Top 6 bài Cảm nhận Lục Vân Tiên gặp nạn 2023 hay nhất

Tải xuống 16 1.9 K 2

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn hay nhất, gồm 15 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 6 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

CẢM NHẬN ĐOẠN TRÍCH LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN

Bài giảng: Lục Vân Tiên gặp nạn

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 1

Lục Vân Tiên là một trong những truyện đặc sắc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm nói về cuộc đời của nhân vật Lục Vân Tiên- một người người chính trực, văn võ song toàn với những đức tính tốt bụng và thật thà. Lục Vân tiên là tiêu biểu cho những người con miền Nam luôn giàu lòng nhân ái, do đó, chàng sau này đã có một kết quả hạnh phúc.

Sau đây là đoạn trích miêu tả cảnh Lục Vân tiên gặp nạn do bị Trịnh hâm hãm hại và được những người dân tốt bụng cứu giúp. Mở đầu  đoạn trích là phân cảnh Lục Vân Tiên bị Trịnh hâm hãm hại bởi hắn ganh ghét với những gì mà Lục Vân tiên có, hắn sợ chàng sẽ hơn mình rồi nhẫn tâm làm hại chàng mặc dù khi ấy chàng đã không còn khả năng đe dọa những bước tiến công danh của hắn. Cả  đoạn thơ là sự đối nghịch và nối bật của hai kiểu người, đó là thiện và ác. Qua đó, tác giả thể hiện sự khinh thường với những kẻ luôn ganh ghét người khác và nói lên những thiện cảm của mình đối với những con người tốt bụng.Đoạn đầu tiên là cảnh Lục vân tiên khi ấy đã bị mù sau khi về tang mẹ, lúc này chàng chỉ có một tiểu đồng bên người. Gặp được Trịnh Hâm, chàng  tưởng mình gặp được người giúp đỡ, ai ngờ vì kẻ tiểu nhân mà hắn đã trói tiểu đồng ở trong rừng rồi đẩy Vân tiên xuống nước.

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay

Trong thuyền ai nấy kêu là

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”

Nguyên nhân mà Trịnh Hâm hãm hại Lục vân tiên chính là bởi do hắn đố kị và ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên. Dù khi ấy, Vân Tiên đã bị mù nhưng hắn vẫn không thể buông tha cho chàng. Tất cả những hành động của hắn chứng đỏ một điều hắn là một kẻ vô cùng ích kỉ và có lòng dạ cực kì độc ác.Hành động bất nhân bất nghĩa của hắn đã khiến cho Vân Tiên, một người đang bị mù lúc đó rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vất vả. Nhưng thật may mắn, chàng đã được ông Ngư và gia đình của ông cứu giúp. Tác giả đã gọi là ông Ngư mà không phải là một cái tên riêng nào như thể hiện cho chúng ta rằng, trong cuộc sống này, không phải ai cũng là kẻ gian ác, có những người người vẫn rất tốt bụng mà đó không chỉ là một người mà là rất rất nhiều những con người như vậy.Cả gia đình ông Ngư tuy có cuộc sống vất vả, cả gia đình chỉ sống chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé nhưng những nghĩa khí của những con người ấy thì hơn hẳn bất kì ai. Họ luôn giàu lòng thương yêu con người và có những làm những việc thiện mà không hề trông chờ vào sự đền đáp của bất kì một ai cả.

“Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”

Chỉ với hai câu thơ nhưng hình ảnh giản dị mà chan chứa tình cảm thương yêu con người của gia đình ông Ngư đã hiện lên một cách rõ nét trong lòng người đọc. Đó là những con người với những tấm lòng cao cả, không quản ngại khó khăn vất vả chỉ mong cho những người bị nạn có thể cố gắng vượt qua sóng gió.

“Nay đà trôi nổi đến đây

Không chỉ báo đáp mình nầy trơ trơ

Thì Ngư ông lại đáp luôn

Ngư rằng:” Lòng lão chẳng mơ”

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”

Với những lời lẽ bộ trực, khảng khái, đó chính là cách ứng xả và nói chuyện của những người dân Nam Bộ, luôn thẳng thắn vì biết hi sinh vì người khác. Và cũng nhờ có Ông mà Vân tiên mới có thể thoát khỏi những khó khăn trong lúc bản thân mình yếu ớt nhất. Qua đoạn trích, chúng ta đã thấy được hai bộ mặt của hai con người, là sự đối đầu giữa thiện và ác. Những con người ấy luôn sống đan xen giữa cuộc sống này, có những người xấu nhưng xùng không ít những người tốt bụng. Từ đo chúng ta phải có những bài học cho riêng mình. Mặt khác, bài thơ cũng đã thể hiện được cho chúng ta hình ảnh của những người dân Nam Bộ hiền lành, tốt bụng.

Sơ đồ tư duy

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn năm 2021

 Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), là nhà thơ mù yêu nước của Nam Bộ.

- Giới thiệu đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn

+ Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện

+ Đoạn trích kể về việc Vân Tiên và Tiểu Đồng bị Trịnh Hâm hãm hại do đố kị, ghen ghét tài năng của Vân Tiên.

2. Thân bài 

- Tội ác của Trịnh Hâm

+ Hoàn cảnh của Lục Vân Tiên: tiền hết, mù lòa, bơ vơ nơi đất khách.

+ Trịnh Hâm mưu hại Vân Tiên dưới lớp vỏ “giúp đỡ”.

+ Nguyên nhân: tính đố kị, ganh ghét tài năng, lo cho con đường tiến thân của mình ngay từ khi mới gặp Vân Tiên.

+ Thái độ của Trịnh Hâm: so đo, tính toán, lo âu khi kết bạn với Vân Tiên, người được đánh giá là tài cao.

+ Dù biết Vân Tiên bị mù nhưng Trịnh Hâm vẫn ra tay hãm hại, chứng tỏ sự độc ác dường như đã ngấm vào máu thịt, trở thành bản chất con người hắn.

- Trịnh Hâm: độc ác, bất nhân, bất nghĩa.

- Việc làm nhân đức và nhân cách của Ngư Ông

+ Vân Tiên được Giao Long “dìu đỡ” và gặp được gia đình nhà Ngư Ông cứu sống.

+ Hành động: cả nhà nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa để cứu sống Vân Tiên, mỗi người mỗi việc. Đó chính là tình cảm chân thành của gia đình Ngư Ông đối với người bị nạn.

- Khi biết được tình cảnh của Vân Tiên:

+ Ông Ngư sẵn sàng cưu mang chàng.

+ Khi cứu mạng không cần đền đáp.

+ Tấm lòng bao dung, vị tha, hào hiệp của ông Ngư đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen, độc ác của Trịnh Hâm.

+ Cuộc sống của gia đình Ngư Ông: cuộc sống không danh lợi “rày doi mai vịnh vui vầy”, tránh xa những tính toan nhỏ nhen, ích kỉ.

- Tác giả gửi gắm khát vọng, niềm tin vào cái thiện của người dân lao động. Lên án cái xấu, cái ác đang lấp sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang.

3. Kết bài

- Nội dung: 

+ Sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn.

+ Thể hiện thái độ quý trọng và niềm tin của tác giả với nhân dân lao động.

- Nghệ thuật: 

+ Tình tiết và diễn biến hành động hợp lí, nhanh gọn.

+ Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc.

+ Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, giàu cảm xúc.

Top 4 bài Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn hay nhất (ảnh 1)

Các bài mẫu khác:

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 2

Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn một lần nữa cho thấy tư tưởng nhân nghĩa tỏa sáng trong Truyện Lục Vân Tiên và thể hiện niềm tin của nhà thơ mù đất Đồng Nai đối với nhân dân giữa thời loạn lạc.Nhân vật ông Ngư được nói đến trong đoạn thơ thật đẹp, tiêu biểu cho đạo lí của nhân dân ta: "Thương người như thể thương thân". Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho ông Ngư một tình cảm nồng hậu biết bao!

Trịnh Hâm là một kẻ độc ác, thâm hiểm, đố kị tài năng. Hắn đã lừa Vân Tiên lên thuyền (khi chàng đã mù) rồi đẩy xuống sông cho chết. Giữa "đêm khuya lặng lẽ như tờ", hắn đã "ra tuy" đẩy Vân Tiên xuống nước, thế nhưng hắn còn xảo quyệt, đạo đức giả cất "tiếng kêu trời” .  Đối lập với những con người độc ác ấy, những người cùng đi thuyền đã đau đớn kêu thương:

“Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.”

Thái độ, tình cảm ấy biểu thị tình thương người của nhân dân ta như ca dao đã truyền lại: “Thấy người hoạn nạn thì thương…" Trời đất cũng không thể phụ một con người tốt đẹp như Vân Tiên. Giao long là một loài thủy quái cũng đã đến cứu người bị nạn:

“Vân Tiên mình lụy giữa dòng,

Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.”

Sự xuất hiện của giao long trong cảnh Vân Tiên gặp nạn tuy có tạo nên màu sắc huyền thoại của truyện thơ, nhưng đã làm nổi bật một sự thật cay đắng ở đời, đó đây có lúc con người còn ác độc hơn cả loài lang sói. Trong tình huống ấy, ông Ngư đã xuất hiện. Người bị nạn đã gặp được người nhân đức:

“Vừa may trời đã sáng ngày,

Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.”

Bốn chữ "vớt ngay lên bờ" thể hiện một tinh thần hối hả, khẩn trương, kịp thời cứu người chết đuối. Cả một gia đình xúm vào cứu chữa, săn sóc người bị nạn. Con thì "vầy lửa", đốt lửa lên, sưởi ấm người chết đuối. Hai vợ chồng, người thì "hơ bụng dạ” người thì "hơ mặt mày" cho Vân Tiên:

“Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.”

"Hối" nghĩa là hối hả, giục giã, cách nói biểu cảm dân dã của người nông dân Nam Bộ. Trong văn cảnh, nó thể hiện sự lo lắng cho tính mệnh người bị nạn, biểu lộ tình thương người bao la của ông Ngư. Vân Tiên hồi tỉnh, ông Ngư đã ân cần "hỏi han", hết lời an ủi, chia sẻ nỗi đau buồn với người gặp nạn. Mặc dù nhà nghèo, nhưng ông Ngư đã chân tình mời Vân Tiên, một người mù lòa, đau khổ ở lại với gia đình ông, để được chăm sóc nuôi nấng:

“Ngư rằng: “Người ở cùng ta,

Hôm mai hẩm hút với già cho vui".”

Ở đời, có "một lời nói một đọi máu " (đọi: bát). Có "một câu nói một gói bạc”. Câu nói của ông Ngư là một tấm lòng vàng, chan chứa tình nhân đạo. Cuộc đời ông Ngư là cuộc đời của một con người "lánh đục tìm trong" xa lánh con đường danh lợi, coi trọng tình người, phấn đấu cho lí tưởng nhân nghĩa cao cả:

“Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn.

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây".

Vân Tiên đánh cướp cứu dân, cứu Kiều Nguyệt Nga với ý thức: "Làm ơn há để  trông người trả ơn". Ông Ngư cũng vậy: "Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn". Những tấm lòng cao cả ấy đã gặp nhau, họ đã nêu cao tình nhân ái. Và đó cũng là cái lẽ đời: "ở hiền thì lại gặp hiền" như một nhà thơ đã nói.Ông Ngư ngoài tình nhân ái mênh mông còn có một tâm hồn thanh cao. Ông đã chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Sông dài biển rộng, trời cao là môi trường thảnh thơi, vui thú của ông. Suốt đêm ngày, năm tháng, ông đã lấy doi, vịnh, chích, đầm, lấy bầu trời, lấy Hàn Giang làm nơi vẫy vùng, tìm nguồn vui sống. Ông đã lấy gió và trăng, con thuyền và dòng sông làm bầu bạn. Ông đã lấy công việc chài lưới để sống cuộc đời thanh bạch. Ông Ngư là một con người tự do, thoát vòng danh lợi, thích nhàn. Câu thơ vang lên như một tuyên ngôn đẹp về lẽ sống của một nhà nho, một kẻ sĩ chân chính đang sống giữa thời loạn lạc:

“Rày doi, mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng.

(…) Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.”

Đây là những câu thơ hay nhất, đậm đà nhất trong Truyện Lục Vân Tiên. Giọng thơ nhẹ nhàng, êm ái. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình dào dạt tạo nên sắc điệu thẩm mĩ sáng giá, biểu hiện một cách tuyệt đẹp tâm hồn trong sáng, thanh cao và phong thái ung dung của ông Ngư.Cũng như ông Quán, ông Tiều, lão bà, tiểu đồng, nhân vật ông Ngư trong đoạn thơ này vừa là người lao động chất phác, nhân hậu, vừa là hình ảnh một nho sĩ bình dân coi thường danh lợi, giàu lòng nhân nghĩa, yêu tự do và thanh cao. Sống giữa thời loạn lạc, nhân vật ông Ngư cũng là nhân vật lí tưởng phát ngôn lẽ sống và tư tưởng nhân nghĩa của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Đẹp vậy thay một con người:

“Kinh luân đã sẵn trong tay,

Thung dung dưới thế, vui say trong trời.”

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 3

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời kì trung đại với những tác phẩm có giá trị nhân văn cao cả. Truyên Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng nhân đạo của nhà thơ. Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” nằm ở phần hai của tác phẩm thể hiện sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn qua đó tác giả bày tỏ tấm lòng ngợi ca đối với những con người nghèo khổ nhưng có nhân cách, tâm hồn thanh cao.Cái ác trong đoạn trích được tác giả xây dựng thông qua nhân vật Trịnh Hâm với những mưu mô, xảo quyệt, những toan tính thấp hèn, sự bất nhân bất nghĩa. Điều đó thể hiện qua hành động Trịnh Hâm hãm hại chính người bạn của mình là Lục Vân Tiên. Lúc này, Lục Vân Tiên đã rơi vào đường cùng nơi đất khách. Mẹ ở quê nhà thì mất, mắt thì bị mù, tiền lại bị cướp hết. Những tưởng sẽ được bạn giúp đỡ, nhưng không kẻ tiểu nhân ấy không những không giúp Vân Tiên mà còn mưu mô, toan tính hãm hại chàng:

Top 4 bài Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn hay nhất (ảnh 1)

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ

…Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”

Vì sao Trịnh Hâm lại ra tay sát hại bạn mình trong lúc bạn đang cơn hoạn nạn như thế? Tất cả là vì lòng ganh ghét, đó kị với tài năng của Vân Tiên. Hắn đã chọn một thời điểm mà “người không biết, quỷ không hay” để hãm hại Vân Tiên. Đó là vào lúc “đêm khuya lặng lẽ như tờ”, khi mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ. Không gian hoang vắng lặn im lại còn mờ ảo “mịt mờ sương bay”. Cả thời gian và không gian đều thích hợp để hắn thực hiện âm mưu của mình. Hành động của Trinh Hâm rất dứt khoát “xô ngay xuống vời” khiến Vân Tiên bất ngờ không kịp kêu cứu. Lúc này bản chất bất giả nhân nghĩa của Trịnh Hâm lại được bộc lộ khi hắn “giả tiếng kêu trời” như để hợp thức hóa hành động của mình.Chỉ với tám dòng thơ ngăn ngủi nhưng tác giả đã bóc trần tâm địa độc ác, bất nhân bất nghĩa, mưu mô xảo quyệt của Trịnh Hâm. Với ngôn ngữ chân thực, tự nhiên, giàu sức biểu cảm đoạn thơ như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, diễn biến và tình huống. Người đọc càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì lại càng thêm căm ghét tên Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu.Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là cái thiện của ông Ngư và gia đình ông. Cái Thiện được biểu hiện ngời sáng qua việc làm, lời nói và nhân cách cao cả của ông Ngư. Khi thấy Vân Tiên bị nạn ông đã chẳng mảy may suy nghĩ ra tay cứu giúp, sau đó:

“Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”

Những hành động gấp gáp, khẩn trương. Việc làm của gia đình ông Ngư xuất phát tấm lòng nhân nghĩa dù không biết người gặp nạn là ai. Sau khi nghe Vân Tiên kể về hoàn cảnh của mình, ông Ngư thương chàng và sẵn sàng mời chàng ở lại cùng gia đình dù cuộc sống của gia đình ông cũng chẳng khá giả gì. Trái tim của ông Ngư thật nhân hậu biết bao! .Được gia đình ông Ngư cứu giúp, Vân Tiên cảm động và không biết lấy gì đền đáp thì câu nói của ông Ngư một lần nữa cho thấy nhân cách cao cả của ông:

“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”

Câu thơ thể hiện một quan điểm, một triết lí sống đẹp của ông Ngư: làm việc nhân nghĩa ở đời thì không mong được trả ơn. Cái thiện ở đây còn được biểu hiện qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư:

“Nước trong rửa ruột sạch trơn

…Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”

Một cuộc sống tự do, tự tại, hòa hợp với thiên nhiên, sông, nước, gió, trăng của một người lao động nghèo. Ông Ngư đã từ bỏ mọi danh lợi viển vông để tìm về với cuộc sống an nhàn, để gắn bó với thiên nhiên bao la, đất trời rộng lớn. Cuộc sống của ông Ngư ngoài vòng danh lợi, chính vì thế mà tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Hình ảnh chiếc thuyền nan nhỏ bế, mỏng manh trôi nổi giữa dòng nước bao la mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời của ông Ngư cũng giống như chiếc thuyền nan ấy. Nhân cách thanh cao của ông sẽ chẳng thể nào bị vấy bẩn bởi cái vòng danh lợi cuộc đời.

Qua đoạn trích “ Lục Vân Tiên gặp nạn” tác giả thể hiện sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Tác giả bày tỏ sự căm ghét với con người nham hiểm, độc ác như Trịnh Hâm và ca ngợi tấm lòng cao đẹp, nhân cách thanh cao của những người lao động nghèo như ông Ngư. Đoạn trích cũng cho thấy sự tinh tế trong việc xây dựng cốt truyện, nhân vật, tình huống của Nguyễn Đình Chiểu.

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 4

Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước trường thi, gặp Vân Tiên và Tử Trực liền kết bạn và cùng nhau vào một quán rượu xướng hoạ thơ phú. Thấy Vân Tiên tài cao, xuất khẩu thành thơ, Trịnh Hâm lo lắng không yên:

“Kiệm, Hâm là đứa so đo,

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công,

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.”

Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến Trịnh Hầm thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm, ngay cả khi Vân Tiên không còn khả năng đe dọa bước đường công đanh của hắn. Nói như nhà nghiên cứu Hoài Thanh: Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ.

Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn; đồng thời thể hiện thiện cảm của tác giả đối với những người nghèo mà giàu lòng nhân ái.Bố cục đoạn trích chia làm hai phần: Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm. Phần sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch và nhân cách cao cả của ông Ngư.Ngoài Lục Vân Tiên là nhân vật chính còn có hai nhân vật phụ là Trịnh Hâm, tiêu biểu cho kẻ ác và ông Ngư tiêu biểu cho người thiện: Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không mạnh mẽ như ở đoạn Lục Vân Tiên đánh cướp mà nhẹ nhàng, thấm thía, đẹp như trong truyện cổ, vẻ đẹp của cái thiện toả ra từ nhân vật ông Ngư, với cuộc sống an bần lạc đạo: Thuyền nan một chiếc ở đời…Lúc này, dường như thầy trò Vân Tiên lâm vào bước đường cùng nơi đất khách. Tiền thì hết, mắt đã mù. Gặp lại Trịnh Hâm, Vân Tiên mừng vì tưởng được giúp đỡ, nhất là khi nghe hắn hứa sẽ đưa về tận nhà. Không ngờ Trịnh Hâm lừa Tiểu Đồng vào rừng, trói vào gốc cây. Sau đó, hắn nói dối Vân Tiên là Tiểu Đồng đã bị cọp vồ. Vân Tiên chi còn trơ trọi một mình.. Lúc này, kẻ tiểu nhân mới thực hiện hành vi tàn độc:

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.”

Vì sao Trịnh Hâm cố tình hãm hại Vân Tiên? Nguyên nhần do hắn đố kị, ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên và lo cho con đường tiến thân của mình bị người khác cản lối. Khi mối lo đó không còn vì Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn tìm cách hãm hại, chứng tỏ sự ác độc dường như đã thấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất cua hắn. Cái ác không có giới hạn, kẻ ác không bao giờ chùn tay.

Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hâm hại một con người tội nghiệp trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng họa thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy và hắn cũng từng hứa hẹn: Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là Đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên một tiếng. Đến lúc biết là không ai có thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm.

Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trần tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngừ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư. Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hẩm hiu tương rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Cái Thiện được biểu hiện trọn vẹn và ngời sáng qua việc làm nhân đức và tính cách cao cả của ông Ngư. Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn vớt ngay lên bờ rồi:

“Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.”

Sự việc được kế lại ngắn gọn nhưng thể hiện được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với chàng trai họ Lục.Cả gia đình ông lão mỗi người một việc, lo cứu sống người. Không cần biết nạn nhân đó là ái, cứ thấy bị nạn là cứu, thấy việc nghĩa là làm. Đó là bản chất cao quý của những con người lao động nghèo khó, lương thiện. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, xúc động kể lại sự tình và bày tỏ lòng biết ơn:

“Nay đà trôi nổi đến đây,

Không chi báo đáp mình nầy tra trơ.

thì Ngư ông đáp luôn:

Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.”

Lời lẽ của ông Ngư bộc trực, khảng khái, đúng là cung cách và giọng điệu của người dân Nam Bộ, nghe thấm thía vô cùng. Ông không hề có ý nghĩ làm ơn sẽ được đền đáp bằng tiền bạc, của cải. Ông chỉ dốc lòng nhân nghĩa, cứu người gặp nạn. Hành động và lời nói của ông Ngư thật hào hiệp, vô tư. Nghe Vân Tiên kể về tình cảm éo le, đau khổ của chàng, ông lão thương đứt ruột, hành động cứu người của ông tuy lặng lẽ, âm thầm nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp Lục Vân Tiên thoát khỏi bàn tay tàn độc của Trịnh Hâm. Trái tim nhân hậu của ông Ngư thật đáng kính trọng biết bao!Cái thiện còn được biểu hiển qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng… Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Ngỡ như không phải ông nói, mà là đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ nghe như có tiếng phách, tiếng đàn thong thả đệm theo lời ông già Nam Bộ hát Vân Tiên. Hát rằng:

“Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng…”

Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió trăng… Con người hòa nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Tác giả sử đụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư; vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình. Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước đề rửa ruột sạch trơn, tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh…, ông Ngư đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Gia đình, nhà cửa, cả thân xác lẫn tâm hồn như đã hoà làm một với biển trời, sông nước. Cặp từ hứng gió, chơi trăng phác hoạ hình ảnh con người lao động nhưng lại có tâm hồn bay bổng, mơ mộng của một thi nhân. Mơ mộng nhưng cũng rất chủ động, ung dung:

“Một mình thong thả làm ăn

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.”

Câu thờ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những mái chèo khỏa nước lúc nhặt lúc khoan, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ. Cuộc sống tự đo của ông Ngư hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao!Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông Ngư nói đến chữ vui: vui vầy, vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, càng lúc càng vui. Đi đây đi đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè gặp bạn thì vui vầy. Giừa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn vui thầm. Ý thức sâu sắc về lối sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này là động lực đế ông vui say, nghĩa là lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ông Ngư càng bay bổng. Men rượu đă ngấm, hồn thơ cất cánh, ông Ngư đã hoá thành triết gia, thành nghệ sĩ:

“Kính luân đã sẵn trong tay

Thung dung dưới thế vui say trong trời

Thuyền non một chiếc ở đời, .

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.”

Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa sông dài biển rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ông Ngư gắn liền với chiếc thuyền nan ấy. Hình ảnh chiếc thuyền nan cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên từ sự thăng hoa của cảm hứng lãng mạn. Dường như nhà thơ đả nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, hoà hợp với đất trời. Cuối đoạn trích, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như ánh trăng trải trên mặt nước, như mặt nước được mái chèo nhẹ nhàng khua động lung linh.

Trong văn chương thời trung đại, hình tượng Ngư – Tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm Tiều, làm Ngư (Ngư-Tiều y thuật vấn đáp).Nguyền Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua những lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường (Kinh luân đã sẵn trong tay). Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế.Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình:

“Tiều rằng: vốn lão tình không,

Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.

...

Công hầu phú quý mặc ai,

Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.”

Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: Với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích.Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyền thống dân tộc. Ông Ngư – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn cửa nhà của Nguyền Đình Chiều?Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn là kiểu kết cấu thông thường ở các truyện cổ dân gian. Ở đây, người tốt thường gặp hoạn nạn, bị hãm hại nhưng lại luôn được cứu giúp có khi là con người (ông Ngư), có khi là thần linh (giao long). Kiểu kết câu này còn được lặp lại ở một sô tình tiết khác, nhưng truyện vẫn không bị coi là nhàm chán. Bởi nó thế hiện niềm tin và ước mong của những con người bị áp bức, khó bề chống đỡ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Niềm tin ấy xuất phát từ triết lí nhân sinh đã thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bao đời nay: Ở hiền gặp Lành.

Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 1

Trong tác phẩm Một số tư liệu về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (NXB Khoa học Xã hội, 1965), G. Ô-ba-rê từng nhận định: Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu từng được xem là "một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người có cái ưu điểm lớn là diễn tả được trung thực những tình cảm của một dân tộc". Một trong những tình cảm lớn lao ấy là tấm lòng yêu mến, trân trọng cái thiện đồng thời căm ghét, lên án cái ác ở đời. Qua đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”, nhà thơ đã thể hiện trọn vẹn sự đối lập thiện - ác tiêu biểu cho toàn bộ tác phẩm.Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn" nằm ở phần thứ hai của truyện. Đang bơ vơ nơi đất khách với đôi mắt mù lòa và nỗi đau xót khôn nguôi về người mẹ mới qua đời, Lục Vân Tiên lại gặp Trịnh Hâm thi rớt trở về. Sẵn lòng đố kị, ganh ghét với Vân Tiên từ trước, Trịnh Hâm bèn lợi dụng cơ hội để hãm hại Vân Tiên. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng trói lại rồi giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa hẹn sẽ dẫn về quê nhà. Chờ khi đêm tối, Trịnh Hâm mới thực hiện hành động tàn ác của mình.

Video bài văn mẫu Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn

Qua cách hành xử của các nhân vật khi gặp người bị nạn: Trịnh Hâm gặp Vân Tiên bị mù, Ngư ông và gia đình gặp Vân Tiên bị đẩy xuống sông, tác giả đã vạch mặt chỉ tên cái ác - mà đại diện là gã Trịnh Hâm tàn ác, nham hiểm đồng thời ngợi ca cái thiện, tiêu biểu là nhân vật ông Ngư cùng gia đình của ông. Trịnh Hâm là một kẻ có tâm địa hèn hạ, xấu xa. Vốn ghen ghét, với Lục Vân Tiên nhưng đến khi Lục Vân Tiên mù lòa rồi, dã tâm của Trịnh Hâm vẫn chưa thỏa. Lục Vân Tiên đã bị mù, tiền bạc hết, thầy tớ bơ vơ. Với Vân Tiên, Trịnh Hâm lại là người quen cũ. Vậy mà gã họ Trịnh lại đang tâm lừa gạt, hãm hại con người tội nghiệp, đang trong cơn hoạn nạn, cần nhờ cậy sự giúp đỡ của hắn

Chẳng những không thực hiện lời mình nói (hứa đưa Vân Tiên trở lại quê nhà) mà còn hãm hại Vân Tiên. Đó là sự phản bội bạn bè, phản bội lời hứa của chính mình. Đối với những người quân tử Nho học xưa, lời hứa vô cùng thiêng liêng, đó là bức tượng danh dự cho mỗi người: Lời đã nói ra như dao chém đá, một lời nói nặng tựa chín đỉnh đồng. Do vậy, hành động của Trịnh Hâm lột rõ tâm địa vừa bất nhân vừa bất nghĩa, vừa gian ngoan vừa xảo quyệt của hắn. Tất cả cũng vì lòng ganh ghét, vì sự đố kị tài năng với Vân Tiên. Nọc độc ấy ngấm vào xương tuỷ, trở thành bản chất độc ác của Trịnh Hâm.Chỉ tám dòng thơ, tác giả đã sắp xếp các tình tiết một cách hợp lí, thể hiện diễn biến hành động rất mau lẹ, có tính toán và rất độc ác của Trịnh Hâm. Cái ác trong con người này tiêu biểu cho cái ác trong toàn bộ tác phẩm. Đó là sự lọc lừa, phản trắc của những Bùi Kiệm, Võ Công,... Chúng đã không chỉ một hai lần hãm hại những tâm hồn lương thiện thanh sạch như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga…Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không hề bi quan về cuộc đời, dựng lên hình ảnh của cái ác, tấm lòng nhân ái của nhà thơ muốn tạo ra sự đối lập để tôn vinh cái thiện. Cái thiện ấy được thể hiện qua sự hiệp nghĩa và trái tim nhân ái của ông ngư cùng gia đình của ông.Thấy người bị nạn dưới sông, ông ngư đã ra tay cứu giúp:

“Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ

Hối con vầy lừa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”

Từ "hối" có ý nghĩa là giục giã, thúc giục. Ông ngư cùng vợ con đang rất khẩn trương cứu sống Vân Tiên. Câu thơ mộc mạc, chỉ kể lại sự việc một cách tự nhiên, nhưng ẩn chứa bao ân tình của cả một gia đình vợ chồng, con cái đối với người gặp nạn. Chỉ riêng điều này đã đối lập gay gắt với hành động độc ác, bất nhân của Trịnh Hâm. Không chỉ vậy, ông Ngư và cả gia đình còn sẵn sàng cưu mang người hoạn nạn: ông chân thành ngỏ ý mời Vân Tiên ở lại cùng sớm hôm chia sẻ cuộc sống đạm bạc nhưng đầm ấm tình người:

"Ngư rằng: Người ở cùng ta

Hôm mai hẩm hút một nhà cho vui".

 Khi Vân Tiên băn khoăn "ông lấy chi nuôi" ngư ông đã thể hiện lòng vị tha, tinh thần trọng nghĩa khinh tài của mình qua câu nói:

"Lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn"

Có nghĩa là làm ơn mà không hề trông chờ sự báo đáp. Đó là sự trong sạch vô tư đến tuyệt vời của một tâm hồn lành mạnh khỏe khoắn... Điều đó một lần nữa còn được thể hiện qua cuộc sống lao động của ông Ngư. Đó là một cuộc sống trong sạch, không chạy theo danh lợi, khinh ghét thói đời bạc đen, tráo trả. Cuộc sống của ông gắn với thiên nhiên khoáng đạt, tâm hồn ông thanh thản và thư thái vô cùng:

“Một mình thong thả làm ăn

Tắm mưa trải gió trong vời hàn giang”.

Bằng đoạn thơ trên, tác giả gửi gắm khát vọng và niềm tin vào cái thiện, vào bản chất tốt đẹp của con người lao động bình thường. Cùng với những Hớn Minh, Vương Tử Trực, ông Tiều, ông quán,... ông Ngư đã đại diện cho cái thiện trong thiên truyện Truyện Lục Vân Tiên. Qua những nhân vật này, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện một cái nhìn tiến bộ, lạc quan đậm chất nhân dân.Giống như toàn bộ tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên, đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn không có điều kiện để được Nàng Thơ trau chuốt về hình thức song chính sự giản dị, mộc mạc đậm chất Nam Bộ của ngôn ngữ đã mang đến cho đoạn trích sự chân thành chẳng những diễn tả thành công tính cách các nhân vật mà còn bộc lộ tấm lòng nhân ái, lạc quan của nhà thơ.

Đặc biệt, đoạn trích diễn tả đời sống của ngư ông, ngôn ngữ và lời thơ rất thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, ý tình phóng khoáng mà sâu xa. Đọc đoạn thơ, ta có cảm giác như chính tác giả đang nhập thân vào nhân vật để nói lên cái khát vọng sống của mình. Qua sự đối lập giữa thiện và ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn, tác giả đã thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp ở đời. Đó cùng chính là cái gốc sâu xa làm nên sức hấp dẫn của toàn bộ tác phẩm này.

Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 2

Với quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã trở thành chức năng phản ánh của văn học. Điều này đã hiện thực hóa trong quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Trong hệ thống thi phàm của mình mà cụ thể là Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hai tuyến nhân vật: Thiện và ác, đạo đức và gian tà. Ông Quán, Ông Ngư, chú tiểu đồng, Hớn Minh… đều được Nguyễn Đình Chiểu trân trọng đề cao. Họ là những con người lương thiện, giàu lòng thương người, trọng nghĩa khinh tài. 

Mặt khác, ông cùng kịch liệt lên án vạch mặt bọn người có tâm địa, xảo quyệt như cha con Võ Thế Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn nổi bật lên hai hình tượng đối lập giữa cái thiện và cái ác. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa chân dung Trịnh Hâm là điển hình của cái xấu, cái ác:

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghênh ngang sao mọc núi mờ sương bay

Trịnh Hâm khi ấy ra tay

Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời

Cho người thức dậy lấy lời phui pha.”

Ghen ghét, đố kị là thói xấu của con người. Nhưng sự ghen ghét, đố kị, độc ác như Trịnh Hâm thì cũng thật là hiếm. Hắn đan tâm hãm hại một con người đang lúc mù lòa, ốm đau, không nơi nương tựa, không có gì để chống đỡ. Hành động tàn ác của hắn cốt do trả thù cho nỗi hận rất nhỏ nhen, thỏa mãn lòng ghen ghét, đố kị cái tài của Lục Vân Tiên trong một cuộc hội ngộ uống rượu giữa bốn người gồm có: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm.Một con người cũng mang danh sĩ tử, theo nghiệp bút nghiêng cũng đọc sách thánh hiền như Trịnh Hâm mà lại có mưu đồ đen tối ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thể đe dọa đến bước đường công danh của hắn thì ắt sẽ nguy hiểm hơn rất nhiều. Để thê hiện hành động đen tối của mình, hắn đã nghi “Hại Tiên phải dạng mưu này mới xong”. Trước đoạn truyện này, hắn đã lập mưu trói tiểu đồng vào gốc cây cho hổ ăn thịt. Rồi sau đó giả bộ thương xót đưa Vân Tiên xuống thuyền, khi ra đến giữa “vời”, trong đêm tối mịt mùng “nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay”, hắn mới “ra tay” hành động.Hai chữ “ra tay” ở câu trên ứng với hai chữ “xô ngay” ở câu dưới đã thực sự tô cáo hành động gian ác, trắng trợn của hắn. Hành động kiên quyết đó lại được che đậy trong một cái ác xảo quyệt của loại người “ném đá giấu tay” bằng cách “giả tiếng kêu trời”. Cái hành động “giả tiếng kêu trời” đã khái quát được cái chân tướng của kẻ giả nhân giả nghĩa. Hắn là hiện thân của cái ác, cái lưu manh trong xã hội thời ấy. Một con người được coi là kẻ có học như hắn mà có cái ác trú ngụ thì thật là nguy hiểm và ghê tởm. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cùng có nhận xét: “Mỗi oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ”.

Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là nhân vật ông Ngư, một con người giàu lòng nhân đức và cao thượng. Sau khi được Giao Long dìu Vân Tiên vào bờ, ông Ngư ra tay cứu vớt kịp thời và hết lòng tận tình cứu chữa.

“Hôi con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.”

Câu thơ mộc mạc, chân thành, không chút đèo gọt, chỉ thuần túy là kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, trong việc cứu chữa bằng phương thức dân dã “vầy lửa”, “hơ bụng”, “hơ mặt mày” tất cả gợi lên sự chân thành, tự nguyện, thương yêu của cả gia đình đói với người bị nạn. Họ là hình ảnh đẹp đẽ của quần chúng nhân dân lao động, những người luôn đứng về phía chính nghĩa. Trong bức tranh thư đậm màu sắc dân gian này, ta thấy ở họ không chỉ có tấm lòng và niềm vui trong lúc cứu người bị nạn mà còn là hành động vô tư không còn tính toán, không cần trả ơn. Hiểu được hoàn cảnh của chàng, ông Ngư có lời đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng giúp đỡ chàng.

“Ngư rằng: người ở cùng ta

Hôm mai, hâm hút một nhà cho vui.”

Cuộc sống “hâm hút” của ông Ngư thì có gì là thoải mái về vật chất, ông phải vật lộn với biển cả để giành lấy cuộc sống, giành lấy phần đời trước những bão giông của cuộc đời khốn khó. Ông giúp người không đòi sự trả ơn, bởi ông lấy việc nhân nghĩa làm lẽ sống: Dốc lòng nhân nghĩa chẳng nhờ trả ơn.Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ có một lần Nguyễn Đình Chiểu, đề cập ở đoạn truyện này mà nó bao trùm lên toàn bộ tác phẩm ở một đoạn truyện khác, Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi anh hùng hảo hán Lục Vân Tiên đã ra tay cứu giúp Kiều Nguyệt Nga ra khỏi cơn hoạn nạn mà không hề chút tính toán. Làm ơn há dễ trông người trả ơn.Hoặc ông Tiều sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang cũng đáp lời tạ ơn chàng: “Làm ơn mà lại trông người hay sao”.Đối với ông Ngư, quan niệm về nhân nghĩa căn bản giống với quan niệm của Lục Vân Tiên, nhưng có điều hơi khác là ở chỗ là, khi quan niệm ấy gắn với người dân lao động như ông Ngư thì ý nghĩa của quan niệm này lại càng mang tính nhân dân sâu sắc.Thấy việc nghĩa là làm, là nét đẹp nhân cách của ông Ngư. Nhân cách ấy còn được biểu hiện trong cuộc đời lao động của ông mà Nguyền Đình Chiểu đã cảm nhận bằng cả trái tim và khối óc của mình. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi.

“Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi cho sờn lòng đây.”

Ông Ngư là người không một chút bận tâm đến cái vòng danh lợi giữa cuộc đời đầy ô trọc, ông dành phần đời của mình để vui với cái nghề chài lưới, tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hòa nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên, cho nên đối với ông không gì hơn là:

“Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng

Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.”

Phải nói rằng, thi nhân có những trăn trở, gắn bó với cuộc đời nay lắm mới có cái cảm hứng ngợi ca dạt dào những hình ảnh con người có cái “thung dung dưới thế” lại có cái “vui say trong đời” như ông Ngư, với ông Ngư có cuộc sống thoải mái “ngày hứng gió, đêm chơi trăng” nghêu ngao nay chích mai dầm”… và cuối cùng là một hình ảnh rất đẹp: “Thyền nan một chiếc ở đời – Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”. Những hình ảnh được nói đến trong thơ đều nhằm tôn lên vẻ đẹp nhân cách và quan niệm sống của ông Ngư.Đây là đoạn thơ hay của tác phẩm, bởi Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm một quan niệm sống, một niềm mơ ước thiết tha của mình qua nhân vật ông Ngư và qua đó, Nguyễn Đình Chiểu cùng muốn nói lên một sự thực của xã hội thời ông đang sống – bên cạnh những cái xấu cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang như thái sư đương triều, Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Cũng còn rất nhiều cái tót, dáng kính trọng, đáng khao khát, tồn tại bền vừng nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài như ông Ngư, ông Tiều, tiểu đồng, bà lão dệt vải trong rừng,., Nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất đúng: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Hô Chiêu" (dẫn theo SGV, tập 1 – Nhà xuất bản Giáo dục).

Đoạn truyện đã xây dựng thành công hai tính cách nhân vật đối lập, một kẻ lòng lang dạ thú dưới cái bộ mặt kẻ sĩ và một người có tâm hồn cao thượng trong cuộc đời bình dị. Nhân vật được miêu tả qua hành động, ngôn ngữ bình dị dân dã. Đặc biệt sự thành công của Nguyễn Đình Chiểu là ông đã để lại một ấn tượng đẹp về nhân vật ông Ngư. Một hình tượng nghệ thuật mang quan điểm trần thuật của tác giả.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), tục gọi là Đồ Chiểu, sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh), quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Ông thi đỗ tú tài năm 21 tuổi (1843), nhưng 6 năm sau (1849) ông bị mù.

- Sau đó, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân.

- Trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, ông tích cực tham gia phong trào kháng chiến cùng các vị lãnh tụ như bàn bạc việc đánh giặc hay sáng tác văn học để khích lệ tinh thần nhân dân. - Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Khi Nam Kỳ bị giặc chiếm, ông về sống ở Ba Tri (Bến Tre).

- Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu truyền bá đạo lý làm người và cổ vũ tinh thần yêu nước.

- Một số tác phẩm nổi tiếng: Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định…

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác:

- “Truyện Lục Vân Tiên” được sáng tác vào khoảng đầu những năm năm mươi của thế kỉ XIX.

- Truyện được lưu truyền rộng rãi dưới hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ Vân Tiên”, “hát Vân Tiên” ở Nam Kì và Nam Trung Kì.

2. Bố cục

- Phần 1: 8 câu đầu: Tội ác của Trịnh Hâm.

- Phần 2: Các câu còn lại: Việc làm nhân đức và nhân cách cao cả của ông ngư.

3. Nội dung chính

Vân Tiên đang bơ vơ nơi đất khách quê người thì gặp Trịnh Hâm đang trên đường trở về. Vốn có lòng đố kỵ, ganh ghét tài năng của Vân Tiên, Trịnh Hâm lợi dụng cơ hội đã hãm hại chàng. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng rồi trói lại , giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền. Đợi đến đêm khuya vắng vẻ Trịnh Hâm ra tay hãm hại Lục Vân Tiên.

4. Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả

5. Thể loại: Truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát.

6. Giá trị nội dung

- Qua đoạn trích, người đọc thấy được sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa những người cao cả và những kẻ thấp hèn, đặc biệt cảm nhận được niềm tin mãnh liệt của nhà thơ dành cho vẻ đẹp của những người dân lao động bình dị

7. Giá trị nghệ thuật

- Tình tiết và diễn biến hành động hợp lí, nhanh gọn

- Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc

- Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, giàu cảm xúc.

Tài liệu có 16 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống