồi đem đánh bóng... Đôn Ki-hô-tê hiên ngang tiến bước với mục đích tốt đẹp là tiễu trừ quân gian ác, giúp đỡ người lương thiện. Trí óc của hiệp sĩ đầy hoang tưởng, có lúc mê muội. Nhìn thấy những chiếc cối xay gió, lão nghĩ là bọn gian ác khổng lồ đã lao vào để giao đấu, sau khi bị thất bại, lão cho rằng đấy là pháp thuật của pháp sư Phơ-re-xtôn đã thâm thù lão, và tước lấy phần vinh quang chiến thắng của Đôn Ki-hô-tê. Với động cơ trong sáng, hồn nhiên- tiêu diệt lũ tàn ác, trừ hại cho dân – Đôn Ki-hô-tê đã dũng cảm xông vào đánh những tên khổng lồ (thực ra là những chiếc cối xay gió), mặc dù lão biết đây là cuộc giao tranh điên cuồng và không cân sức.

Đơn thương độc mã, hiệp sĩ bỏ mặc lời can ngăn của Xan-chô, phóng ngựa, vừa quát mắng lũ quỷ khổng lồ, và tâm niệm nguyện cầu người tình lý tưởng- Nàng Đuyn-xi- nê-a xinh đẹp giúp mình trong lúc nguy nan. Trong giây phút tấn công kẻ thù, hình ảnh chàng hiệp sĩ sáng chói lên như một anh hùng, rất đáng kính phục. Nhưng suy nghĩ tỉnh táo một chút, người đọc lại bật cười.

Bởi vì mục đích và hành động của Đôn Ki-hô-tê là đúng đắn, cao cả tốt đẹp, còn đối tượng hướng tới của chàng lại không phải lũ quỷ khổng lồ gian ác mà chỉ là những chiếc cối xay gió hiền lành vô tội. Đầu óc chàng đầy những hoang tưởng. Cho nên cái động cơ tốt đẹp, cái hành động dũng cảm của chàng đã trở thành hão huyền, mang tính phá phách. Bản thân hiệp sĩ thì thất bại đau đớn, ngọn giáo gãy tan tành, ngựa và người ngã văng ra. Nhìn thấy hình ảnh Đôn Ki- hô-tê nằm không cựa quậy, bác giám mã sợ quá, đã phải lạy chúa trên trời. Đọc đến chi tiết này, chúng ta vừa thương vừa... không nén được tiếng cười. Song, xin bạn đọc chớ đùa cợt.

Trong thời khắc nguy nan sau cuộc chiến đấu, thầy trò chàng hiệp sĩ đã tranh cãi một cách rất nghiêm chỉnh. Nghe Xan-chô có ý phê bình mình là đầu óc quay cuồng như cối xay gió, hiệp sĩ mắng lại: Thôi im đi!... Chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường... ta cho rằng, và đúng là như thế, chính lão pháp sư... biến những tên khổng lồ kia thành cối xay gió để tước đi của ta niềm vinh quang đánh bại chúng... nhưng rồi... lão sẽ không thể nào đối chọi được thanh kiếm lợi hại của ta. Ý nghĩ và những lập luận của hiệp sĩ kể ra cũng sáng suốt và chặt chẽ đấy chứ?

Bị quật ngã đau đớn lịm người như thế mà không một tiếng rên rỉ, xuýt xoa, trái lại vẫn cháy bỏng một niềm tin mãnh liệt, một quyết tâm hành động vì nghĩa lớn. Một bản lĩnh làm người như thế đáng khâm phục biết bao! Chỉ có điều cái bản lĩnh làm người ấy lại không bắt nguồn từ thực tế cuộc sống mà nó từ trong cuốn sách kiếm hiệp cổ xưa mà lão đã ngốn ngấu đọc rồi làm theo. Do vậy sau trận chiến thất bại ê chề, Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa tỉnh táo để rút ra bài học. Trái lại, lão vẫn tiếp tục cuộc phiêu lưu, tiếp tục những suy nghĩ lãng mạn, hoang tưởng.

Video Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió

Bài văn mẫu: Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió – mẫu 2

Đánh nhau với cối xay gió là một chiến công đặc biệt của hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê tài ba xứ Man-tra. Hiệp sĩ này là nhân vật chính do nhà văn Tây Ban Nha Xéc-van-tex sáng tạo ra trong cuốn tiểu thuyết cùng tên.

Ở đây những tên khổng lồ xuất hiện trên con đường thực hiện công lí của nhà hiệp sĩ là những cối xay gió, tới “ba bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng”, chúng dường như hiện ra đột ngột, bất ngờ và nhanh chóng tạo ra một hoang tưởng trong đầu óc của nhà hiệp sĩ cao lênh khênh mà lại gầy còm một cách thảm hại đang ngất nghểu trên lưng con chiến mã Rôxinantê cũng gầy còm tới mức chỉ còn da bọc xương. Luôn luôn mơ ước lập được các chiến công như các hiệp sĩ thời xưa cho nên Đôn Ki-hô-tê thấy rằng đây là một dịp tốt.

Ở đây có một điểm tương đồng: Đôn Ki-hô-tê nhìn những chiếc cánh quạt như là những cánh tay, còn Xan-chô cũng cho là “giống cánh tay”. Nhưng sự tương đồng này sẽ bị khúc xạ bởi hai đầu óc khác nhau: một thì hoang tưởng, một thì tỉnh táo, để rồi làm bật ra một tiếng cười hóm hỉnh nhẹ nhàng. Nhà hiệp sĩ thấy rằng cần phải chứng minh cho người giám mà không hiểu biết gì về những chuyện phiêu lưu bằng một sự khẳng định chắc chắn: “Quả là anh chẳng hiểu gì những chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Đó chính là những tên khổng lồ. Nếu anh sợ thì mau mau lánh ra xa mà cầu kinh trong lúc ta đương đầu với chúng trong một cuộc giao tranh gay go và chênh lệch”. Sự “chênh lệch” thì đã quá rõ, còn “phiêu lưu” thì cũng dễ nhận ra, “gay go” thì khỏi phải nói. Trước hết Đôn Ki-hô-tê chủ động chấp nhận trận đấu không cân sức bằng cách “thúc con Rôxinantế xông lên”, “chẳng thèm để ý” đến mọi lời khuyên can. Giữa cái bối cảnh hùng vĩ và nên thơ ấy và trước những đối thủ câm lặng, nhà hiệp sĩ tài ba đưa ra lời tuyên chiến của mình bằng cách “thét lớn”: “Lũ súc sinh kia không được chạy trốn! Có ta là hiệp sĩ một thương một mã đến đọ sức với bọn ngươi đây”. Bọn khổng lồ cũng không vừa, chúng cũng ra tay đối phó: “một cơn gió nhẹ làm quay những cánh quạt”. Và thế là nhà hiệp sĩ lên tiếng khẳng định sức mạnh tài ba của mình: “Dù cho bọn ngươi có vung nhiều cánh tay hơn cả khổng lồ Bri-a-rê-ô, các ngươi cũng sẽ phải đền tội”.

Nhưng đây còn là cuộc chiến giữa chiến sĩ diệt yêu quái và lũ yêu quái, nên thể thức cũng có những cái khác thường. Đó là theo truyền thống hiệp sĩ, khi vào trận chiến các hiệp sĩ đều hướng lời cầu nguyện của mình về tình nương mà mình tôn thờ. Không trái với phong tục, Đôn Ki-hô-tê cũng cầu cứu nàng Huyn-xi-nê-a, xin nàng hãy giúp cho trong cơn nguy biến này. Cũng vẫn nói thêm rằng nàng Đuym-xi-nê-a người mà trái tim của hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê tôn thờ chỉ là một sản phẩm hoang tưởng của đầu óc mụ mị bởi ảnh hưởng của các tiểu thuyết mà nhà quý tộc kia đã đọc trong mấy chục năm qua. Khi cầu nguyện như vậy thì dường như sức mạnh được nhân đôi, lòng dũng cảm cũng được tăng lên gấp bội, khi đó “Đôn Ki-hô-tê vừa lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc con Rô-xi-nan-tê phi thẳng tới chiếc cối xay gió gần nhất”. Hình ảnh người hiệp sĩ mới đẹp làm sao, hình ảnh đó toát ra một phẩm chất anh hùng lẫm liệt, một dáng dấp oai phong. Hình ảnh đó sẽ trở lên tuyệt vời nếu những tên khổng lồ, những con yêu tinh kia là thực. Còn ở đây chỉ là những chiếc cối xay gió bình thường thực tới mức hai năm rõ mười, cho nên hình ảnh ấy trở nên buồn cười như chính những gì đã xảy ra: “Đúng lúc chàng đâm mũi giáo vào cánh quạt cối xay, gió nổi lên dữ dội, cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành, cả người lẫn ngựa ngã chồng kềnh ra đất”. Mọi cái hoang tưởng đều biến đi, chỉ còn Đôn Ki-hô-tê “nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng”. Cuộc chiến cũng kết thúc.

Trận chiến đấu diễn ra rất bài bản, tuần tự nhưng diễn biến thì rất chóng vánh, chỉ trong chớp mắt, tới mức giám mã “Xan-chô Pan-xa thúc lừa tới cứu” thì cũng không kịp: chủ nhân của anh ta đã bị thất bại. Anh ta chỉ còn biết cách kêu trời và lên án những câu chuyện hoang tưởng. Những hư cấu từ các tiểu thuyết hiệp sĩ đã đọc luôn luôn ám ảnh Đôn Ki-hô-tê. Do đó vinh quang đáng lẽ thuộc về anh thì lại bị một gã pháp sư có nhiều pháp thuật hơn tước đoạt mất, vì thế anh lại cùng người giám mã của mình đi tìm những cuộc phiêu lưu mới.

Nỗi buồn lớn nhất của anh là trên đường đi anh không còn giáo nữa. Anh nhớ tới hiệp sĩ Đi-ê-gô Perex để Vagax trong một cuốn sách. Trong một trận chiến đấu hiệp sĩ này đã bị gẫy gươm nhưng chúng không nao núng, chàng đã nhổ một cây sồi làm vũ khí và đã giết được không biết bao nhiêu là giặc. Đôn Ki-hô-tê kể lại chuyện đó với người giám mã của mình và hứa với Xan-chô là sẽ noi gương người hiệp sĩ kia. Song cú ngã như trời giáng ban nãy đang làm cho anh “vẹo vợ” đi và cho dù vậy thì anh cũng chẳng dám kêu đau vì theo luật giang hồ các hiệp sĩ “có bị thương cũng không được rên rỉ, dù xổ cả ruột ra ngoài”. Một tiếng cười hóm hỉnh lại bật ra khi Xan-chô đưa ra ý kiến so sánh: “Riêng phần tôi, chỉ cần bị gai đâm là tôi kêu đau ngay, trừ phi người ta cấm cả giám mã của hiệp sĩ giang hồ kêu”. Sự hóm hỉnh ở đây góp phần thể hiện sự tương phản giữa hai tính cách: một bên hoang tưởng còn bên kia rất thực tế, một bên điên rồ, một bên rất tỉnh táo. Đây cũng là lần đầu tiên Xan-chô bỏ nhà ra đi làm giám mã cho một hiệp sĩ và đây cũng là lần đầu tiên anh ta chứng kiến vị hiệp sĩ của mình ra trận không phải tả xung hữu đột, như múa như bay giữa trận tiền mà “ngã như trời giáng”. Tuy nhiên Xan-chô rất quý ông chủ vì ông ta cho phép anh được ăn, được ngủ thoải mái. Vừa đi, anh ta “vừa ăn một cách khoái trá”, vừa “nghiêng bầu rượu tu một hơi ngon lành” khiến Xan-chô “cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu này tuy có nguy hiểm song cũng không đến nỗi vất vả”. Như vậy tính chất thực tiễn lại xuất hiện: làm hiệp sĩ lang thang trở thành một cái nghề có thể kiếm sống được. 

Một ngày được khép lại cùng giấc ngủ nặng nề đang kéo đến với Xan-chô. Còn hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê thì lại tiếp tục bắt chước các trang hiệp sĩ khác từng thức đêm thức hôn để nhớ tới tình nương sau khi đã “bẻ một cành khô, rút cái mũi sắt ở cái cán gẫy lắp vào làm thành một ngọn giáo mới”. Chàng hiệp sĩ không ngủ để mà nghĩ tới nàng quyn-xinê-a, cho dù trong trận chiến đấu chống lại lũ khổng lồ có hình thù là những chiếc cối xay gió kia nàng đã không tỏ ra hào hiệp giúp chàng, nàng cũng lại thờ ơ với cả cú “ngã như trời giáng” của chàng nữa. Cho dù vậy, là một hiệp sĩ chân chính Đôn Ki-hô-tê luôn tỏ ra trung thành với tình nương của mình mà biểu hiện độc đáo nhất là không ăn không ngủ, bởi vì chàng “nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi”. Tiếng cười nhẹ nhàng vừa giễu cợt vừa trêu chọc đã làm cho nhân vật trở nên sống động.

Cho dù những hành động trong thực tế mang tính điên rồ ảo tưởng song lí tưởng vị tha mà Đôn Ki-hô-tê theo đuổi lại rất đáng trân trọng, bởi lẽ anh là người hiệp sĩ chân chính đi tìm tự do, khi Tây Ban Nha tự do bị bóp nghẹt, quyền sống bị chà đạp; ở đó bọn khổng lồ, bọn yêu tinh có mặt khắp nơi, hoành hành mọi nẻo. Ở đó cái ác đang tồn tại và vì vậy cũng cần tới những hiệp sĩ chân chính để phò nguy cứu khổ, để tiêu diệt cái ác. Đó là nhân vật của ước mơ, của khát vọng của những người dân lương thiện ở Tây Ban Nha trong thời kì Phục hưng.

Tài liệu có 8 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống