TOP 27 bài Suy nghĩ về nhân vật chị Dậu 2023 SIÊU HAY

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ hay nhất, gồm 10 trang trong đó có sơ đồ tư duy, dàn ý phân tích chi tiết và 27 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

SUY NGHĨ CỦA EM VỀ NHÂN VẬT CHỊ DẬU QUA ĐOẠN TRÍCH TỨC NƯỚC VỠ BỜ

Bài giảng: Tức nước vỡ bờ

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 1

Cùng với Nam Cao, Vũ Trọng Phụng thì nhà văn Ngô Tất Tố cũng được biết đến là một cây viết xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -1945. Trong đó nổi tiếng nhất có thể kể đến tác phẩm Tắt đèn, nhân vật chị Dậu đã để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm và ấn tượng sâu sắc.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một trong những đoạn hay nhất để phản ánh hiện thực xã hội bấy giờ. Đồng thời đã đẩy nhân vật chị Dậu trở thành hình mẫu tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam. Chị Dậu có một hoàn cảnh vô cùng bi đát. Vì không có tiền sưu thuế cho chồng mà anh Dậu chồng chị đã bị bắt trói đánh đập dã man. Người đàn bà ấy đã phải chạy vạy khắp nơi để mong có nổi tiền nộp sưu cứu chồng. Ấy thế nhưng trong cái xã hội chỉ toàn những người khốn khổ như chị thì ai có thể cho chị hi vọng đây? Cực chẳng đã chẳng còn cách nào chị đành dứt ruột bán đi đàn chó, bán nốt dõng khoai và đứa con gái bảy tuổi đi. HÌnh ảnh đứa con gái khóc ngất “Xin u đừng bán con” khiến người đọc ám ảnh không thôi. Câu nói ấy như xát muối vào lòng của người mẹ. Chị cũng phải đứt từng đoạn ruột để bán đi đứa con của mình đấy chứ. Nhưng nếu không làm thì chị biết làm gì để cứu chồng đây?

Có tiền cứu chồng ra tưởng như vậy đã qua cơn bĩ cực thì hình như cuộc đời vẫn không ngừng trêu đùa chị. Bọn cường hào ác bá kéo đến bắt chị phải nộp khoản sưu cho đứa em chồng chết năm ngoái. Thử hỏi đến một suất sưu chị đã sức cùng lực kiệt rồi thêm suất nữa chị phải làm thế nào? Lấy đâu ra chó lấy đâu ra con mà bán nữa? Thế nhưng dù hoàn cảnh khốn cùng đến đâu cũng không thể hoài nghi chị là một người vợ một người mẹ hết lòng vì chồng con. Khi anh Dậu được trả về chị tìm mọi cách cứu chữa cho chồng. Nhưng khốn đốn quá mức khiến chị chẳng còn có nổi nắm gạo nấu cho chồng bát cháo. Mà phải đến khi hàng xóm đến thăm hỏi cho mượn tạm bát gạo chị mới nấu tạm cho chồng được bát cháo loãng. Hình ảnh người vợ bế đứa con rúm ró ngồi an ủi chồng khiến bao người rơi nước mắt. Giữa tiếng tù và tiếng trống giục sưu nổi lên hình ảnh này như xua tan sự bất công và vô nhân tính. Chị Dậu người đàn bà tội nghiệp khẩn khoản mời chồng “thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xốt ruột” chứa đựng biết bao nhiêu tình yêu thương, quý trọng. Khi bọn cường hào ác bá tay roi tay thước lao vào nhà mình định bắt chồng đi lần nữa thì người đàn bà ấy đã vùng lên trở thành một con người khác. Chị Dậu đã vùng dậy trở nên cứng rắn hơn bao giờ hết. Hắn quát tháo bắt nhà chị phải nộp thêm một suất sưu nữa. Quát tháo không có khất sưu rồi hùng hổ định lao vào anh Dậu đã ngã vật ra phản. Chị Dậu trở nên yếu thế chị liên tục van xin khẩn khoản quỳ lạy thế nhưng thay vì cảm thông tên cai lệ xông vào bịch luôn mấy bịch vào ngực chị rồi tát đánh bốp vào mặt chị.

Top 15 bài Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ 2022 hay nhất (ảnh 1)

Lúc này dường như sự chịu đựng đã đến giới hạn “tức nước vỡ bờ” chị đã kiên quyết chống trả để bảo vệ nhân phẩm của mình đồng thời bảo vệ cả người chồng ốm đau của mình. Hình ảnh chị vùng lên nghiến hai hàm răng như thách thức : mày trói chồng bà đi mày cho mày xem, rồi nhảy vọt lên như một cách phản kháng vô cùng mạnh mẽ. Nhà văn Ngô tất Tố vô cùng hả hê khi miêu tả cảnh vùng lên của chị Dậu. Từ chỗ khúm núm nhún nhường chị đã đứng lên ấn dúi khiến cho bọn chúng ngã chỏng quèo. Tên hầu cận lí trưởng bị chị túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm… Với chị hình như lúc này nhà tù thực dân đã chẳng còn đủ sức mạnh khiến chị run sợ nữa rồi. Hình ảnh của chị Dậu trong buổi nộp sưu thuế cũng là hình ảnh chung của người nông dân khốn khổ thời bấy giờ. Cuộc sống đầy cơ cực rối ren mà còn phải chịu biết bao sự áp bức bóc lột đến kiệt quệ. Sự vùng lên của chị cũng thể hiện một quy luật tất yếu của cuộc sống có áp bức có đấu tranh.

Với việc xây dựng tình huống độc đáo, miêu tả chân thực ngôn ngữ dung dị gắn liền với đời sống nhà văn đã khắc học một nhân vật chị Dậu vô cùng thành công. Sự phát triển trong tâm lí của chị vô cùng phù hợp với hoàn cảnh. Một người đàn bà điển hình cho sự cần cù chịu khó yêu thương chồng con nhưng cũng tiềm ẩn bên trong là sức sống tiềm tàng mạnh mẽ khi cần. Xây dựng nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố tập trung khắc họa hành động, lời nói để làm nổi bật tính cách của chị. Ở “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu hiện lên trở thành tiêu biểu cho người nông dân trong thời kì bấy giờ, có áp bức và có đấu tranh. Ở đây, ta thấy được cái nhìn đầy nhân đạo của Ngô Tất Tố dành cho người nông dân, khi đồng cảm cho thân phận, nỗi khổ của họ, đồng thời cũng trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của những con người chân lấm tay bùn ấy. Có phải, những điều ấy làm nên sức sống muôn đời cho tác phẩm?

Dù hôm nay hay mai sau, “Tắt đèn”, “Tức nước vỡ bờ” và chị Dậu sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt, như ánh sáng của sức mạnh chị tạo ra trong chính cuộc đời của mình!

Sơ đồ tư duy

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ hay nhất ( 4 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật cần phân tích

- Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc viết về đề tài ngươi nông dân trước Cách mạng Tháng Tám.

- Trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ" trong tiểu thuyết " Tắt đèn", nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu. 

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh sáng tác 

- Tác phẩm "Tắt đèn" viết năm 1936, xã hội bấy giờ là thực dân nửa phong kiến, người nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức. 

- Nhân vật chị Dậu đã góp một mảng màu chân thực vào hiện thực bấy giờ, đồng thời còn thể hiện chiều sâu tư tưởng và nhân đạo của nhà văn.

b. Phân tích nhân vật chị Dậu

b.1 Số phận:

- Có hoàn cảnh đáng thương.

- Là người nông dân nghèo, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh khoai, ổ chó và đứa con gái là cái Tý cho ông Nghị Quế nhưng cũng không đủ...

- Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường trói anh suốt ngay đêm sai tay chân vác anh về như cái xác chết rũ rượi. Mọi gánh nặng đổ dồn lên vai chị.

- Gánh nặng sưu thuế đã dồn người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ra sức bóc lột nông dân với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là nạn nhân trong xã hội ấy.

b.2 Phẩm chất

- Người vợ, ngươi mẹ giàu tinh yêu thương

- Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm đủ mọi cách để cứu chồng.

- Dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng 

- Bán đi đứa con minh đứt ruột đẻ ra, lòng chị quặn thắt nhói đau.

- Người phụ nữ đúng mực có cương có nhu đúng lúc đúng chỗ

c. Đánh giá:

- Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng vốn từ ngữ giàu có sinh động

- Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu

- Thể hiện chiều sâu nhân đạo cũng như triết lý: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.

3. Kết bài

- Cảm nhận của em về nhân vật chị Dậu

- Thông qua chị Dậu ta thêm hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Top 15 bài Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ 2022 hay nhất (ảnh 2)

Các bài mẫu khác

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 2

Ngô Tất Tố là một nhà văn nổi tiếng, một nhà văn hiện thực xuất sắc, chuyên viết về nông thôn trước cách mạng. Ông có rất nhiều tác phẩm đặc sắc, một trong số đó tiêu biểu là tiểu thuyết ” tắt đèn”. Dưới ngòi bút hiện thực sinh động với khả năng tạo dựng tình huống truyện giàu kịch tính đã khắc họa rõ nét nhân vật, đặc biệt là nhân vật chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, chị đại diện cho cảnh ngộ khốn khổ và phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà  nhà quê trước năm 1945.

Đoạn trích ” tức nước  vỡ bờ” được trích trong chương XVIII của tác phẩm “Tắt đèn” . Đoạn trích đã vạch rõ bộ mặt xấu xa tàn ác của bọn xã hội thực dân phong kiến đương thời – xã hội đã đẩy người nông dân lương thiện vào cảnh vô cùng cực khổ bế tắc khiến họ phải liều mạng cự lại, đồng thời đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân Việt Nam cần cù lao động, giàu tình thương yêu chồng, thương con, dũng cảm chống lại bọn cường hào. Đoạn trích còn phản ánh một quy luật sống ở đời. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh.

Trong truyện, chị Dậu là một người nông dân nghèo khổ, mộc mạc, hiền dịu đầy lòng vị tha và đức hi sinh cao cả. Trong những ngày sưu thế ngột ngạt, tai nạn luôn lảng vảng, rình rập xung quanh những gia đình nghèo thiếu thuế. Trong lúc nước sôi lửa bỏng chị một mình cái thân xơ xác đôn đáo chạy vạy ngược xuôi để lo xuất sưu cho chồng, cho chú Hợi- em trai chồng, chị đành phải đứt ruột bán cái Tí, đứa con đầu lòng 7 tuổi bán đàn chó chưa mở mắt cùng một gánh khoai mà cũng chưa đủ tiền nộp sưu, chồng chị vẫn bị đánh trói. Anh Dậu được khiêng về nhà rũ rượi như một cái xác chết. Chị đã nấu cháo, quạt cho nguội rồi đi rón rén bưng cháo cho chồng, ngồi xem chồng có ăn ngon miệng không? Qua đó, ta thấy chị Dậu là người phụ nữ Việt Nam đảm đang, dịu dàng, chu đáo, tháo vát, chịu thương, chịu khó, tần tảo, tận tụy, là người phụ nữ giàu tình yêu thương chồng con hết mực.

Video bài văn mẫu Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ

Chị Dậu đã phải vùng lên, đánh nhau với người nhà lý trưởng và tên cai lệ để bảo vệ mạng sống cho chồng của mình. Lúc đầu, khi tên cai lệ và người nhà lý trưởng xồng xộc vào, chị đã cố van xin tha thiết, lễ phép, nhã nhặn vì biết chúng là ” người của nhà nước”. còn chồng chị là kẻ cùng định có tội. Chị run run xin khất rồi vẫn tha thiết van nài nhưng chúng không nghe. Tên cai lệ đã đáp lại chị bằng một quả ” bịch” vào ngực chị mấy bịch rồi sắn sổ tới trói anh Dậu. Chỉ khi đó chị mới liều mạng cự lại, bạn đầu chị cự lại bằng lí “chồng tôi đau ốm ông không được phép hành hạ” , lúc này chị đã thay đổi cách xưng hô không còn xưng cháu gọi ông mà lúc này là ông- tôi. Bằng sự thay đổi đó chị đã đứng lên vị thế ngang hàng, nhìn thẳng vào mặt tên cai lệ để đấu thách thức chúng. Khi tên cai lệ không còn trả lời mà con tát  vào mặt chị Dậu mộ cái đánh bốp rồi nhảy vào cạnh anh Dậu thì chị đã đứng dậy với niềm căm giận ngùn ngụt ” chị Dậu nghiến hai hàm răng lại, mày chói ngay chồng bà đi bà cho mày xem”. Lúc này cách xưng hô  đã thay đổi, đó là cách xưng hô đanh đá của người đàn bà thể hiện sự căm thù ngùn ngụt khinh bỉ cao độ. Đồng thời, thể hiện tư thế của người đứng trên đầu kẻ thù và sẵn sàng chiến đấu, đè bẹt đối phương đấu lực với chúng, trong con người của chị Dậu như tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng bị đẩy đến bước đường cùng chị đã vùng lên chống trả quyết liệt, thể hiện một thái độ bất khuất.

Mặc dù chị là người nông dân mộc mạc, hiền dịu đầy lòng vị tha và đức hi sinh cao cả, nhưng không hoàn toàn yếu đuối mà tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng, ẩn sâu trong con người chị, chị là một phụ nữ có tính cách mạnh mẽ cứng cỏi với một tinh thần khỏe khoắn, dũng cảm một sức sống mạnh mẽ tiềm tàng nên sẽ không thể bị khuất phục trước những khó khăn cản trở nào. Có thể nói chị Dậu là điển hình về cuộc đời và số phận của người nông dân trong xã hội cũ, dù sống trong hoàn cảnh tối tăm cực khổ nhưng họ vẫn ánh lên được phẩm chất cao đẹp của người nông dân hiền lành lương thiện giàu tình  yêu thương, giàu lòng tự trọng. 

Tóm lại, chị Dậu mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nông dân giàu sức sống dưới ách áp bức của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến khi chưa bắt gặp ánh sáng đảng.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 3

Tức nước vỡ bờ thuộc một phần nhỏ trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Tác phẩm cho thấy bộ mặt tàn ác của lũ thực dân nửa phong kiến ra sức đàn áp, bóc lột nhân dân. Nhưng trên hết vẫn là sự ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người nông dân mà đại diện chính là chị Dậu.

Hoàn cảnh gia đình chị Dậu hết sức nghèo khó, khốn khổ, gia đình chị là hạng cùng đinh trong làng. Những ngày đóng sưu là những ngày khốn đốn, cực khổ nhất của gia đình chị. Chị phải bán cả chó, cả con mà vẫn không đủ tiền sưu cho chồng và người em đã mất. Đằng sau nỗi thống khổ ấy lại hiện lên một người phụ nữ vô cùng đẹp đẽ về nhân cách. Trước hết chị là người yêu chồng, thương con tha thiết. Anh Dậu vừa được thả về, chị Dậu được bà cụ hàng xóm cho ít gạo, chị nấu cháo cho cả nhà ăn. Cháo nguội chị mang đến một bát lớn đến chỗ chồng, dùng những lời lẽ thật dịu dàng động viên anh Dậu: “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” rồi cố nán lại xem chồng ăn có ngon miệng hay không. Chị quả thật là một người phụ nữ đảm đang, chu đáo và hết sức quan tâm đến chồng. Anh Dậu vừa thoát chết sau trận đòn ngoài đình, chưa kịp ăn bát cháo thì bọn cai lệ đã ập tới. Vấn đề quan trọng nhất với chị lúc này là làm sao giữa được tính mạng cho chồng. Đặt chị Dậu vào tình huống nguy cấp, gay cấn như vậy một lần nữa giúp bộc lộ tình yêu thương chồng sâu nặng của chị. Bọn cai lệ vô cùng hung hãn, chúng xông vào định bắt trói anh Dậu lôi ra ngoài đình. Trước tình thế đó, ngay lập tức chị Dậu đã van xin tên cai lệ và nhưng mọi lời van xin đều bị cự tuyệt, chị còn bị tên cai lệ đánh, cuối cùng chị đứng lên đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng, quyết tâm bảo vệ chồng đến cùng. Trước cường quyền, chị không hề tỏ ra nao núng sợ hãi, mối quan tâm duy nhất của chị là phải bảo vệ được người chồng đang đau ốm của mình. Không chỉ là một người phụ nữ yêu thương chồng con chị còn là một người có sức phản kháng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Sự phản kháng của chị được thể hiện qua các chặng hết sức logic với nhau. Lúc đầu chị tha thiết van xin, hi vọng rằng chúng thương tình mà tha cho chồng chị: “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc ông tha cho”. Tiếp đến là chị cự lại bằng lí lẽ: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô của chị đã có sự chuyển biến từ “ông-con” chuyển sang “ông-tôi” cho thấy chị không còn kẻ dưới mà là kẻ ngang hàng. Đỉnh cao của tinh thần phản kháng là màn đấu lực: “Chị Dậu nghiến hai hàm răng: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Cách xưng hô cho thấy chị Dậu đã ở trong tư thế khác, tư thế của kẻ bề trên. Nói đoạn chị liền túm lấy cổ tên cai lệ ấn dúi ra cửa, kết quả của màn đấu lực phần thắng đã thuộc về chị Dậu. Các chặng phát triển trên cho thấy Ngô Tất Tố đã miêu tả chính xác cảnh “tức nước vỡ bờ” của người nông dân. Mặc dù hành động phản kháng của chị Dậu là bột phát nhưng cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của người nông dân. Chị Dậu là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp và truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Để xây dựng bức chân dung đẹp đẽ về nhân cách chị Dậu tác giả đã vận dụng linh hoạt các yếu tố nghệ thuật khác nhau. Trước hết là xây dựng tình huống truyện giàu kịch tính, căng thẳng, phát triển theo tầng bậc từ đó bộc lộ tính cách tốt đẹp của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ và hành động của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, đặc biệt tác giả sử dụng lớp ngôn từ giàu tính khẩu ngữ, góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách của đối tượng. Bằng ngòi bút đậm chất hiện thực, Ngô Tất Tố không chỉ vạch trần bộ mặt bất nhân của giai cấp cầm quyền mà còn cho thấy vẻ đẹp của người nông dân. Nhân vật chị Dậu là đại diện tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân Việt Nam: giàu tình yêu thương và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Đằng sau trang văn còn thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca với những người phụ nữ Việt Nam. Bằng ngòi bút hiện thực xuất sắc, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu là điển hình xuất sắc của người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tuy đói nghèo nhưng vẫn giàu tình thương và tiềm ẩn trí căm thù, vẫn giàu sức mạnh để chống lại cường quyền, áp bức. Qua đó, nhà văn giúp ta hiểu sâu sắc một quy luật xã hội : tức nước thì vỡ bờ, có áp bức thì sẽ có đấu tranh. Với sự khéo léo trong nghệ thuật khắc họa nhân vật cùng việc lựa chọn từ ngữ chính xác, sinh động, đoạn trích “ Tức nước vỡ bờ” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu- một điểm sáng đặc biệt trong nền văn học Việt Nam. Hình tượng chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc về hình ảnh người phụ nữ mang trong mình một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác, cùng với đó là tấm lòng giàu yêu thương của một người phụ nữ.

Ngô Tất Tố đã thành công xây diễn tả được cái khổ, cái khó đến cùng cực của người dân ở một nước thuộc địa. Thể hiện tiếng nói phản đối lại bất công, cường quyền. Tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thực dân cướp đi quyền sống của con người.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 4

Nhắc đến nhà văn Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là ta nhớ đến tiểu thuyết "Tắt đèn", là ta nghĩ đến thân phận chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, cần cù lao động, giàu tình thương chồng, thương con, dũng cảm chống lại bọn cường hào. Nhà văn Ngô Tất Tố đã xây dựng nhân vật chị Dậu tiêu biểu cho cảnh ngộ khốn khổ và phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà quê trước năm 1945. Cảnh Tức nước vỡ bờ trong Tắt đèn đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật Dậu.

Hoàn cảnh của chị Dậu thật đáng thương. Chị phải bán gánh khoai, bán ổ chó và đứt ruột bán đứa con gái lên bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế, mới đủ nộp suất sưu cho chồng. Nhưng anh Dậu vẫn bị trói ở sân đình, vì còn thiếu một suất sưu nữa. Chú Hợi là em ruột anh Dậu, chết từ năm ngoái nhưng chết cũng không trốn được sưu nhà nước nên gia đình anh Dậu phải nộp suất sưu ấy. Anh Dậu đang ốm nặng, bị trói suốt ngày đêm, anh ngất xỉu đi như chết. Bọn cường hào cho tay chân vác anh Dậu rũ rượi như cái xác đem đến trả cho chị Dậu. Đau khổ, tai họa chồng chất đè nặng lên tâm hồn người đàn bà tội nghiệp.

Không thể không khẳng định, chị Dậu là một người vợ, một người mẹ giàu tình thương.Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm mọi cách cứu chồng. Tiếng trống, tiếng tù và đã nổi lên. Chị Dậu cất tiếng khẩn khoản, thiết tha mời chồng: thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Lời người đàn bà nhà quê mời chồng ăn cháo lúc hoạn nạn, chứa đựng biết bao tình thương yêu, an ủi vỗ về. Cái cử chỉ của chị Dậu bế cái Tỉu rồi xuống cạnh chồng cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ đối với người chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào đe doạ! Chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi đã dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng. Bọn cai lệ và tên hầu cận lý trưởng, lũ đầu trâu mặt ngựa với tay thước, roi song, dây thừng lại sầm sập xông vào nhà chị Dậu thét trói kẻ thiếu sưu. Anh Dậu vừa run rẩy kề miệng bát cháo, nghe tiếng thét của tên cai lệ, anh đã lăn đùng xuống phản! Tên cai lệ chửi bới một cách dã man. Hắn gọi anh Dậu là thằng kia hắn trợn ngược hai mắt quát chị Dậu: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất. Chị Dậu đã hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin ông trông lại. Tên cai lệ mỗi lúc lại lồng lên: Đùng đùng, (…) giật phắt cái thừng trong tay anh hầu cận lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu ra đình. Chị Dậu van hắn tha cho… thì hắn bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát đánh bốp vào mặt chị, rồi nhảy vào cạnh anh Dậu. Một ngày lạ thói sai nha – làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền (Nguyễn Du). Để tróc sưu mà tên cai lệ, "kẻ hút nhiều xái cũ” đã hành động một cách vô cùng dã man. Mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn, hơn nữa, để bảo vệ tính mạng của chồng, bảo vệ nhân phẩm của bản thân, chị Dậu đã kiên quyết chống cự: chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Không thể lùi bước, chị Dâu đã nghiến hai hàm răng thách thức: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!"

Tư thế của chị Dậu có một bước nhảy vọt. Từ chỗ nhún mình tự gọi là cháu, gọi tên cai lệ bằng ông y sau đó là mày. Chị đã vỗ mặt hạ uy thế và hạ nhục chúng! Hai kẻ đốc sưu định trói kẻ thiếu sưu nhưng chúng đã bị người đàn bà lực điền trừng trị. Tên cai lệ bị chị Dậu túm lấy cổ y ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất! Tên hầu cận lý trưởng bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Với chị Dậu, nhà tù của thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ. Trước sự can ngăn của chồng, chị Dậu vẫn chưa nguôi giận: "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…" . “Con giun xéo mãi cũng quằn” và  chị Dậu cũng vậy, bị áp bức dã man, tính mạng bị đe dọa, chị đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm. Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một nhận xét rất thú vị rằng trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra…Ngô Tất Tố rất hả hê khi tả cảnh chị Dậu cho tên cai lệ và tên hầu cận một bài học đích đáng. Ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội: “Có áp bức có đấu tranh”.

Cảnh “Tức nước vỡ bờ” rất sống động và giàu tính hiện thực. Đoạn văn như một màn bi hài kịch, xung đột diễn ra căng thẳng đầy kịch tính. Hình ảnh chị Dậu được miêu tả rất chân thực. Chị giàu lòng thương chồng, vừa rất ngang tàng, cứng cỏi. Chị hạ nhục tên cai lệ là mày, tự xưng là bà. Cái nghiến hai hàm răng, cái ấn dúi, cái túm tóc lẳng một cái và câu nói: “Thà ngồi tù…” đã nêu cao tầm vóc lớn lao đáng kính phục của chị Dậu, một người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ. Từ hình ảnh Cái cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non đến hình ảnh chị Dậu trong Tắt đèn, ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam trong văn học đã có một bước phát triển mới cả về tâm hồn lẫn chí khí.Câu nói đầy vẻ thách thức cùng với hành động quyết liệt vừa là một câu biểu hiện của lòng thương yêu chồng, vừa cho thấy sự dũng cảm, tinh thần đấu tranh quyết liệt của chị.  Rõ ràng là "tức nước bờ"!  Câu nói đầy khí phách của chị Dậu "Thà ngồi tù chứ để cho bọn chúng làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được" biểu hiện mãnh liệt sức phản kháng, lòng căm thù giai cấp chất chứa từ lâu. Bao nhiêu nỗi tủi nhục bấy lâu chị cam chịu, giờ đây không dằn được nữa, nhất là chúng đã cố tình hành hạ anh Dậu. Chị đã lấy thân che chở cho chồng mà cũng không yên, cuối cùng chị đã vùng lên đấu tranh chống lại áp bức với một sức mạnh quật khởi của lòng căm thù.

Tức nước vỡ bờ miêu tả một quá trình tâm lý. Ngô Tất Tố đã tạo ra một tình huống giàu kịch tính để rồi cứ thế nhân vật chính va chạm với những tính cách khác từ đó bộc lộ phẩm chất của mình. Quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu diễn ra nhanh chóng nhưng tinh tế. Đặc biệt nó rất phù hợp với quy luật phát triển tính cách cũng như hoàn toàn phù hợp với phẩm chất con người nhân vật. Đó là một sự thể hiện có tính toán và rất sắc sảo của nhà văn.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 5

Trong nền văn học hiện thực phê phán thời kì 1930-1945 không thể không nhắc tới những cái tên các tác giả nổi bật như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,… Và có lẽ chúng ta không thể nào quên được hình ảnh chị Dậu - điển hình của người phụ nữ thời kì đó.

Đó là hình ảnh một người phụ nữ luôn hết lòng vì chồng con, mang nặng đức hi sinh nhưng không còn sự yếu đuối nhu nhược của người phụ nữ thời kì phong kiến mà đã có sự phản kháng mạnh mẽ chống lại những thế lực luôn chèn ép, bắt buộc những người nông dân thời kì bấy giờ, do đó có lẽ đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn đắt giá nhất trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc để lại trong lòng người đọc cho tới tận hôm nay.

Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng Đông Xá trong những ngày đang bị bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là một trong những gia đình khó khăn nhất trong làng. Vì không thể trả nổi mức thuế cao vô lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng bắt trói lại, đánh đập dã man.

Cực chẳng đã, chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ, chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà Nghị Quế với mức giá rẻ mạt để có tiền cứu chồng ra khỏi tay của bọn cường hào. Qua đây, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông dân tuy thất học nhưng luôn hết lòng vì chồng, phải cáng đáng công việc mà đáng lẽ ra dành cho người đàn ông trong gia đình.

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình, đang thoi thóp, kiệt quệ, không thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về thể xác và tinh thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp sưu. Ấy vậy mà bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở ngoài sân, trao trả lại cho chị và đòi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em trai chồng đã mất từ năm ngoái.

Đó là một điều đòi hỏi vô lí, thế nhưng chị vẫn phải nhẫn nhục. Đau khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dằn lòng, cố gắng đưa cho chồng bát cháo loãng, dù chính mình còn chưa có gì ăn. Chị chỉ nhẹ nhàng bảo với chồng: "Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Lời của người đàn bà nhà quê tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình cảm mà ít ai sánh được.

Thậm chí, chị còn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn xem anh ăn có được hay không, có ngon miệng không. Tình cảm của chị phải son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào mới có thể được như vậy trong lúc hoàn cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy. Và có lẽ chính tình yêu thương bao la ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào, định cưỡng ép tới bức đường cùng hoàn cảnh của anh chị.

Đám tay sai khi tiến vào cùng roi da, gậy gộc, điều làm đầu tiên của chị là nghĩ tới người chồng đáng thương của mình. Chị lo lắng anh không thể chịu nổi bất cứ trận đánh nào nữa. Anh đã hoàn toàn kiệt sức sau đêm qua. Chị chỉ có thể cầu xin bằng giọng nói run run, đầy hèn mọn, nài nỉ: "Hai ông làm phúc nói với ông Lý xin cho cháu khất”. Chị cư xử như vậy là bởi vì chị biết hoàn cảnh của mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông dân như bao con người khác mà thôi.

Lúc này chị không còn nghĩ được gì ngoài ý chí sôi sục phải bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cũng những đứa con thơ dại. Thế nhưng, những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người nào. Chúng bỏ ngoài tai lời van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói anh Dậu dẫn đi, lúc này đây, chị đã phải quỳ xuống cầu xin: "Cháu xin ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc”. Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về phía anh Dậu vừa mới tỉnh lại trong chốc lát.

Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói “chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. Chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng.

Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. Đến lúc này, chị Dậu đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra, hai tay chống nạnh nói “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”.

Đúng như câu nói “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé, hèn kém, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà - mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị.

Chị lao vào những tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo vệ những người thân yêu xung quanh mình, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc vào bức đường cùng.

Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép buộc. Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói: "Trên cái tối trời, tối đất của xã hội ngày xưa, hiện lên một chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra…”.

Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã miêu tả lại sâu sắc hình ảnh đầy màu sắc hiện thực của xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng. Cùng với nó, hình ảnh chị Dậu cũng được khắc họa một cách rõ nét, dung hòa hai tính cách khác nhau, đối với những người thân yêu bên cạnh, chị luôn dịu dàng, sẵn sàng hi sinh bất cứ điều gì, thế nhưng với những kẻ xấu, chị bất chấp tất cả để chiến đấu cùng chúng. Đó cũng có lẽ là một sự thay đổi lớn trong hình ảnh của người phụ nữ cả về khí chất và tính cách. 

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 6

Những người nông dân gặp nhiều đau khổ, bất hạnh nhưng vẫn vươn lên trong cuộc sống, giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp, là hình ảnh ta dễ dàng nhận thấy trong những tác phẩm văn học giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Và khi đọc những tác phẩm ấy, người đọc chắc chắn không thể nào quên hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ, sống trong cảnh khốn cùng nhưng vẫn hết lòng yêu thương chồng con và có một sức mạnh tiềm tàng mạnh mẽ. Người phụ nữ đó chính là chị Dậu trong Tắt đèn, hay rõ nét hơn ở tính cách của chị là trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ.

Nhân vật chị Dậu có hoàn cảnh rất đáng thương. Nhà nghèo, lại nợ tiền sưu thuế, chị phải bán gánh khoai, ổ chó mới sinh và cả đứa con gái mới lên bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế để có tiền nộp sưu thuế cho chồng. Vậy mà vẫn không xong, anh Dậu chồng chị vẫn bị bắt trói, đánh đập ở ngoài sân đình, vì còn thiếu suất sưu của chú em chồng đã mất từ năm ngoái

Đã chết cũng không được trốn sưu nhà nước nên vợ chồng chị Dậu vẫn phải nộp suất sưu ấy. Anh Dậu đã sẵn bệnh tật ốm đau, lại thêm bị trói cả ngày đêm ở sân đình nên người lả đi tưởng chết. Bọn tay chân cường hào thấy vậy, liền vác anh trở về nhà trả cho chị Dậu.

Chị Dậu là một người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương. Nhìn chồng như vậy, chị Dậu đau đớn không kìm được nước mắt. Chị tìm mọi cách để cứu chồng qua cơn nguy kịch. Chị thiết tha xin chồng húp tạm hớp cháo cho đỡ xót ruột. Bát cháo như chứa đựng biết bao tình yêu thương của chị dành cho chồng.

Chị bế cái Tỉu ngồi cạnh chồng, nhìn xem chồng có ăn ngon miệng không, khiến cho ta thấy rõ được tình yêu, sự chăm sóc hết mực của chị khi chồng đang đau ốm, đứng trước cơn nguy kịch đến tính mạng. Không chỉ thế, chị còn là một người cứng cỏi, dũng cảm, dám đứng lên chống lại bọn cường hào để bảo vệ cho người chồng mà chị thương yêu.

Bọn cai lệ, tay chân của lý trưởng sầm sập xông đến, tay roi tay thước thét trói đánh anh Dậu. Anh Dậu chưa kịp húp nổi miếng cháo, đã bị tiếng thét của chúng làm cho sợ ngã lăn đùng ra phản. Chúng chửi bới anh Dậu không ra gì, rồi trợn ngược mắt quát chị Dậu. Chị Dậu van xin hắn, xin khất nợ, xin chúng xem xét lại…

Nhưng không, hắn lại càng lồng lộn lên, chạy đến chỗ anh Dậu để bắt trói ra đình. Thấy chị Dậu van xin, hắn bịch luôn vào ngực chị, rồi tát đánh bốp vào mặt chị. Hắn lao đến cạnh anh Dậu, định bắt trói anh. Đến lúc này chị không thể chịu được nữa, điều gì cũng có giới hạn. Để bảo vệ cho chồng, chị đã dũng cảm chống cự lại. Chị nghiến hai hàm răng thách thức chúng:

– Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!

Chị Dậu đã thay đổi thái độ một cách không thể ngờ. Đang hạ mình van xin, sợ sệt chúng, giờ chị đã vỗ ngực tự tin đe dọa lại chúng. Thậm chí, chị còn thẳng tay trừng trị hai tên cai lệ định xông tới trói chồng chị. Những kẻ hút nhiều sái cũ làm sao có đủ sức mạnh để chống lại người đàn bà lực điền quanh năm lam lũ. Chúng bị chị túm cổ, ấn dúi ra cửa, một tên bị chị túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra ngoài thềm.

Chị chẳng còn gì để mà sợ nữa, thà ngồi tù, còn hơn để chúng làm tình làm tội. Chị đã cố gắng nhịn nhục, nhưng vì chúng càng được đà lấn tới, áp bức, bóc lột dã man, đe dọa tính mạng của chồng chị, nên chị đã dũng cảm vùng lên để chống trả lại chúng. Đúng như câu “Con giun xéo mãi cũng quằn”, trong hoàn cảnh áp bức, con người sẽ phải vùng lên để đấu tranh.

Thật vậy, chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ" được Nguyễn Tuân miêu tả rất sống động và chân thực. Người phụ nữ giàu tình yêu thương dành cho gia đình, chồng con, giàu đức hy sinh. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, chị cũng sẵn sàng đứng lên đấu tranh vì gia đình, vì người thân yêu của chị. Chị là một điển hình của tấm gương những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. 

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 7

Trong giai đoạn 1936 - 1939, văn đàn Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trí, hình thành một trào lưu văn học hiện thực phê phán mạnh mẽ xã hội và phản ánh sinh động cụ thể những nỗi đau khổ, lầm than của nhân dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực phê phán xuất sắc của dòng văn học này.

Tắt đèn là một tác phẩm thành công nhất của Ngô Tất Tố. Đó là một bản cáo trạng lên án chế độ thối nát của bọn thực dân phong kiến, đồng thời Tắt đèn còn xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu, tiêu biểu cho phụ nữ nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với những phẩm chất tốt đẹp: yêu thương chồng con sâu sắc và có tinh thần đấu tranh chống áp bức.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ kể lại sau khi anh Dậu bị ngất xỉu ở sân đình, sợ bị vạ lây, bọn tay sai đem anh Dậu trả về cho gia đình như một cái xác chết. Chị Dậu cùng bà con hàng xóm ra sức chăm sóc cho anh Dậu. Chị vô cùng đau đớn xót xa, lo lắng cho mạng sống của chồng. Chị ân cần chăm sóc từng giấc ngủ, từng bữa ăn cho anh Dậu.

Trong lúc anh Dậu đau nặng, chị đã rón rén bưng một bát cháo lớn đến chỗ chồng nằm và dịu dàng nói "Thầy hãy cố dậy húp một ít cháo cho đỡ xót ruột". Rõ ràng chị đã tận tụy, hết lòng chăm sóc chồng. Việc làm của chị xuất phát từ lòng yêu thương chân thành sâu sắc của người vợ. Chị cố ngồi xem chồng có ăn ngon miệng không. Hình ảnh này khiến em liên tưởng đến bà Tú, vợ của Tú Xương cũng tần tảo, đảm đang lo lắng và hy sinh tất cả cho chồng con.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Những tình cảm cao đẹp đó chính là đặc điểm tiêu biểu nhất của người phụ nữ Việt Nam. Cũng chính vì tình cảm vợ chồng cao đẹp, chị Dậu đã dũng cảm đấu tranh chống lại bọn tay sai để bảo vệ người chồng yêu quý.

Khi anh Dậu đang run rẩy bê bát cháo lên thì bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đã rầm rập tiến vào với những roi song, tay thước, dây thừng. Chúng chưa hành hung nhưng mồm vẫn còn chửi bới mỉa mai. Đối phó với hoàn cảnh bất ngờ đó, thái độ ban đầu của chị Dậu hoàn toàn bị động, chị run run van xin đến thiết tha nài nỉ: "Khốn nạn nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng thế thôi, xin ông trông lại".

Chị đã hạ mình nhẫn nhục khi xưng hô ông cháu để bảo vệ tính mạng của chồng. Nhưng chúng nào có nghe, bọn tay sai vẫn hung hăng xông tới. Bọn chúng giật phắt dây thừng, đùng đùng chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. Đến giờ phút này, trước sự ức hiếp tàn bạo của chúng, chị không còn nhẫn nhục được nữa, rõ ràng nước càng tức càng vỡ bờ, chị đã chủ động đấu tranh chống lại kẻ thù.

Tinh thần phản kháng biểu hiện ở thái độ và hành động. Chị xám mặt lại và cách xưng hô cũng thay đổi. Lần cuối, chị không gọi chúng bằng ông và xưng con, cháu nữa, mà là mày với bà, chị đã tự đặt mình trên kẻ thù và giành thế chủ động: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Hành động của chị quyết liệt và nhanh như cắt, chị nắm ngay gậy của hắn, túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.

Câu nói đầy vẻ thách thức cùng với hành động quyết liệt vừa là một câu biểu hiện của lòng thương yêu chồng, vừa cho thấy sự dũng cảm, tinh thần đấu tranh quyết liệt của chị. Rõ ràng là "tức nước bờ". Câu nói đầy khí phách của chị Dậu "Thà ngồi tù chứ để cho bọn chúng làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được" biểu hiện mãnh liệt sức phản kháng, lòng căm thù giai cấp chất chứa từ lâu.

Bao nhiêu nỗi tủi nhục bấy lâu chị cam chịu, giờ đây không dằn được nữa, nhất là chúng đã cố tình hành hạ anh Dậu. Chị đã lấy thân che chở cho chồng mà cũng không yên, cuối cùng chị đã vùng lên đấu tranh chống lại áp bức với một sức mạnh quật khởi của lòng căm thù.

Hành động của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ chứng minh rằng "Ở đâu có áp bức là ở đó có đấu tranh". Sự phản kháng của chị Dậu cũng là một biểu hiện tinh thần đấu tranh chống áp bức, dù mang tính cách tự phát, nhưng vẫn thể hiện một tiềm lực tốt của giai cấp nông dân.

Khi có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân vùng lên đấu tranh với sức mạnh quật khởi bằng ý thức tự giác cách mạng. Với nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật qua các diễn biến căng thẳng của tình tiết. Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu. Đó là hình tượng chân thực, đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân trước Cách mạng tháng Tám có lòng thương yêu chồng, có tinh thần đấu tranh dũng cảm chống mọi áp bức, bất công của chế độ thực dân phong kiến.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 8

"Tắt đèn" là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hòa nước mắt và lòng căm phẫn của người nông dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngô Tất Tố cũng không cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ với giai cấp bóc lột và lòng thương người mênh mông!

"Tức nước vỡ bờ" vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng lên cao thì bờ ngoài vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc..., Người ta đã vận dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn.

Tinh huống dẫn đến cảnh ‘tức nước vỡ bờ’ có ngay ở giữa nhà Lí trưởng, chị Dậu, nạn nhân trực tiếp của cái thuế thân quái gở kia đã uất nghẹn kêu lên: "Ối trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi cồn phải đóng sưu hở trời?... "

Như thế là hoàn cảnh đưa đến cảnh "tức nước" là do những trận bão tố từ cái chính sách thuế thân quái gở của bọn thực dân Pháp và những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình Nghị Quế, và hành động đánh trói dã man của bọn lính tráng, tuần đinh, người nhà tên Lí trưởng giội xuống đầu chị Dậu!

Chúng dồn chị đến con đường cùng, khi anh Dậu bị ném ở đình về nằm khóc con, khóc em, khóc số phận mình. Nhưng chị Dậu đã khuyên giải "Thịt người tanh không ai ăn được, thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ không phải lo lắng gì cả".

Như vậy là mức nước đã dâng lên rất cao, cái thời điểm "vỡ bờ" chỉ còn chờ đợi từng giây phút. Người đàn bà ấy đã phải chịu nỗi đau đứt ruột vì phải bán đàn chó và bán con đi mà vẫn không giải quyết được nạn sưu thế. Nhất là khi bọn chúng vất anh Dậu về nhà chỉ còn như cái xác chết, người hàng xóm cho bát gạo, chị nấu cháo vội để "cứu chồng" (bát cháo lúc này vừa là bát cơm vừa là chén thuốc).

Nỗi lo của chị như vừa lắng dịu xuống một chút, vì anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo vào miệng định ăn thì chúng sầm sập tiến vào nhà, trong tay là roi song, dây thừng, hình ảnh chúng như bọn quỷ dữ từ âm phủ hiện về chúng hét "Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!

Thế là cái giọng khàn khàn chỉ hút xác thuốc phiện đã dập tắt ngay sự yên ổn của chị Dậu và hơi tàn của anh Dậu! Anh "lăn đùng ra đó, không nói được câu gì". Trước tình cảnh ấy, chúng chẳng có chút gì mủi lòng mà còn quát mắng, chửi bới, đe dọa chị Dậu. Chúng gọi chị là "mày" xưng "cha" rồi xưng "ông" với chị. Chúng dọa "dỡ nhà" và ‘trói cổ anh Dậu điệu ra đình’!

Cuối cùng tên cai lệ giật phắt cái dây thừng trong tay người nhà Lí trưởng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Đểu cáng và tàn ác hơn nữa, hắn ‘bịch vào ngực chị mấy bịch’ và tát vào mặt chị. Thái độ của chị Dậu đã căm giận lắm, nhưng để bảo vệ chồng, chị van xin, ngăn cản, đỡ đòn cho chồng. Mỗi lần chị lùi lại van xin, tên cai lệ càng hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi hắn nhảy đến cạnh anh Dậu.

Hành động và cử chỉ của tên tay sai mạt hạng chính là ngọn gió gây nên cảnh "tức nước vỡ bờ". Bão táp đã đến độ con bờ phải "vỡ". Sau cái tát vào mặt chị và thêm những lời nói thô lỗ, khốn nạn của hắn như: "mày định nói cha mày nghe đấy à", ‘trói cổ thằng chồng lại’. Chị không chịu được nữa bèn túm lấy cổ hắn dúi ra cửa, hắn "ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu"!

Như vậy, chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn, nước cả có sức mạnh công phá con bờ. Và bọn lính tráng, tay sai chỉ cậy sức mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất của chúng thì hèn yếu, từ cái dáng hình bề ngoài đến lòng dạ bên trong!

Tình huống xảy ra như không thể ngờ chị Dậu lại chống cự mạnh mẽ đến như thế! Lúc đó chị đang tập trung nói ý nghĩ và cử chỉ là an ủi chồng. ‘Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ "xót ruột" thì bọn cai lệ dẫn xác vào. Mặc cho chúng quát tháo chị vẫn dịu dàng van xin chúng bằng những lời có tình, có lí: "Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cho chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền sưu của nhà nước đâu"...

Nếu những con người có lương tri nhìn cái gia cảnh ấy, con người ấy ai nỡ đầy đọa đến bước đường cùng? Nhưng bọn này là tay sai, ở chúng không có khái niệm ‘tình thương người’ nên chúng chỉ biết ăn nói thô tục, quát tháo ầm ĩ, đánh người bừa bãi, chúng có biết đâu rằng có giết vợ chồng chị đi thì cũng không còn đồng xu nào nộp suất sưu vô lí nữa.

Chị gọi chúng là "ông" và tự xưng là "cháu" và đã hai lần chị xin chúng: "Hai ông làm phúc cho nhà cháu khất"... "Nhà cháu đã không có, xin ông xem lại..." Như vậy một bên là cố gắng kìm nén, một bên cứ cậy thế chính quyền, luật pháp mà mắng chửi, xô người đến con đường cùng.

Cho nên tình huống đã trở nên không thể nào khác là "cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng". Sau khi bị tên cai lệ đánh và hắn đe dọa không tha anh Dậu, chị Dậu vùng lên trở thành người đàn bà đanh đá, quyết liệt chống lại bọn chúng: từ chỗ xưng "cháu" với "ông" chị gọi chúng là "mày" và xưng "bà" nói những câu áp đảo lại chúng: "Ông không được phép", "Mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày xem". Nói là làm, chị đã đánh ngã cả hai thằng cả hai tên "đại diện" cho sự thống trị khốn nạn nhất.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 9

Chị Dậu có thể coi là hiện thân đầy đủ nhất những nét tính cách của người phụ nữ Việt Nam. Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn trước Cách mạng, bằng sự am hiểu tâm lí người nông dân và những diễn biến tâm lí trong họ, ông đã xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu mang trong mình một sức sống tiềm tàng mãnh liệt và tình yêu thương gia đình vô bờ.

Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố. Đoạn trích "tức nước vỡ bờ" trích trong chương XVIII của tác phẩm. Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn văn đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời; xã hội ấy đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại và đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiền tàng mạnh mẽ.

Nhân vật chị Dậu là trung tâm của đoạn trích, đoạn trích mở đầu bằng cảnh tiếng trống và tiếng tù và thúc thuế ngày càng đến gần, tiếng chó sủa vang và anh Dậu vừa được đưa từ đình về trong tình trạng hấp hối. Anh Dậu bị bắt bởi chưa nộp đủ suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái!

Thật cùng đường và vô lí hết sức. Người chết vẫn phải nộp sưu, cái xã hội thực dân phong kiến đeo vào cổ người dân nghèo hai tròng, bóc lột họ mọi đường. Anh Dậu bị hành hạ thành như một cái xác chết mới được khiêng trả về và giờ đây chị Dậu đang được bà hàng xóm cho chút gạo nấu bát cháo loãng cho anh Dậu ăn cho lại sức.

Chị Dậu ân cần chăm sóc anh Dậu, mong anh mau khỏe lại. Qua lời nói của chị “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Tình yêu thương của chị Dậu thể hiện cả ở chỗ ấy. Người phụ nữ Việt Nam xưa nay vẫn luôn thế, dù trong hoàn cảnh nào vẫn thủy chung yêu thương gia đình, yêu thương chồng. Tấm lòng già

Nhưng đúng với nhan đề “Tức nước vỡ bờ”, khi bọn cai lệ sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước cùng dây sừng. Chúng thể hiện rõ sự hung ác và bạo ngược của bọn thống trị khiến anh Dậu hoảng quá lăn đùng ra. Bọn chúng đến để bắt anh Dậu nếu chị Dậu không nộp đủ suất sưu còn lại của em chồng đã chết.

Chị dậu run sợ và thiết tha cầu xin chúng cho khất thêm vào ông “Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!” Chị hạ giọng, xưng cháu, gọi ông cho thấy chị rất hạ mình cầu xin nhưng bọn lí trưởng vẫn một mực không hề động lòng. Khi chúng sấm sầm chạy đến chỗ anh Dậu với cái dây thừng thì chị Dậu đã van nài chúng “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”.

Thế nhưng tên cai lệ hung dữ đẩy chị ra và bịch luôn vào ngực chị mấy bịch “Tha này, tha này!” rồi lại sấn đến trói anh Dậu. Lúc này bi kịch đã đến đỉnh điểm cao trào, từ xưng hô “cháu-ông” với bọn chúng, chị chuyển xưng hô ngang hàng, liều mạng cự lại “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”.

Chị đã qua tức giận trước hành động ngang ngược của lũ cai lệ, nhưng một lần nữa cai lệ lại tát vào mặt chị đáp bốp. Cái tát này thực sự đã khiến “tức nước vỡ bờ”, ôi thôi cái gì cũng chỉ có giới hạn, khi này chị Dậu đã nghiến hai hàm răng “Mày trói chồng bà, bà cho mày xem!” Chị đã chống cự lại và đánh trả chúng khiến chúng được một phen hoảng sợ và bỏ chạy.

Sức sống trong chị Dậu vẫn luôn tiềm tàng, ẩn nhẫn chờ ngày bùng phát. Chị đấu tranh cho công lí, cho lẽ phải dù chị biết như vậy có thể sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nhưng mặc kệ, chị đã dõng dạc nói “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”

Câu nói thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của chị. Trải qua từng lần thay đổi xưng hô, cao trào của truyện lại lên một mức cao hơn chỉ chờ bộc phát. Giống như tức nước vỡ bờ! Sự vùng dậy phản kháng của chị Dậu cũng là dấu hiệu của sự vùng dậy của nông dân ta dưới sự áp bức của lũ cường hào ác bá ở xã hội thực dân phong kiến.

Hình tượng chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc về hình ảnh người phụ nữ mang trong mình một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác, cùng với đó là tấm lòng giàu yêu thương của một người phụ nữ.

Ngô Tất Tố đã thành công xây diễn tả được cái khổ, cái khó đến cùng cực của người dân ở một nước thuộc địa. Thể hiện tiếng nói phản đối lại bất công, cường quyền. Tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thực dân cướp đi quyền sống của con người.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 10

“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

Số phận của người nông dân trong thời kì thực dân nửa phong kiến, có lẽ cũng chính là hình ảnh con cò trong câu ca dao ấy. Nhưng trong họ, vẫn lóe lên ánh sáng của tình yêu thương, của sức phản kháng kì diệu. Và ta tìm được những điều ấy trong hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố.

Ngô Tất Tố(1893-1954), là một cây bút hiện thực sâu sắc trong dòng chảy của văn học 1930-1945. Ông thường viết về những người nông dân của làng quê Việt Nam, sống trong cảnh một cổ hai tròng mà mang nỗi uất ức. Những tác phẩm tiêu biểu của ông như “Lều chõng”, “Việc làng”, “Tắt đèn” vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.

Trong đó, tiểu thuyết “Tắt đèn” có lẽ là bức tranh hiện thực sâu sắc, bộn bề nhất mà ông dựng nên về làng quê Việt Nam trong những năm tháng thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm ra đời năm 1939, với những nhân vật như chị Dậu, anh Dậu, Nghị Quế, cái Tí,... đủ những tầng lớp giai cấp để làm nên xã hội thời bấy giờ. Trong đó, hình ảnh chị Dậu là nổi bật hơn cả, với nỗi khổ và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Trước hết, có thể thấy, chị Dậu phải sống trong cảnh tủi nhục đến khôn cùng. Nhà chị thuộc “hạng cùng đinh”, một mình chị gồng gánh lo cho một chồng và ba con. Người phụ nữ nông dân ấy phải lo tiền sưu thuế cho chồng, lại lo cho cả người em chồng đã mất năm ngoái.

Bọn cường hào lý trưởng nào có để chị yên. Không đến phá đám dọa nạt, lại bắt anh Dậu mà hành hạ cho đến chết đi sống lại. Để có tiền lo sưu thuế cho chồng, chị bán đi từng thứ trong nhà. Gánh khoai bán được chị đã bán, giờ phải bán đàn chó con còn chưa mở mắt, và rồi đến cả cái Tí- đứa con gái đầu còn chưa bảy tuổi cho nhà Nghị Quế. Có nỗi đau nào đau hơn lòng người mẹ ấy?

Đến thế mà vẫn chưa đủ tiền nộp sưu cho chồng, chị bị bọn nhà Lý trưởng đến hành hạ, lăng nhục, bị tát, bị đánh không bằng con vật. Qua nỗi khổ của nhân vật chị Dậu ấy, ta nhận ra giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Là hiện thực chân thật đến trần trụi về bộ mặt của xã hội thực dân, chèn ép người nông dân cho đến tận cùng cực. Chúng dùng cái lí do sưu thuế để mà bóc lột, tra tấn họ. Đến cả người chết cũng phải nộp thuế, đến cả người đàn bà chúng cũng hành hạ, thử hỏi xã hội ấy thối nát đến mức nào?

Nhưng đó không phải là lí do để chị Dậu bị kéo xuống bùn đen của ô nhục. Ở chị, vẫn ngời lên những phẩm chất đẹp đẽ mà Ngô Tất Tố nhìn thấy ở người nông dân.

Có thể thấy, chị Dậu dù trong hoàn cảnh nào vẫn là một người phụ nữ giàu tình yêu thương. Sâu sắc nhất là tình thương dành cho người chồng của mình. Vì thương chồng nên chị chạy vạy đi vay nợ, bán chác để có tiền trả sưu thuế cho chồng, để anh Dậu không bị hành hạ. Tình thương ấy thể hiện ngay trong chính lời nói và cử chỉ với chồng. Chị liên tục động viên: “Thầy em cố ăn hết bát cháo cho mau khỏe...”, “chị đón cái Tỉu và ngồi xuống như chờ xem chồng có ăn ngon miệng không”.

Đó dường như đã là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam, ân cần, chu đáo và vị tha. Không một lời trách móc hay kêu ca, chị dành cho chồng sự chăm sóc tận tâm nhất. Đó có lẽ cũng là động lực phát sinh bên trong để chị vùng dậy đánh laj tên cai lệ, bảo vệ cho chồng. Phẩm chất ấy của chị thật đáng quý và đáng trân trọng biết nhường nào!

Nổi bật nhất trong nhân cách của chị Dậu, có lẽ chính là tinh thần phản kháng hết sức mạnh mẽ. Nhan đề có tên là “Tức nước vỡ bờ”, có nghĩa là, khi người nông dân bị đẩy vào hoàn cảnh éo le đến cùng cực, tự khắc họ sẽ phải trỗi dậy để chống lại áp bức ấy. Chị Dậu cũng vậy. Khi anh Dậu còn đang bệnh tật ốm yếu, bọn nhà Lý trưởng cùng tên cai lệ đã xông vào đòi chị nộp sưu, nếu không thì trói anh Dậu bắt đi.

Mặc dù chị đã hạ mình xuống để van xin khẩn thiết, chúng vẫn một mực không nghe, thậm chí còn xô ngã và đánh chị. Đây chính là lúc tức nước mà vỡ bờ! Sự phản kháng thể hiện ngay trong cách xưng hô. Lúc đầu, chị gọi bọn cai lệ là “ông”, xưng là “cháu”, còn thể hiện một sự nhún nhường, với thái độ van xin lễ phép. Nhưng lũ “đầu trâu mặt ngựa” ấy vẫn nhất quyết trói anh Dậu và thậm chị còn “bịch luôn vào ngực chị Dậu”.

Ngay sau lời đó, thái độ xưng hô đã chuyển thành “ông-tôi”, thể hiện sự ngang bằng, thách thức. Chị đã không còn đặt mình bên dười tên cai lệ ấy nữa, tất cả trở về vị trí ngang nhau. Nhưng sau cái tát của tên cai lệ, chị đã gọi hắn là “mày” và xưng “bà”. Chị đã đặt mình lên trên cả bọn cường hào ấy, thể hiện một thái độ thách thức, không ngần ngại đấu tranh với hắn. Ngay từ cách xưng hô, ta đã thấy một thái độ phản kháng mãnh liệt trong tâm hồn người phụ nữ này.

Sức phản kháng của chị Dậu thể hiện rõ nét ở từng hành động của chị. Ban đầu, chị thiết tha, khẩn khoản van nài, “chạy đến đỡ tay hắn”. Nhưng kể từ khi bị tên cai lệ “bịch vào ngực” và “tát vào mặt cái bốp”, một sức mạnh tiềm tàng được bùng phát lên. “Chị túm lấy cổ áo hắn, ấn dúi ra cửa”.

Rõ ràng, đó không còn là khuất phục, mà chính là đứng lên để chiến đấu, để bảo vệ chính mình. Đây chính là điểm sáng trong cái nhìn của Ngô Tất Tố, khi ông nhìn được ở người nông dân sức mạnh tiềm tàng như thế. Đây chính là con đường để người nông dân tự giải thoát cho mình, dẫn họ đến tương lai. Ánh sáng của cách mạng chưa thể đến được nơi đây, nhưng nó đã nhen nhóm lên ngọn lửa để chờ ngày bùng phát.

Xây dựng nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố tập trung khắc họa hành động, lời nói để làm nổi bật tính cách của chị. Ở “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu hiện lên trở thành tiêu biểu cho người nông dân trong thời kì bấy giờ, có áp bức và có đấu tranh. Ở đây, ta thấy được cái nhìn đầy nhân đạo của Ngô Tất Tố dành cho người nông dân, khi đồng cảm cho thân phận, nỗi khổ của họ, đồng thời cũng trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của những con người chân lấm tay bùn ấy. Có phải, những điều ấy làm nên sức sống muôn đời cho tác phẩm?

Dù hôm nay hay mai sau, “Tắt đèn”, “Tức nước vỡ bờ” và chị Dậu sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt, như ánh sáng của sức mạnh chị tạo ra trong chính cuộc đời của mình!

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 11

Trong trào lưu văn học hiện thực, các nhà văn xuất sắc như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... đã xây dựng được những nhân vật hình tượng nhằm phê phán xã hội thối nát cùng với những số phận bất công ngang trái đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người.

Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một trong những nhân vật nổi bật nhất với đức tính tiêu biểu của người phụ nữ sống trong xã hội đầy bất công ấy. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã khắc họa một cách rõ nét hình tượng nhân vật chị Dậu vừa hiền lành nhịn nhục nhưng khi bị đẩy vào bước đường cùng lại vùng dậy mạnh mẽ đấu tranh.

Trước hết chị Dậu là một người rất yêu thương chồng con. Giữa cơn sưu thuế khốc liệt ở làng Đông Xá những ngày ấy, chị Dậu đã phải chịu bao nỗi đắng cay tủi nhục. Nào bán con, bán chó rồi đến cả hai gánh khoai- của cải cuối cùng còn lại trong nhà. Chưa dừng lại ở đó, chồng chị là anh Dậu bị đánh đập hết sức dã man vì chưa nộp sưu, bị bọn tuất đinh quẳng về nhà như một cái xác không hồn.

Tuy vậy, chị vẫn cố gắng giữ bình tĩnh để chăm sóc, cứu anh khỏi tay thần chết. Nấu xong bát cháo, quạt nguội, bưng bát cháo đến chỗ chồng nằm, chị động viên anh “Thầy em hãy ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Hành động của chị chứa bao nỗi niềm thương yêu với chồng. Tình cảm của người vợ như hơi ấm dịu dàng thức tỉnh sự sống cho người chồng, đưa anh Dậu từ cõi chết về với sự sống.

Chị Dậu là con người biết chịu nhẫn nhục. Trong ứng xử với bọn cai lệ, chị Dậu luôn giữ thái độ nhã nhặn, nhún nhường, đủ tình đủ lý. Khi bọn cai lệ xông đến đòi bắt anh Dậu đi , chị phải van xin rồi van lạy chúng. Khi bọn cai lệ nói năng thô tục, chị Dậu vẫn khiêm nhường gọi chúng là “ông”, “các ông” và xưng là “cháu”, “nhà cháu”. Người nông dân khốn khổ ấy đã cố chịu đựng, cố kìm nén mọi nỗi đau khổ kể cả bị sỉ nhục để bảo vệ tính mạng cho người chồng. Đó cũng là biểu hiện của người tự nhận thức mình là phận dưới, giữ mình trong khuôn khổ của phép tắc xã hội.

Nhưng “tức nước” rồi cũng sẽ “vỡ bờ”. Nhẫn nhục đã đủ, chị Dậu đã đứng dậy vùng lên chống trả kẻ thù. Sau khi bị tên cai lệ đánh và đe dọa không tha anh Dậu, chị Dậu “tức quá, không thể chịu được, cự lại”. Và tiếp sau đó người đàn bà giàu tình thương chồng và ngùn ngụt lòng căm hận đã nghiến hai hàm răng thách thức kẻ thù: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”.

Cách xưng hô không còn khiêm nhường là “ông- cháu”, “ông- tôi” nữa mà đã biến thành “mày- bà”. Tình thế đã thay đổi, con người ấy không còn chịu nhẫn nhịn nữa mà đã vùng lên với một sức mạnh phi thường. Không kết thúc ở lời đe dọa, với sức khỏe của người đàn bà lực điền, chị “túm ngay cổ” tên cai lệ, “ấn dúi ra cửa” làm cho “hắn ngã chỏng queo”.

Trong chốc lát chị Dậu đã quật ngã hai tên đầu trâu mặt ngựa bằng sức mạnh của niềm căm thù phẫn nộ. Tới đây giọng kể của tác giả hào hứng như đang cổ vũ, khích lệ cho nhân vật vậy. Trong cả trận đấu tay đôi với những tên cai lệ và người nhà lý trưởng, chị Dậu luôn hiện lên là con người chủ động, bình tĩnh, gan góc, dũng cảm. Chị đã chiến thắng một cách hiên ngang.

Bằng ngòi bút hiện thực xuất sắc, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu là điển hình xuất sắc của người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tuy đói nghèo nhưng vẫn giàu tình thương và tiềm ẩn trí căm thù, vẫn giàu sức mạnh để chống lại cường quyền, áp bức. Qua đó, nhà văn giúp ta hiểu sâu sắc một quy luật xã hội : tức nước thì vỡ bờ, có áp bức thì sẽ có đấu tranh.

Với sự khéo léo trong nghệ thuật khắc họa nhân vật cùng việc lựa chọn từ ngữ chính xác, sinh động, đoạn trích “ Tức nước vỡ bờ” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu- một điểm sáng đặc biệt trong nền văn học Việt Nam.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 12

Tắt đèn là một “đoản thiên tiểu thuyết” xuất sắc về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.Cùng viết về nỗi khổ cực của người nông dân nhưng Ngô Tất Tố lại chọn một lối đi riêng.Ông muốn lột trần bộ mặt tàn ác của bọn thực dân thông qua chính sách thuế khóa hà khắc ở nông thôn.Tắt đèn sừng sững một tượng đài nông dân - chị Dậu. Đó là một con người quyết chống lại cường quyền gian ác để giữ lấy chính cuộc sống của mình. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” chính là một lần chị phải đấu tranh như thế.

Chị Dậu chạy đôn, chạy đáo bán bòn đủ thức mới đủ suất sưu cho chồng. Vất vả nhưng được tai qua nạn khỏi nghĩ cũng mừng. Vậy mà ngờ đâu suất của chồng vừa mới lo xong lại sinh thêm suất sưu của người chết. Thế là trăm dâu đổ đầu tằm, biết là oan ức mà chẳng thể nào giải được. Lo một suất sưu chị đã “khuynh gia bại sản” nay lại thêm suất nữa, chị Dậu bị đẩy đến đường cùng.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ mở đầu bằng sự thở phào của chị. Anh Dậu sau khi bị đánh liên hồi kỳ trận được bọn chúng thả về. May thay bà láng giềng cho nắm gạo, thế là chị Dậu tất tả nấu cho chồng bát cháo mong cứu cho chồng ra khỏi cơn nguy khốn. Nhưng đáng thương thay, bát cháo vừa mới kịp đưa lên miệng thì bọn cai lệ ầm ầm xô tới với roi với thước.

Trước sự hách dịch và hung ác, chị Dậu nhất nhất chỉ còn biết kêu oan “Hai ông làm phúc nói với ông lý cho cháu khất”. Nhưng cái câu nói ấy của chị Dậu có nghĩa gì đâu. Cai lệ trừng trợn trút một hai câu tai ngược “Mày định nói cho mày nghe đấy à? Sưu của Nhà nước mà dám mở mồm xin khất”.

Đúng là “tức nước” sẽ đến “vỡ bờ”. Ở trong một hoàn cảnh khác, chị Dậu hẳn đã phải có vài câu đáp lại cái thói cư xử coi người như rác của bọn cai lệ nhà ông Lý. Nhưng chị Dậu vẫn kiên nhẫn van nài. Chị hẳn đã hiểu quá rõ cái thân phận hèn mọn của mình và lại càng hiểu hơn cái thói hung ác của bọn tay sai.

Chị vẫn tha thiết “Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng thế thôi. Xin ông trông lại”. Rõ ràng là ở đấy, câu nói của chị Dậu đã cứng cỏi hơn, đã có những dấu hiệu “không chịu được”. Lời xin của chị Dậu tỏ vẻ bất cần và không còn ngại ngùng nể sợ hoàn toàn như trước nữa.

Đến đây kịch tính của tình huống bắt đầu được đẩy lên cao.Cai lệ hầm hề “Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ,thì ông sẽ dở cả nhà mày đi,chửi mắng thôi à?”. Câu nói vẫn đầy hách dịch của những kẻ bề trên quen coi người lao động là con trâu,con ngựa.Vừa nói hắn vừa lao sầm sầm vào anh Dậu.

Thế là “chị Dậu xám mặt”, vội vàng chạy đến kêu xin. Chị vẫn năm ông mười ông mong khơi gợi một chút lòng thương hại từ tên cai lệ. Nhưng những lời khẩn khoản của chị ác thay lại được đáp lại bằng những hậu quả đấm chắc nịch từ tay cai lệ.

Như lửa đã được đổ thêm dầu, chị Dậu “không thể chịu được”đành “liều cự lại”.Tâm lý chị Dậu rõ ràng đã có những biến đổi nhưng chưa phải là hành động hoàn toàn chủ động. Sự tàn ác của tên cai lệ đã đẩy chị vào tình thế phải “liều mình”. Song kịch tính của đoạn trích thực sự được đẩy đến cao trào khi cai lệ mạnh tay “tát ngang vào mặt chị Dậu”.

Tức nước vỡ bờ,người đàn bà lực điền nghiến hai hàm răng “Mày trói ngay chồng bà đi,bà cho mày xem”.Rồi chị túm cổ tên cai lệ ấn dúi ra phía cửa.Sức của anh chàng nghiện không chịu nổi một cái lẳng của người đàn bà. Đoạn văn là một sự thay thế “ngôi vị”.Từ lời xưng hô hèn mọn “cháu-ông”, chị Dậu bực mình đưa mình lên “bà” và hạ hắn xuống thành “mày”.Còn nữa,từ thế bị động chị Dậu đã không thể chịu được sự đè nén,quyết đứng ra bảo vệ chồng mình.

Tức nước vỡ bờ miêu tả một quá trình tâm lý. Ngô Tất Tố đã tạo ra một tình huống giàu kịch tính để rồi cứ thế nhân vật chính va chạm với những tính cách khác từ đó bộc lộ phẩm chất của mình. Quá trình diễn biến tâm lý của chị Dậu diễn ra nhanh chóng nhưng tinh tế. Đặc biệt nó rất phù hợp với quy luật phát triển tính cách cũng như hoàn toàn phù hợp với phẩm chất con người nhân vật. Đó là một sự thể hiện có tính toán và rất sắc sảo của nhà văn.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 13

Chị Dậu có thể coi là hiện thân đầy đủ nhất những nét tính cách của người phụ nữ Việt Nam. Ngô Tất Tố là một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn trước Cách mạng, bằng sự am hiểu tâm lí người nông dân và những diễn biến tâm lí trong họ, ông đã xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu mang trong mình một sức sống tiềm tàng mãnh liệt và tình yêu thương gia đình vô bờ.

Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố. Đoạn trích "tức nước vỡ bờ" trích trong chương XVIII của tác phẩm. Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn văn đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời; xã hội ấy đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng cực khổ, khiến họ phải liều mạng chống lại và đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

Nhân vật chị Dậu là trung tâm của đoạn trích, đoạn trích mở đầu bằng cảnh tiếng trống và tiếng tù và thúc thuế ngày càng đến gần, tiếng chó sủa vang và anh Dậu vừa được đưa từ đình về trong tình trạng hấp hối. Anh Dậu bị bắt bởi chưa nộp đủ suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái!

Thật cùng đường và vô lí hết sức. Người chết vẫn phải nộp sưu, cái xã hội thực dân phong kiến đeo vào cổ người dân nghèo hai tròng, bóc lột họ mọi đường. Anh Dậu bị hành hạ thành như một cái xác chết mới được khiêng trả về và giờ đây chị Dậu đang được bà hàng xóm cho chút gạo nấu bát cháo loãng cho anh Dậu ăn cho lại sức.

Chị Dậu ân cần chăm sóc anh Dậu, mong anh mau khỏe lại. Qua lời nói của chị “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Tình yêu thương của chị Dậu thể hiện cả ở chỗ ấy. Người phụ nữ Việt Nam xưa nay vẫn luôn thế, dù trong hoàn cảnh nào vẫn thủy chung yêu thương gia đình, yêu thương chồng. Tấm lòng già

Nhưng đúng với nhan đề “Tức nước vỡ bờ”, khi bọn cai lệ sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước cùng dây sừng. Chúng thể hiện rõ sự hung ác và bạo ngược của bọn thống trị khiến anh Dậu hoảng quá lăn đùng ra. Bọn chúng đến để bắt anh Dậu nếu chị Dậu không nộp đủ suất sưu còn lại của em chồng đã chết.

Chị dậu run sợ và thiết tha cầu xin chúng cho khất thêm vào ông “Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!” Chị hạ giọng, xưng cháu, gọi ông cho thấy chị rất hạ mình cầu xin nhưng bọn lí trưởng vẫn một mực không hề động lòng. Khi chúng sấm sầm chạy đến chỗ anh Dậu với cái dây thừng thì chị Dậu đã van nài chúng “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”.

Thế nhưng tên cai lệ hung dữ đẩy chị ra và bịch luôn vào ngực chị mấy bịch “Tha này, tha này!” rồi lại sấn đến trói anh Dậu. Lúc này bi kịch đã đến đỉnh điểm cao trào, từ xưng hô “cháu-ông” với bọn chúng, chị chuyển xưng hô ngang hàng, liều mạng cự lại “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”.

Chị đã qua tức giận trước hành động ngang ngược của lũ cai lệ, nhưng một lần nữa cai lệ lại tát vào mặt chị đáp bốp. Cái tát này thực sự đã khiến “tức nước vỡ bờ”, ôi thôi cái gì cũng chỉ có giới hạn, khi này chị Dậu đã nghiến hai hàm răng “Mày trói chồng bà, bà cho mày xem!” Chị đã chống cự lại và đánh trả chúng khiến chúng được một phen hoảng sợ và bỏ chạy.

Sức sống trong chị Dậu vẫn luôn tiềm tàng, ẩn nhẫn chờ ngày bùng phát. Chị đấu tranh cho công lí, cho lẽ phải dù chị biết như vậy có thể sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Nhưng mặc kệ, chị đã dõng dạc nói “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”

Câu nói thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của chị. Trải qua từng lần thay đổi xưng hô, cao trào của truyện lại lên một mức cao hơn chỉ chờ bộc phát. Giống như tức nước vỡ bờ! Sự vùng dậy phản kháng của chị Dậu cũng là dấu hiệu của sự vùng dậy của nông dân ta dưới sự áp bức của lũ cường hào ác bá ở xã hội thực dân phong kiến.

Hình tượng chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc về hình ảnh người phụ nữ mang trong mình một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác, cùng với đó là tấm lòng giàu yêu thương của một người phụ nữ.

Ngô Tất Tố đã thành công xây diễn tả được cái khổ, cái khó đến cùng cực của người dân ở một nước thuộc địa. Thể hiện tiếng nói phản đối lại bất công, cường quyền. Tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thực dân cướp đi quyền sống của con người.

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 14

“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

Số phận của người nông dân trong thời kì thực dân nửa phong kiến, có lẽ cũng chính là hình ảnh con cò trong câu ca dao ấy. Nhưng trong họ, vẫn lóe lên ánh sáng của tình yêu thương, của sức phản kháng kì diệu. Và ta tìm được những điều ấy trong hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố.

Ngô Tất Tố (1893-1954), là một cây bút hiện thực sâu sắc trong dòng chảy của văn học 1930-1945. Ông thường viết về những người nông dân của làng quê Việt Nam, sống trong cảnh một cổ hai tròng mà mang nỗi uất ức. Những tác phẩm tiêu biểu của ông như “Lều chõng”, “Việc làng”, “Tắt đèn” vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.

Trong đó, tiểu thuyết “Tắt đèn” có lẽ là bức tranh hiện thực sâu sắc, bộn bề nhất mà ông dựng nên về làng quê Việt Nam trong những năm tháng thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm ra đời năm 1939, với những nhân vật như chị Dậu, anh Dậu, Nghị Quế, cái Tí,... đủ những tầng lớp giai cấp để làm nên xã hội thời bấy giờ. Trong đó, hình ảnh chị Dậu là nổi bật hơn cả, với nỗi khổ và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Trước hết, có thể thấy, chị Dậu phải sống trong cảnh tủi nhục đến khôn cùng. Nhà chị thuộc “hạng cùng đinh”, một mình chị gồng gánh lo cho một chồng và ba con. Người phụ nữ nông dân ấy phải lo tiền sưu thuế cho chồng, lại lo cho cả người em chồng đã mất năm ngoái.

Bọn cường hào lý trưởng nào có để chị yên. Không đến phá đám dọa nạt, lại bắt anh Dậu mà hành hạ cho đến chết đi sống lại. Để có tiền lo sưu thuế cho chồng, chị bán đi từng thứ trong nhà. Gánh khoai bán được chị đã bán, giờ phải bán đàn chó con còn chưa mở mắt, và rồi đến cả cái Tí- đứa con gái đầu còn chưa bảy tuổi cho nhà Nghị Quế. Có nỗi đau nào đau hơn lòng người mẹ ấy?

Đến thế mà vẫn chưa đủ tiền nộp sưu cho chồng, chị bị bọn nhà Lý trưởng đến hành hạ, lăng nhục, bị tát, bị đánh không bằng con vật. Qua nỗi khổ của nhân vật chị Dậu ấy, ta nhận ra giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Là hiện thực chân thật đến trần trụi về bộ mặt của xã hội thực dân, chèn ép người nông dân cho đến tận cùng cực. Chúng dùng cái lí do sưu thuế để mà bóc lột, tra tấn họ. Đến cả người chết cũng phải nộp thuế, đến cả người đàn bà chúng cũng hành hạ, thử hỏi xã hội ấy thối nát đến mức nào?

Nhưng đó không phải là lí do để chị Dậu bị kéo xuống bùn đen của ô nhục. Ở chị, vẫn ngời lên những phẩm chất đẹp đẽ mà Ngô Tất Tố nhìn thấy ở người nông dân.

Có thể thấy, chị Dậu dù trong hoàn cảnh nào vẫn là một người phụ nữ giàu tình yêu thương. Sâu sắc nhất là tình thương dành cho người chồng của mình. Vì thương chồng nên chị chạy vạy đi vay nợ, bán chác để có tiền trả sưu thuế cho chồng, để anh Dậu không bị hành hạ. Tình thương ấy thể hiện ngay trong chính lời nói và cử chỉ với chồng. Chị liên tục động viên: “Thầy em cố ăn hết bát cháo cho mau khỏe...”, “chị đón cái Tỉu và ngồi xuống như chờ xem chồng có ăn ngon miệng không”.

Đó dường như đã là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam, ân cần, chu đáo và vị tha. Không một lời trách móc hay kêu ca, chị dành cho chồng sự chăm sóc tận tâm nhất. Đó có lẽ cũng là động lực phát sinh bên trong để chị vùng dậy đánh lại tên cai lệ, bảo vệ cho chồng. Phẩm chất ấy của chị thật đáng quý và đáng trân trọng biết nhường nào!

Nổi bật nhất trong nhân cách của chị Dậu, có lẽ chính là tinh thần phản kháng hết sức mạnh mẽ. Nhan đề có tên là “Tức nước vỡ bờ”, có nghĩa là, khi người nông dân bị đẩy vào hoàn cảnh éo le đến cùng cực, tự khắc họ sẽ phải trỗi dậy để chống lại áp bức ấy. Chị Dậu cũng vậy. Khi anh Dậu còn đang bệnh tật ốm yếu, bọn nhà Lý trưởng cùng tên cai lệ đã xông vào đòi chị nộp sưu, nếu không thì trói anh Dậu bắt đi.

Mặc dù chị đã hạ mình xuống để van xin khẩn thiết, chúng vẫn một mực không nghe, thậm chí còn xô ngã và đánh chị. Đây chính là lúc tức nước mà vỡ bờ! Sự phản kháng thể hiện ngay trong cách xưng hô. Lúc đầu, chị gọi bọn cai lệ là “ông”, xưng là “cháu”, còn thể hiện một sự nhún nhường, với thái độ van xin lễ phép. Nhưng lũ “đầu trâu mặt ngựa” ấy vẫn nhất quyết trói anh Dậu và thậm chị còn “bịch luôn vào ngực chị Dậu”.

Ngay sau lời đó, thái độ xưng hô đã chuyển thành “ông-tôi”, thể hiện sự ngang bằng, thách thức. Chị đã không còn đặt mình bên dưới tên cai lệ ấy nữa, tất cả trở về vị trí ngang nhau. Nhưng sau cái tát của tên cai lệ, chị đã gọi hắn là “mày” và xưng “bà”. Chị đã đặt mình lên trên cả bọn cường hào ấy, thể hiện một thái độ thách thức, không ngần ngại đấu tranh với hắn. Ngay từ cách xưng hô, ta đã thấy một thái độ phản kháng mãnh liệt trong tâm hồn người phụ nữ này.

Sức phản kháng của chị Dậu thể hiện rõ nét ở từng hành động của chị. Ban đầu, chị thiết tha, khẩn khoản van nài, “chạy đến đỡ tay hắn”. Nhưng kể từ khi bị tên cai lệ “bịch vào ngực” và “tát vào mặt cái bốp”, một sức mạnh tiềm tàng được bùng phát lên. “Chị túm lấy cổ áo hắn, ấn dúi ra cửa”.

Rõ ràng, đó không còn là khuất phục, mà chính là đứng lên để chiến đấu, để bảo vệ chính mình. Đây chính là điểm sáng trong cái nhìn của Ngô Tất Tố, khi ông nhìn được ở người nông dân sức mạnh tiềm tàng như thế. Đây chính là con đường để người nông dân tự giải thoát cho mình, dẫn họ đến tương lai. Ánh sáng của cách mạng chưa thể đến được nơi đây, nhưng nó đã nhen nhóm lên ngọn lửa để chờ ngày bùng phát.

Xây dựng nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố tập trung khắc họa hành động, lời nói để làm nổi bật tính cách của chị. Ở “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu hiện lên trở thành tiêu biểu cho người nông dân trong thời kì bấy giờ, có áp bức và có đấu tranh. Ở đây, ta thấy được cái nhìn đầy nhân đạo của Ngô Tất Tố dành cho người nông dân, khi đồng cảm cho thân phận, nỗi khổ của họ, đồng thời cũng trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của những con người chân lấm tay bùn ấy. Có phải, những điều ấy làm nên sức sống muôn đời cho tác phẩm?

Dù hôm nay hay mai sau, “Tắt đèn”, “Tức nước vỡ bờ” và chị Dậu sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt, như ánh sáng của sức mạnh chị tạo ra trong chính cuộc đời của mình!

Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ - mẫu 15

Trong trào lưu văn học hiện thực, các nhà văn xuất sắc như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... đã xây dựng được những nhân vật hình tượng nhằm phê phán xã hội thối nát cùng với những số phận bất công ngang trái đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người.

Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một trong những nhân vật nổi bật nhất với đức tính tiêu biểu của người phụ nữ sống trong xã hội đầy bất công ấy. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã khắc họa một cách rõ nét hình tượng nhân vật chị Dậu vừa hiền lành nhịn nhục nhưng khi bị đẩy vào bước đường cùng lại vùng dậy mạnh mẽ đấu tranh.

Trước hết chị Dậu là một người rất yêu thương chồng con. Giữa cơn sưu thuế khốc liệt ở làng Đông Xá những ngày ấy, chị Dậu đã phải chịu bao nỗi đắng cay tủi nhục. Nào bán con, bán chó rồi đến cả hai gánh khoai- của cải cuối cùng còn lại trong nhà. Chưa dừng lại ở đó, chồng chị là anh Dậu bị đánh đập hết sức dã man vì chưa nộp sưu, bị bọn tuất đinh quẳng về nhà như một cái xác không hồn.

Tuy vậy, chị vẫn cố gắng giữ bình tĩnh để chăm sóc, cứu anh khỏi tay thần chết. Nấu xong bát cháo, quạt nguội, bưng bát cháo đến chỗ chồng nằm, chị động viên anh “Thầy em hãy ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Hành động của chị chứa bao nỗi niềm thương yêu với chồng. Tình cảm của người vợ như hơi ấm dịu dàng thức tỉnh sự sống cho người chồng, đưa anh Dậu từ cõi chết về với sự sống.

Chị Dậu là con người biết chịu nhẫn nhục. Trong ứng xử với bọn cai lệ, chị Dậu luôn giữ thái độ nhã nhặn, nhún nhường, đủ tình đủ lý. Khi bọn cai lệ xông đến đòi bắt anh Dậu đi , chị phải van xin rồi van lạy chúng. Khi bọn cai lệ nói năng thô tục, chị Dậu vẫn khiêm nhường gọi chúng là “ông”, “các ông” và xưng là “cháu”, “nhà cháu”. Người nông dân khốn khổ ấy đã cố chịu đựng, cố kìm nén mọi nỗi đau khổ kể cả bị sỉ nhục để bảo vệ tính mạng cho người chồng. Đó cũng là biểu hiện của người tự nhận thức mình là phận dưới, giữ mình trong khuôn khổ của phép tắc xã hội.

Nhưng “tức nước” rồi cũng sẽ “vỡ bờ”. Nhẫn nhục đã đủ, chị Dậu đã đứng dậy vùng lên chống trả kẻ thù. Sau khi bị tên cai lệ đánh và đe dọa không tha anh Dậu, chị Dậu “tức quá, không thể chịu được, cự lại”. Và tiếp sau đó người đàn bà giàu tình thương chồng và ngùn ngụt lòng căm hận đã nghiến hai hàm răng thách thức kẻ thù: “Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”.

Cách xưng hô không còn khiêm nhường là “ông- cháu”, “ông- tôi” nữa mà đã biến thành “mày- bà”. Tình thế đã thay đổi, con người ấy không còn chịu nhẫn nhịn nữa mà đã vùng lên với một sức mạnh phi thường. Không kết thúc ở lời đe dọa, với sức khỏe của người đàn bà lực điền, chị “túm ngay cổ” tên cai lệ, “ấn dúi ra cửa” làm cho “hắn ngã chỏng queo”.

Trong chốc lát chị Dậu đã quật ngã hai tên đầu trâu mặt ngựa bằng sức mạnh của niềm căm thù phẫn nộ. Tới đây giọng kể của tác giả hào hứng như đang cổ vũ, khích lệ cho nhân vật vậy. Trong cả trận đấu tay đôi với những tên cai lệ và người nhà lý trưởng, chị Dậu luôn hiện lên là con người chủ động, bình tĩnh, gan góc, dũng cảm. Chị đã chiến thắng một cách hiên ngang.

Bằng ngòi bút hiện thực xuất sắc, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu là điển hình xuất sắc của người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tuy đói nghèo nhưng vẫn giàu tình thương và tiềm ẩn trí căm thù, vẫn giàu sức mạnh để chống lại cường quyền, áp bức. Qua đó, nhà văn giúp ta hiểu sâu sắc một quy luật xã hội : tức nước thì vỡ bờ, có áp bức thì sẽ có đấu tranh.

Với sự khéo léo trong nghệ thuật khắc họa nhân vật cùng việc lựa chọn từ ngữ chính xác, sinh động, đoạn trích “ Tức nước vỡ bờ” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật chị Dậu- một điểm sáng đặc biệt trong nền văn học Việt Nam.

Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Trong cuộc đời mỗi người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ thân thuộc và chứa chan tình nghĩa. Bởi những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những con người ruột thịt. Với Bằng Việt kỉ niệm về bà và tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm thân thiết lắm nên mới khơi nguồn dòng cảm xúc nồng ấm để sáng tạo một tác phẩm đặc sắc: bài thơ Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ chúng ta vẫn được sưởi chung với nhà thơ hơi lửa của tình người thật gần gũi ân nghĩa, thật cao đẹp và thiêng liêng. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thía từng cung bậc tâm trạng.

Ngỡ như ta đang nhóm bếp lửa vậy - lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa cuộc sống lúc đã trưởng thành, bếp lửa của bà xưa là lửa của trăm nhà ngày nay.

Tám câu thơ đầu là kỉ niệm mới nhen lúc đứa cháu bốn tuổi:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa...

Đọng lại trong mấy dòng thơ là chữ thương và hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh biết mấy nắng mưa. Vậy là kỉ niệm đã sống dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và cuộc sống của hai bà cháu đầy khó khăn gian khổ:

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Gia cảnh như thế nên tuổi thơ của cháu và tuổi già của bà sao tránh được những cơ cực xót đau. Bao nhiêu kỷ niệm xa xưa được nhớ lại.

Trong đó có một ấn tượng nhất, nổi lên lay động tâm hồn. Đó là ấn tượng về khói bếp khói từ một bếp lửa của nhà nghèo.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói ...
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay...

Mùi khói, rồi lại khói hun... nhà thơ đã chọn một chi tiết thật sát hợp, vừa miêu tả chân thật cuộc sông tuổi thơ vừa thể hiện những tình cảm da diết bâng khuâng xót xa thương mến. Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay nhấn lại dòng kỉ niệm xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả tâm hồn và thể xác con người, dường như cả người đọc cũng cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ ở những chi tiết ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà thơ vừa mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc xanh... Mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.

Đoạn thơ tiếp theo:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

(...)

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhỏ thổi hồng lên kỉ niệm tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh. Ngôn ngữ hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ thủ thỉ như giọng kể trong chuyện cổ tích, có thời gian không gian. Có sự việc nhân vật cụ thể tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa, con số không lớn nhưng ngày tháng cứ kéo dài ròng rã, nặng nề. Bởi vì những ngày ở Huế ấy cuộc sống gia đình thật hoang vắng, quạnh hiu. Bố mẹ bận công tác xa không về. Chỉ có hai bà cháu cặm cụi bên nhau nhóm lửa mỗi sáng mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu. Nếu trong kỉ niệm hồi bốn tuổi - ở phần trên - ấn tượng đậm nhất của cháu là mùi khói thì đến đây ấn tượng là tiếng tu hú kêu. Trong mười câu thơ mà có tới năm lần âm vang tiếng tu hú. Lúc mơ hồ vãng vẳng từ những cánh đồng xa, lúc gần gũi sao mà tha thiết thế, tiếng tu hú như than thở sẻ chia. Có lúc nó gióng giả, dồn dập kêu kêu hoài. Trong cảnh sông đơn côi chỉ có hai bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh. Tiếng tu hú phải chăng là tiếng đồng vọng của đất trời, để an ủi kiếp người đau khổ? Đưa tiếng tu hú - một âm thanh rất đồng nội ấy - đã cho thấy thi sĩ Bằng Việt quả là một hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương. Trong các cung bậc khác nhau của tiếng tu hú, nỗi nhớ của người cháu mỗi lúc một tha thiết mạnh mẽ và hình ảnh người bà hiện lên mỗi lúc một đậm nét. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thực ngày nay chuyện cổ tích đời xưa... rồi bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học... Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, âm thầm hai bà cháu từng ngày từng tháng và tám năm ròng cùng nhau nhóm bếp lửa để sưởi ấm để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Hình ảnh bếp lửa và việc nhóm lửa cùng hình ảnh bà tần tảo âm thầm bên trong tiếng tu hú cứ trở đi, trở lại vấn vít, xoắn quyện vào nhau, dệt nên bức tranh xao xuyến.

Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực người bà vẫn bền vững, tấm lòng người bà vẫn mênh mông. Kỉ niệm mà người cháu nhớ bà cứ trang trải như ánh sáng bếp lửa. Ý thơ mở tiếp những sự việc cụ thể:

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".

Lời thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên. Xin cứ để nguyên khôi chẳng cần phân tích lí lẽ nhiều lời, chúng ta vẫn thấm thía vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình đoàn kết xóm làng, là ý chí nghị lực của những người mẹ, người bà ở hậu phương hướng ra tiền tuyến và đẹp hơn hết, rộng hơn, cao cả hơn là vẻ lung linh bất diệt của tình bà cháu hoà trong tình yêu quê hương, tổ quốc. Do đó không phải ngẫu nhiên, từ hình ảnh bếp lửa, đến đây lời thơ bừng sáng thành ngọn lửa:

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

Bếp lửa ở những câu thơ trên, chủ yếu thể hiện cuộc sống âm thầm lặng lẽ trong căn nhà nhỏ hẹp của hai bà cháu. Từ ngọn lửa ở dòng thơ này đã mang ý nghĩa khái quát rộng lớn hơn. Đó là sức sống là tình thương, là niềm tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu, cuộc sống của cả gia đình rộng ra là đối với toàn dân tộc, với công cuộc chiến đấu lúc bấy giờ. Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, lung linh chân dung người bà và làm ấm lòng cả trái tim bạn đọc chúng ta. Ngọn lửa biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt, không chỉ là kỉ niệm của riêng bà trong tình bà cháu trong bài thơ này mà còn là biểu tượng cho toàn dân tộc trong giai đoạn chống Mĩ xâm lược thắp sáng cho đến tận hôm nay.

Ở đoạn cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, chuyển từ cảm xúc nhổ' thương của đứa cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với thế hệ ông bà, cha mẹ ngày trước:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa...

Hình ảnh người bà ôm trùm cả đoạn thơ. Điệp từ nhóm được nhắc lại bốn lần mang bôn ý nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần tỏa sáng dần nét kỳ lạ của bếp lửa và vẻ đẹp thiêng liêng của người bà từ vóc dáng đến việc làm nhất là nghĩa tình sâu nặng của bà. Nhóm bếp lửa ấy là cái bếp có ánh lửa sáng và hơi ấm. Nhóm niềm yêu thương là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm. Nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng người bà kì diệu ấy nhóm dậy khơi dậy giáo dục thức tỉnh tâm hồn và sức sống tuổi thanh xuân thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người.. Để đưa cháu được đi xa, được thấy ngọn lửa khói trăm tàu, để có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả, ngôn ngữ văn chương dạt dào như sóng rồi lan tỏa như lửa ấm, hay ở đây là cảm xúc dâng trào, đang tỏa ấm nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương ân nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình, con cái đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà, tổ tiên. Vẻ đẹp của đạo lí: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ra sông nhớ suối có ngày nhớ đêm...

Tóm lại qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện tấm lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với quê hương gia đình đất nước.

Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với kể chuyện, miêu tả và bình luận. Thành công của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà để làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.

Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!

Hình ảnh âm điệu thơ đặc sắc, sáng mãi ngân mãi trong lòng chúng ta.

Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ "Bếp lửa" được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.

Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh "chờn vờn" gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt? Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.

Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: Nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã đem đến cho người đọc cảm giác thật ấm áp. Bếp lửa của nhà thơ là bếp lửa của tình yêu thương, của niềm tin, của sức mạnh, là cội nguồn nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Bài thơ làm xúc động lòng người trong từng con chữ, làm ấm lên tình bà cháu trong ánh lửa ấp iu nồng đượm. Và thật tự nhiên, bếp lửa của Bằng Việt đã gợi nhắc trong ta bao nỗi nhớ về những bếp lửa, những vùng trời kỉ niệm của riêng mình. Để rồi, ta càng thấy yêu thương hơn biết bao những con người thân yêu, những sự vật quen thuộc, gần gũi hằng ngày quanh ta. Bếp lửa của Bằng Việt vì thế càng trở nên kì diệu!

Những nỗi nhớ đó thể hiện sâu sắc với hình ảnh trong người bà và tác giả mong ước sẽ được quay trở lại những ngày đó sự mong ước của tác giả lớn lao và nó khắc họa sâu sắc trong trái tim của tác giả, những sự thấu hiểu và niềm vui khi được sống bên bà những hình ảnh đó mang những giá trị to lớn và vô cùng sâu sắc, niềm vui và những sự thấu hiểu đó đã gắn bó và khắc sâu trong tâm trí của tác giả, những nỗi niềm đó, những sự thấu hiểu và khắc khoải trong trái tim của ông, những nỗi niềm mong ước mong được sống những ngày ấm áp bên bà và ấm đượm trong những hình ảnh bếp lửa đó, hình ảnh mang những đặc trưng sâu sắc.

Hình ảnh bếp lửa đã thể hiện được sự gắn bó của người cháu với bà của mình, tình yêu thương đó ngày càng được ấm đượm và nó thể hiện những nỗi nhớ thương sâu sắc đối với những người bà của mình, những hình ảnh gợi tả những nỗi nhớ mong và sâu sắc vô tận.

Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 1

Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh ánh trăng - vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng biển bạc. Vầng trăng ấy đã theo tác giả từ thuở còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn con người với vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa con người và vầng trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ bền chặt, với bao nhiêu chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:

Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Nhưng cuộc đời không phải là sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay không phải bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua chúng ta nâng niu trân trọng bao nhiêu thì hôm nay rất có thể trở nên thừa thãi vô nghĩa bấy nhiêu. Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn cũng là quá khứ, vần có thể bị che khuất bởi những lo toan dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây tác giả kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người vầng trăng tri kỉ của những ngày chưa xa ấy, chua xót thay đã bị trở thành “người dưng qua đường”. Cái ngỡ thân quen xưa nay trở thành âm thầm xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ tạo nên bước ngoặt của tác phẩm khi để tình huống bất ngờ “đèn tắt” xảy ra. Lúc đó con người đối diện với vầng trăng tròn trịa ân tình trong quá khứ chợt họ nhận ra được vẻ đẹp và giá trị đích thực của ngày xưa ẩn sau sự dịu dàng và bao dung của ánh trăng.

Trên cơ sở đó, tác giả viết khổ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của toàn bài thơ.

Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.

Vầng trăng vẫn còn đó, trọn vẹn cao thượng đến lạ lùng mặc cho con người có thờ ơ lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên thanh bạch. Vầng trăng đó biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ thiếu thốn mà nghĩa tình, cho tấm lòng của nhân dân yêu thương che chở đùm bọc cách mạng:

Trăng cứ tròn vành vạnh. Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân nghĩa thuỷ chung của một thời oanh liệt - dù đã lùi xa mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của con người làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước toà án lương tâm. Quả thật chẳng có toà án nào xét sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri sâu thẳm mới đánh thức trong chúng ta trách nhiệm đối với quá khứ. Sự cao thượng vị tha của vầng trăng - bất chấp vô tình xa lạ - buộc con người phải suy nghĩ lại chính mình. Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày toàn thắng của dân tộc. Tại sao chỉ có ba năm với cuộc sống thị thành, với bộn bề lo toan thường nhật có thể làm cho người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn thiếu thốn và sự ấm áp tình đồng đội, vòng tay che chở của nhân dân? vẫn biết không có gì là mãi mãi trước sức mạnh xói mòn của dòng chảy thời gian nhưng điều đang xảy ra vẫn khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.

Con người ta lãng quên nhanh quá! Còn vầng trăng nặng lòng toả sáng đêm đêm:

Ánh trăng im phăng phắc

Cho ta thấy được sự bao dung cao cả của vầng trăng quá khứ. Nó lặng im trước sự bội bạc của con người, cái lặng im dịu dàng tha thứ nhưng lại như một lời trách cứ nghiêm khắc xoáy vào tâm hồn nhà thơ. Thật lạ chính sự im lặng ấy có sức mạnh khiến cho con người phải giật mình nghĩ lại. Họ nhận ra giá trị những điều mình đã bỏ quên — quá khứ của chính mình một thời hào hùng oanh liệt của dân tộc: Đủ cho ta giật mình Giọng thơ như một lời tâm tình, thủ thỉ đầy trải nghiệm, từ “giật mình” được tác giả sử dụng rất khéo léo, kết hợp với nhịp thơ liền mạch giàu sức biểu cảm làm toát lên ý nghĩa của toàn bài thơ. Nó không chỉ thể hiện sự ân hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều mà nhà thơ muốn nói với cái xã hội đang quay cuồng trong vòng xoáy lo toan và mưu tính.

Không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại và lại càng không có tương lai. Tất cả những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả những gì chúng ta đang làm đều là nối tiếp những điều cha ông chúng ta và chính chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến người đọc qua những vần thơ?

Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người và xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ cuối bài thơ là sự “giật mình” của con người, hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã hội chúng ta.

Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng – mẫu 2

Nghệ thuật chân chính phải có sứ mệnh như một thiên thần hộ mệnh giúp nâng đỡ con người, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể nói bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy cũng có sức mạnh như thế. Bài thơ như một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn mà giàu ý nghĩa. Đặc biệt là khổ cuối của bài đã gợi cho chúng ta nhiều liên tưởng, suy ngẫm, đưa ta tới những chiều sâu của suy tưởng, triết lí:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.”

Vầng trăng chính là hình tượng theo ta xuyên suốt cả bài. Ở những khổ trước, nhà thơ đã mở ra hoàn cảnh khu phố mất điện để cho con người đối diện trực tiếp với vầng trăng, để những kỉ niệm tươi đẹp của quá khứ như lớp lớp sóng mạnh mẽ ùa về. Kết thúc bài thơ, hình ảnh ấy hiện về càng tươi đẹp, càng gắn bó bao nhiêu thì nhân vật trữ tình lại càng trăn trở, càng tự trách mình bấy nhiêu. Vầng trăng tròn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, cũng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn, thủy chung. Trăng vẫn sáng, vẫn đẹp, quá khứ vẫn vẹn nguyên tình yêu thương dù cho con người có vô tâm, hờ hững, lãng quên đi vầng trăng, lãng quên đi quá khứ tươi đẹp. Nhưng đằng sau sự vô tình ấy, ta nhận ra một tâm hồn thật đẹp. Nhân vật trữ tình không hẳn là người vô tâm, chỉ là đôi khi đã bị cuộc sống bộn bề, nỗi lo cơm áo gạo tiền cuốn theo vòng xoáy của nó. Sự lãng quên chỉ là trong khoảnh khắc, để rồi khi được vầng trăng soi chiếu, nó lại sống dậy mạnh mẽ như xưa.Vầng trăng tươi đẹp chỉ là sự gợi mở để nhà thơ tự vấn chính mình:

“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

“Im phăng phắc” là sự lặng yên tuyệt đối, không mảy may lay động. Bằng biện pháp nhân hóa, trăng trở thành một người bạn gần gũi, gắn bó. Trăng chẳng hề lên tiếng trách cứ con người một lời. Sự im lặng vì thế càng trở nên đáng sợ. Trăng bao dung, độ lượng nhưng vẫn không kém phần nghiêm khắc. Trăng đã trở thành tòa án lương tâm, trở thành tấm gương phản chiếu để từ đó con người nhận ra những giá trị bị quên lãng, nhận ra phần vô tâm, hờ hững trong chính mình. Cái giật mình ở đây thật đáng quý, cái giật mình của một con người biết suy nghĩ, có nhân cách. Giật mình vì ân hận, xót xa. Giật mình vì quên đi bao tình cảm ân nghĩa, tốt đẹp khi xưa. Cái giật mình đã giúp nhân vật trữ tính đứng vững trước những cám dỗ trong cuộc sống. Cái giật mình ấy rất cần có trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi chúng ta mải theo đuổi những giá trị vật chất, tiền tài danh vọng mà hờ hững, vô tâm với những giá trị bình dị nhưng vĩnh hằng, sâu sắc. Cả bài thơ là vô nhân xưng, nhưng đến đây là nhà thơ xưng là “ta”. Ta là nhà thơ, ta cũng có thể là tất cả mọi người. Năm xưa, trong cảnh đất nước có chiến tranh, người lính gắn bó với bè bạn thân yêu, sống trong vòng tay yêu thương che chở của nhân dân lao động thì nay, khi đất nước đã hòa bình, nhà thơ lên tiếng nhắc nhở, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ của ông không được phép lãng quên quá khứ và những tình cảm cao đẹp khi xưa. Không có quá khứ sẽ không có chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, mỗi người hãy biết trân trọng quá khứ, lấy quá khứ là điểm tựa, là sức mạnh để vươn tới cuộc sống tốt đẹp trong tương lai.

Với thể thơ năm chữ, những chữ đầu dòng không viết hoa từ chữ đầu tiên ở mỗi khổ, Nguyễn Duy đã rất thành công khi mượn hình tượng ánh trăng để nói lên bài học nhân sinh sâu sắc: mỗi chúng ta hãy có những giây phút lắng lòng để nhìn lại quá khứ, đừng bao giờ quên đi quá khứ để rồi phải ân hận, xót xa.

Khổ thơ đã góp phần làm nên thành công của bài thơ, để lại những vang âm còn mãi trong lòng người đọc. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy sẽ mãi là lời nhắc nhở theo chúng ta trên từng chặng đường đời, để mỗi người biết sống sâu sắc, nhân văn và ý nghĩa hơn.

Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh – mẫu 1

Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, một người cha kính yêu của nhân dân đồng thời cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc. Các tác phẩm của Người hầu hết đều viết về cuộc sống gian khổ nhưng lại toát lên tinh thần yêu đời lạc quan vô cùng. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu chính là bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” . Bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc với bạn đọc trong nước và cả ngoài nước.

Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được sáng tác vào tháng 2 năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba và hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Bác trở về để lãnh đạo cách mạng Việt Nam một cách trực tiếp với mục đích nhanh chóng giành được thắng lợi, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức. Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt - Trung, đó là hang Pác Bó. Cuộc sống sinh hoạt và làm việc đã khiến Bác có cảm hứng sáng tác nên bài thơ này. Hai câu thơ đầu tiên của bài như miêu tả lối sống và nếp sinh hoạt của Bác: “Sáng ra bờ suối tối vào hang”. Câu thơ bảy chữ với phép đối “ sáng ra”-“ tối vào” đã giúp chúng ta thấy được nếp sinh hoạt đều đặn của Bác. Ngày nào cũng vậy, cứ mỗi buổi sáng là Bác sẽ ra ngoài để làm việc chính sự còn đến tối là trở vào hang để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc. Mặc dù công việc vô cùng bận rộn và căng thẳng nhưng chúng ta thấy ở Người toát nên một niềm lạc quan yêu đời, sống hòa nhập với thiên nhiên núi rừng. Do cuộc sống và làm việc khó khăn nên bữa ăn của Bác cũng vô cùng đạm bạc: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. “Cháo bẹ” và “rau măng” là hai món ăn vô cùng đơn sơ giản dị và là những món ăn quen thuộc ở núi rừng Tây Bắc. Bằng giọng điệu đùa vui hóm hỉnh của mình, Bác đã cho thấy được sự vui vẻ hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù là Người lãnh đạo cả dân tộc trong kháng chiến, đóng vai trò vô cùng quan trọng với đất nước nhưng Người không hề than vãn gì về hoàn cảnh sống của mình mà ngược lại có tỏ ý hài lòng về những thứ mình đang sử dụng. Sự hy sinh đó của Bác khiến cho chúng ta không thể không cảm phục và ngưỡng mộ con người này.

Hai câu thơ sau công việc và quan điểm của Bác về cuộc đời cách mạng:

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng

Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Từ láy “chông chênh” đã giúp người đọc hình dung chiếc bàn làm việc của Người không hề đứng vững chãi là lại khập khiễng bên thấp bên cao. Nơi làm việc của Người chỉ gói gọn trên một chiếc bàn cũ không vững nhưng dù hoàn cảnh làm việc khó khăn bao nhiêu thì Người lại càng quyết tâm bấy nhiêu. Bác đã không ngại khó khăn gian khổ để làm việc phục vụ sự nghiệp giải phóng đất nước. Với Người đó là niềm hạnh phúc không thể nào nói hết được và chính vì vậy mà Người đã cho rằng “cuộc đời cách mạng thật là sang”. Chỉ một câu thơ thôi đã cho thấy tinh thần thép và tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến của Người.

Như vậy chỉ với bốn câu thơ ngắn, bằng giọng điệu đùa vui hóm hỉnh, Bác Hồ đã tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt và làm việc của mình đầy gian khổ khó khăn nhưng qua đó toát lên tinh thần lạc quan, niềm tin vào tương lai tương sáng của Người. Người đúng là vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc Việt Nam!

Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh – mẫu 2

Sau hơn 30 năm bôn ba nước ngoài tìm đường đi cho cách mạng nước nhà đến năm 1941 Bác Hồ trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Giữa lúc này tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển to lớn. Tại đây Người đã triệu tập cuộc họp bộ chính trị quan trọng để tính toán đường đi nước bước cho cách mạng. Nơi ở của Người là hang Pác Bó. Và bài thơ Tức cảnh Pác Bó cũng ra đời trong chính hoàn cảnh đó.

Hang Pác Bó hay còn có tên gọi khác là Cấn Bó nghĩa là đầu nguồn. Sau khi về nước Bác chủ yếu sinh sống và làm việc tại đây, nơi có điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn vất vả.

Kể lại những ngày tháng đó Đại tướng Võ Nguyễn Giáp từng có chia sẻ: “ Nơi ở đầu tiên của Người là hang Pác Bó tuy ẩm lạnh nhưng là nơi có địa thế tốt nhất. Địa điểm thứ hai là một hốc núi nhỏ ở rất cao và sâu trong rừng bên ngoài là những cành lau. Những khi trời mưa to rắn rết chui cả vào chỗ nằm. Có buổi sáng Người thức dậy thấy con rắn rất lớn nằm khoanh tròn cạnh người. Sức khỏe Người vì thế có phần giảm sút. Bệnh sốt rét diễn ra liên miên cũng không có thuốc trị chỉ có vài cành lá sắc theo mẹo của người dân địa phương.

Có thời gian chuyển sang vùng Mán Trắng gạo cũng chẳng có ăn Bác và các đồng chí phải ăn cháo bẹ cả tháng ròng rã. Thế nhưng dù ở bất cứ hoàn cảnh nào Bác cũng thích ứng rất nhanh chưa bao giờ kêu khó ngại khổ. Thậm chí còn thấy Bác vui hơn bao giờ hết vì cuối cùng sau bao nhiêu năm xa quê hưng Người đã được trở về sống với lí tưởng vĩ đại của dân tộc, với cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại.

Chẳng vì thế mà bốn câu thơ trong bài Tức cảnh Pác Bó được viết với một tâm thế vui đùa hóm hỉnh, vui tươi. Ngoài việc nêu lên một hoàn cảnh sống vô cùng khó khăn khắc nghiệt đằng sau đó còn là cả một trạng hết sức thoải mái và lạc quan phơi phới.

Sáng ra bờ suối, tối vào hang

Câu thơ ngắt nhịp ở giữa tạo thành hai vế sóng đôi toát lên sự nhịp nhàng nề nếp theo một quy luật nhất định. Sáng ra bờ suối tối lại vào. Thể hiện một giờ giấc sinh hoạt rất đều đặn của Người.

Cháo bé rau măng vẫn sẵn sàng

Nếu câu thơ thứ nhất nói về quy luật sinh hoạt thì câu thơ thứ hai lại nói về bữa ăn của Bác. CHỉ có cháo bẹ và rau măng. Nếu hiểu theo nghĩa đơn giản thì thức ăn ở đây như cháo bẹ và rau măng lúc nào cũng sẵn sàng. Còn nếu muốn hiểu theo cách khác có thể hiểu là dù trong hoàn cảnh thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần cách mạng luôn luôn sẵn sàng. Tuy nhiên đối chiếu với nét vui đùa hóm hỉnh ở trên thì có lẽ cách hiểu thứ nhất có vẻ hợp lí hơn rất nhiều.

Câu thơ thứ nhất nói về sinh hoạt, thì câu thơ thứ hai nói về ăn, câu thứ ba nói về cong việc. Cả ba câu thơ đều là những câu thơ miêu tả cuộc sống chân thực tạo nên một sự hài hòa cho tứ thơ.

“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

ở đây ta cần chú ý đến cách gieo vần độc đáo của Người. Gieo vần ang vừa khỏe khoắn lại vừa tạo được tiếng vang xa tạo nên một cảm giác vô cùng vững vàng và vững chắc. Từ láy chông chênh là từ lấy duy nhất trong bài nhưng không hề tạo nên một thế khấp khiểng thiếu vững chắc mà ba chữ cuối “Dịch sử Đảng” với những âm chắc nịch khỏe khoắn và gân guốc như làm hài hòa cả ba câu thơ.

Đến câu thơ này ta cũng có thể đoán ra chủ thể của bài thơ là ai và làm công việc gì. Đó không phải là một vị khách lâm tuyền an nhàn mà là một chiến sĩ Cách mạng đang làm công việc trọng đại mang tính vận mệnh của quốc gia dân tộc. Chủ thể không hề bị chi phối bởi thiên nhiên mà thậm chí còn là trung tâm của tất cả. Hơn thế nữa nó còn tô đậm hình tượng người chiến sĩ Cách mạng giữa một khung cảnh đơn sơ giản dị cũng giống như sự nghiệp cách mạng vậy.

Bài thơ khép lại bằng hình cảnh:

“Cuộc đời Cách mạng thật là sang”

Chữ “sang” có thể coi là đắt giá nhất trong bài. Đó chính là cảm nhận xuất phát từ trái tim của người chiến sĩ cách mạng. Với Người dù bao khó khăn gian khổ cũng chẳng là gì bởi đã dấn thân vào con đường này thì không bao giờ biết sờn lòng nản chí. Cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng nay đây mai đó nhưng vẫn luôn làm chủ hoàn cảnh và cuộc đời. Chữ sang cũng chính là chốt làm bừng sáng giá trị của toàn bài.

Có thể nói Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm vô cùng giản dị nhưng lại chứa đựng biết bao nhiêu ý nghĩa sâu sắc. Nó mang tính thời đại và vận mệnh lớn. Không hề xa hoa ở câu chữ nhưng lại mang đến cho người đọc một cảm nhận vô cùng độc đáo và thoải mái.

Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng – mẫu 1

Ta-go là nhà thơ nổi tiếng Ấn Độ. Ông là người châu Á đầu tiên được giải nô ben văn học. Gia tài ông để lại vô cùng đồ sộ và phong phú. Trong đó bài thơ mây và sóng được xem là một kiệt tác được in bằng tiếng anh trong tập in măng non.

Bài thơ gồm có 2 phần đó là rủ rê em bé sống trên mây và rủ rê em bé sống trên sóng. Qua đó thể hiện được vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ. Đây là bài thơ trữ tình nó như một khúc hát đồng dao và qua đây ta bắt gặp câu chuyện kể của em bé đối với mẹ về người trên mây và người trên sóng đã mời mọc rủ rê em bé đi chơi. Trước hết là lời của người trên mây: "Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng bọn tớ chơi với vầng trăng bạc". Tác giả hình dung ra em bé ngước mặt lên bầu trời cao và em bé lắng nghe lời nói trên 9 tầng mây cao vời vợi ấy. Mây đã được nhân hóa ta tưởng tượng ra lời nói rủ rê mời mọc rất thân tình. Và mây đã trở thành đối tượng giao tiếp lúc này. Lời rủ của mây hết sức là hấp dẫn "được chơi từ sáng sớm cho đến chiều tà. Lời rủ quá lôi cuốn khiến cho cậu bé phải hỏi lại: Nhưng làm thế nào mình lên đó được! Người sống trên mây đã bày vẽ em bé hãy đi đến tận cùng của thế giới. Đưa tay lên trời cậu sẽ được nhấc bổng lên 9 tầng mây. Chúng ta gặp cả 1 bức tranh thiên nhiên đẹp nào là bình minh vầng trăng bạc, là nơi tận cùng trái đất. Đưa tay lên sẽ có người nhấc bổng lên 9 tầng mây. Qua bức tranh này chúng ta cảm nhận được cả 1 không gian bao la của trời cao đối với trẻ thơ. Không gian ấy là thế giới thần tiên thường chỉ gặp trong truyện cổ tích hay nó chỉ ở trong mơ của trẻ thơ. Lời rủ đầy hấp dẫn của mây có phải chăng là ước muốn của trẻ em được đi đến tận cùng trái đất được bay bổng lên trời được khám phá thiên nhiên đầy bí ẩn. Qua những vần thơ ta thấy Ta go phải là nhà thơ rất yêu thiên nhiên rất yêu trẻ em và có tâm hồn rất trẻ thì mới thể hiện được những ước mơ diệu kì đến như vậy. Thơ Ta go là bài ca về tình nhân ái thể hiện khát vọng hạnh phúc tự do. Không chỉ có vậy em bé không chỉ có ước mơ được bay lên tận cùng trái đất mà muốn chu du khắp đại dương. Lời rủ của người sống trên sóng còn hấp dẫn hơn: Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nào. "Ta hình dung em bé đang đứng trước bờ biển đại dương với em bé là vô cùng bao la vô tận.

Video bài văn mẫu Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng

Cho nên em bé đã hỏi làm thế nào mình ra ngoài ấy được. Đại dương đã trả lời "hãy đến rìa biển cả con sẽ được sóng nâng đi. Chúng ta lại thấy cả một thế giới cổ tích đầy hấp dẫn. Đứng ngoài biển nhắm mặt lại thì sóng sẽ nâng đi Tago dẫn chúng ta bước vào thế giới cổ tích thế giới của thiên nhiên đầy kì lạ Và ta thấy được sự giao cảm của tâm hồn trẻ thơ với bức tranh thiên nhiên. Không chỉ cả trời rộn rã còn có đại dương mênh mông Tất cả đều hấp dẫn và ta tưởng tượng rằng em bé sẽ quên tất cả sau lưng mình và đi theo người sống trên mây người sống trên sóng. Thế nhưng làm sao có thể rời mẹ mà đi được. Mẹ đã níu chân em ở lại bằng "buổi chiều mẹ luôn một mình ở nhà làm sao rời mẹ mà đi được". Thế giới thiên nhiên bí ẩn hấp dẫn thật đấy! nhưng còn 1 thứ hấp dẫn hơn nữa là mẹ. Chúng ta thấy thế giới thiên nhiên đầy hấp dẫn nhưng vẫn không bằng thế giới tình mẹ con. Để từ đó trong bài thơ Mây và sóng Tago dẫn chúng ta đến giấc mơ tuyệt vời của tuổi thơ đó là sự sáng tạo trong trò chơi của em bé. Trước hết con là mây và mẹ sẽ là trăng. Con là sóng mẹ sẽ là bến bờ kì lạ. Cái độc đáo trong trò chơi này là có mây là có trăng. Trăng và mây chung 1 bầu trời. Mây và trăng luôn kề cận bên nhau. Có sóng là có bờ sóng vỗ về vào bờ như mẹ vỗ về con vào lòng mẹ. Em bé gọi đây là trò chơi nhưng thật ra không phải là trò chơi đây chính là tình cảm của con đối với mẹ, ước mơ được ôm ấp trong lòng mẹ và mẹ không bao giờ rời xa.

Cả bài thơ cho ta thấy sự giao cảm thần tiên của em bé với thiên nhiên tuyệt đẹp. Cả bài thơ ta thấy được bức tranh về thiên nhiên. Cả bài thơ ta thấy được sự sáng tạo của em bé trong trò chơi để vừa được chơi vừa được gần mẹ. Từ vẻ đẹp mộng mơ ấy bài thơ đã có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Trước hết là tác giả đã ca ngợi tình mẹ bao la vĩ đại. Nét độc đáo thứ hai là Tago đã dẫn ta đến thế giới thần tiên với những ước mơ bay bổng kì diệu với tuổi thơ.

Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng – mẫu 2

Bài thơ “Mây và sóng” được viết bằng chữ Ben-gan in trong tập thơ “Si-su” (trẻ thơ) xuất bản năm 1909 và được chính Ta go dịch sang bằng tiếng anh trong bản “trăng non” xuất bản năm 1909. Bài thơ nói lên vẻ đẹp mộng mơ nên tiên cảnh trên mây và dập dềnh nơi sóng lớn biển khơi. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng và đẹp đẽ.

Tago để lại một kho tàng văn hóa đồ sộ với 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, khoảng 100 truyện ngắn và nhiều tác phẩm tranh thơ nổi tiếng, ông là nhà thơ đầu tiên nhận giải Nô ben về văn học. Bài thơ là lời mời gọi của những người sống trên mây trong sóng. Trước hết là thông qua lời mời gọi của những người sống trên mây: “bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng bọn tớ chơi với vần trăng bạc”. Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa, ví mây giống như người bạn, mây có thể giao tiếp được với cậu bé, tác giả đang tưởng tượng ra rằng, cậu đang ngồi và ngước mặt nhìn lên trời, ở đó có 9 tầng mây đẹp đẽ, đang cùng trò chuyện với cậu. Lời mời gọi nghe quá ư là hấp dẫn, nào là “lên đây thì được chơi từ sáng sớm đến chiều tối” nhưng có điều là làm sao cậu có thể lên đó được, cậu là người phạm mắt trần da thịt mà. Như hiểu được ý cậu bé, trời bày cho cậu hãy đi tới nơi cuối của thế giới, ở đó cậu sẽ trời trời nhấc bổng lên 9 tầng mây. Một bức tranh thơ mộng như xứ thần tiên được hiện ra trước mắt ta, ở đó có mây vàng bạc,không gian trời đất bao la, lời ru rê của em có phải chăng là ước muốn được khám phá, được tìm tòi những gì bí ẩn và thú vị của trời đất hay không. Tago là một nhà thơ vừa yêu thiên nhiên vừa yêu trẻ thơ vì thế bài thơ Tago dành cả tình yêu của mình để sáng tác, đưa những ước mơ hồn nhiên nhưng rất đỗi tuyệt đẹp thành hiện thực. thơ của Tago thể hiện tình yêu, tình nhân ái, khát vọng được tự do, hạnh phúc. Ước mơ không chỉ dừng lại ở việc vi vu khắp cả trái này mà còn muốn thám hiểm hết thảy đại dương bao la này.

Do vậy mà cậu bé đã hỏi đại dương rằng làm sao để ra ngoài ấy được. Đại dương bèn trả lời cho cậu bé rằng: “Hãy đến rìa biển cả con sẽ được sóng nâng đi”. Một cảnh vật hấp dẫn diễn ra trước mắt chúng ta giống như truyện cổ tích vậy, chỉ cần đến đứng ngoài biển nhắm mắt lại và “sóng” sẽ mang bạn đi, thiên nhiên như hòa vào giấc mơ của tâm hồn trẻ thơ. Bầu trời thì rộn ràng, đẹp đẽ, đại dương thì mênh mông, bao la. Nhưng tất cả điều đó không thể khiến em rời bỏ mẹ mà đi được, mẹ đã níu chân em “ buổi chiều mẹ luôn một mình ở nhà làm sao rời mẹ mà đi được”. đối với cậu bé thế giới thiên nhiên thật tuyệt vời và hấp dẫn, nhưng còn thứ cậu thấy hấp dẫn và thú vị hơn đó mẹ, người đã sinh thành, nuôi dưỡng cậu từ lúc cậu còn ở trong bụng của mẹ vậy, thế giới thiên nhiên dù có hấp dẫn tới đâu đi chăng nữa thì đối với cậu bé hay mỗi người chúng ta mẹ mới là điều chúng ta cần níu giữ và kính trọng nhất. Tago dẫn chúng ta đi từ câu chuyện trẻ thơ này đến câu chuyện trẻ thơ khác bằng chính tâm hồn của một đứa bé. Cậu sáng tạo ra những trò chơi mà ở đấy vừa có mây, sóng mà quan trong là có mẹ: con là mây thì mẹ sẽ là trăng, con là sóng thì mẹ sẽ là bến bờ kỳ lạ bên kia, mây và trăng sẽ cùng chung một bầu trời, sóng và bờ biển sẽ không bao giờ tách rời nhau. Sóng vỗ về xô vào bờ giống như mẹ luôn vỗ về con vậy. Đây là trò chơi nhưng trò chơi này đã vượt lên giới hạn của nó, nó chính là tình cảm thiêng liêng về tình mẫu tử, luôn muốn được mẹ ôm ấp và vỗ về, không bao giờ muốn xa rời mẹ dù chỉ giây phút thôi. Bài thơ chính là sự hòa hợp đến lạ lùng của thiên nhiên tuyệt đẹp và cậu bé đáng yêu này. Bài thơ nói về tình yêu da diết, nồng thắm đã chiến thắng được ham muốn chơi bời, sự cám dỗ. Sự níu kéo này chính là tình mẫu tử thiêng liêng và đẹp đẽ. Bài thơ nói về một cậu bé thông minh, giàu tính tưởng tượng khát khao khám phá thế giới và được gần bên mẹ.

Qua bài thơ ta hiểu ra rằng con người trong cuộc sống thường gặp những cám dỗ, quyến rũ. Muốn khước từ chúng, cần phải một bờ tự vững chãi mà tình mẹ à một trong những điểm tựa ấy. Bài thơ đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của trẻ thơ song cũng nhắc nhở mọi người rằng. Hạnh phúc không phải điều gì quá xa xôi, không ai ban cho mà do trần thế và con người nơi đó tạo ra.

Lấy nhan đề Tình đời trong chiếc lá, nêu suy nghĩ của mình về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng – mẫu 1

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

Những câu thơ vang lên như lời khẳng định về mối quan hệ giữa con người với con người, về sự chia sẻ và hi sinh. Phần cuối truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri cũng khiến ta rung cảm trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ với nhau giống như thế.

Tác phẩm là câu chuyện kể về sự thay đổi của Giôn-xi, một nữ họa sĩ trẻ tuổi. Là một người có tài, khao khát được sống hết mình với nghệ thuật. Thế nhưng căn bệnh sưng phổi và sự nghèo túng đã khiến cô tuyệt vọng và không muốn sống nữa. Giôn-xi đã sống một chuỗi những ngày đen tối, không niềm tin, không hi vọng thậm chí là tàn nhẫn với những người yêu quý cô khi đếm từng chiếc lá còn lại trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện với cửa sổ, chờ đến khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cô cũng buông xuôi, lìa đời. Câu chuyện có lẽ đã dừng lại với cái chết được dự báo trước của Giôn-xi khi trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng suốt cả đêm qua, khiến cho những cây thường xuân cũng rã rời, lá của chúng sẽ rụng hết xuống. Nhưng không, vẫn còn một chiếc lá cuối cùng trên cây, được tác giả miêu tả “ở gần cuống lá còn giữ màu xanh sẫm, nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa”. Chiếc lá ấy vẫn kiên cường bám chặt vào cành cây cách mặt đất khoảng chừng hai mươi bộ, hôm sau, hôm sau nữa chiếc lá ấy vẫn như thế. Từ một con người tuyệt vọng chỉ chực chờ chết, hình ảnh của chiếc lá thường xuân kiên cường đã làm thay đổi suy nghĩ của Giôn-xi, cô khao khát được sống và mong mỏi “một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ”. Điều ấy cũng có nghĩa, chiếc lá cuối cùng đã khiến cho tâm hồn một con người hồi sinh, khiến cho cô gái sống lại với khao khát và đam mê nghệ thuật của mình. Cuối cùng thì Giôn-xi cũng qua cơn nguy hiểm và dần dần khỏe trở lại.

O Hen-ri đã sử dụng rất nhiều tình tiết hấp dẫn, sự sắp xếp chặt chẽ khéo léo và kết cấu đảo ngược tình huống hai lần khiến cho người đọc đi hết từ bất ngờ này tới bất ngờ khác. Hóa ra, chiếc lá cuối cùng kiên cường bám trụ lại trên cành ấy lại là “kiệt tác của cụ Bơ-men”. Hóa ra, người ốm yếu, tuyệt vọng bên bờ vực của cái chết lại đang dần khỏe lại, còn người khỏe mạnh như cụ Bơ-men lại chết vì sưng phổi, dù mới chỉ ốm có hai ngày. Điều đáng nói ở đây chính là tinh thần hi sinh cao cả của cụ Bơ-men, một người họa sĩ già với khao khát cả cuộc đời là “vẽ được một kiệt tác nhưng chưa thực hiện được”, cụ đã đánh đổi cả mạng sống của mình níu giữ tâm hồn và sự sống cho cô họa sĩ trẻ Giôn-xi. Xiu đã kể lại với Giôn-xi về cụ Bơ-men một cách đầy xúc động “...cụ ốm nặng trong căn phòng của cụ ở tầng dưới. Giày và áo quần của cụ ướt sũng và lạnh buốt...người ta tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn thắm sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó và vài chiếc bút lông rơi vung vãi, và một bảng pha màu có màu xanh và màu vàng trộn lẫn với nhau...”. Bức tranh của cụ đã làm thức dậy khao khát sống cũng đã khơi dậy trong lòng người đọc sự thương cảm, trân trọng với nghĩa cử cao đẹp của cụ Bơ-men. Đến tận giây phút cuối cùng của cuộc đời, cụ vẫn sống với đam mê hội họa của mình. Và phải chăng, chính vì câu chuyện đầy tình người đằng sau bức họa chiếc lá cuối cùng ấy đã biến nó thành một kiệt tác đúng như di nguyện của cụ Bơ-men lúc còn sống. Nghệ thuật suy cho cùng cũng là cách khiến cho con người cảm thấy thỏa mãn, khiến con người thay đổi và sống tốt hơn. Và, cụ Bơ-men đã mang tình người để làm nên giá trị vĩnh hằng cho tác phẩm cuối cùng - kiệt tác trong cuộc đời họa sĩ của mình.

Có thể nói, đoạn trích Chiếc lá cuối cùng trích trong truyện ngắn cùng tên của O Hen-ri đã khiến người đọc rung động trước tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ, giữa Xiu, Giôn-xi và cụ Bơ-men. Câu chuyện ấy cũng nhắc nhở chúng ta về tấm lòng lương thiện, sự chia sẻ giữa người với người trong xã hội ngày nay.

Lấy nhan đề Tình đời trong chiếc lá, nêu suy nghĩ của mình về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng – mẫu 2

Người phụ nữ bất hạnh bất lực trên giường bệnh, bất động trên chiếc giường sắt sơn, tạo ra ấn tượng về bức tranh được đóng khung treo tường. Không gian trở nên hẹp hơn sự vật đi vào chiều tĩnh lặng. Duy đôi mắt người bệnh có dấu hiệu sự sống, song đôi mắt ấy cứ trân trân nhìn cái đầu hồi nhà gạch bên cạnh đếm từng chiếc lá trường xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đó là biểu tượng của chiếc thước đo về cuộc đời của Giôn-Xi: Cô đã xây dựng cho mình một niềm tin bất hạnh: Cô sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống.

Câu chuyện của Giôn-xi, được Xiu cô bạn lớn tuổi hơn là người đang cưu mang Giôn-xi, nói lại với cụ Bơ-men. Cụ là một hoạ sĩ nhưng là một người thất bại trong nghệ thuật. Bởi lẽ "cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn chưa với tới được gấu áo vị nữ thần của mình". Nhưng cụ "luôn có ý định vẽ một bức tranh tuyệt tác", cho dù "cụ chưa bao giờ bắt đầu cả". Cụ kiếm tiền bằng cách "bôi bác một ngành buôn bán hay quảng cáo", hoặc "ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ". Dù vậy cụ vẫn luôn luôn nói về "tác phẩm kiệt tác sắp đến tới". Điều đáng quý ở cụ là hay "chế nhạo sự mềm yếu của bất kì ai" và tự coi mình "là một con chó xồm lớn chuyên canh gác cửa bảo vệ cho hai nữ hoạ sĩ trẻ" Giôn-xi và Xiu.

Câu chuyện về cuộc đời yếu đuối và mong manh như chiếc lá giữa cơn phong ba của Giôn-xi đã được cụ Bơ-men tiếp đón bằng sự "khinh bỉ và nhạo báng". Song bất chấp thái độ của cụ già, căn bệnh của Giôn-xi vẫn không hề thuyên giảm. Và cụ già "nhỏ bé dữ tợn" đã hứa một cách trịnh trọng qua mùi rượi "sặc sụa": "Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất...".

Một ngày mới lại về Giôn-xi "thều thào và ra lệnh" kéo chiếc màn xanh để cô ta nhìn ra ngoài, cho dù Xiu không muốn và phải" làm theo một cách chán nản". "Nhưng, ô kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt cả một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc là thường xuân bám trên tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây... Chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ".

Hôm sau "chiếc lá thường xuân vẫn còn đó". Và Giôn-xi chợt hiểu ra: "Có một cái gì đấy làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cô thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội". Và hi vọng một ngày nào đó "sẽ được vẽ vịnh Na-plơ" lại trỗi dậy trong cô. Nhựa sống lại lên men, nghị lực mầm sống lại hồi sinh, khiến bác sĩ phải thốt lên: "Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã chiến thắng." Điều gì đã khiến Giôn-xi khoẻ lại? Có thể một phần do thuốc men phát huy có hiệu lực, có thể có một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Hẳn là thế, nhưng bao trùm lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dần về cõi hư vô là chiếc lá cuối cùng trên bức tường đối diện phòng với họ "chẳng bao giờ rung rinh và lay động khi gió thổi", bởi đó là chính kiệt tác của cụ Bơ-men, cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Để tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã đổi bằng cuộc sống của chính mình. Cụ đã trả lại màu xanh cho chiếc lá vàng úa, trả lại màu hồng cho đôi má người thiếu nữ, xanh xao, trả lại niềm tin nghị lực cho người yếu đuối.

Nghệ thuật chân chính mang trong nó chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy niềm tin vào cuộc sống, nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh cho những ước mơ. Vì thế, hình tượng cụ Bơ-men cho dù chỉ phác hoạ, nhưng vẫn sống mãi trong lòng người đọc bởi cụ đã tạo ra kiệt tác bằng màu xanh hi vọng, bằng chất liệu nhân đạo truyền thống được kết tinh trong tiến trình lịch sử. Chiếc lá cuối cùng trở thành niềm hi vọng hồi sinh.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 1

Viết về số phận của người nông dân trước cách mạng tháng 8, Lão Hạc là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao. Truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương trước cuộc đời bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông dân nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại cho chúng ta bao ám ảnh về số phận của con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ.

Lão Hạc cũng như hàng triệu người nông dân xưa đều chịu chung hoàn cảnh bất hạnh, nhưng trong đó nổi bật lên một phẩm chất tốt đẹp, đáng quý, đáng trân trọng. Lão Hạc - một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều tranh vách nát, một con chó vàng là tài sản, vốn liếng duy nhất của lão. Vợ Lão Hạc mất sớm, sống trong cảnh gà trống nuôi con. Con trai lão không đủ tiền cưới vợ nên buồn phiền, phẫn chí đi làm phu đồn điền cao su, đã 5, 6 năm biền biệt chưa về. Vậy nên dân ta thường có câu "Cao su đi dễ, khó về" là vậy. Tuổi già cô quạnh, bất hạnh ngày càng chồng chất. Lão Hạc bị ốm một trận thập tử nhất sinh mà không một người thân bên cạnh đỡ đần, chăm sóc một bát cháo một chén thuốc khi ốm đau bệnh tật. Hoàn cảnh của Lão Hạc thật đáng thương. Sau trận bão, vườn tược, hoa màu bị phá sạch. Làng bị thất nghiệp nhiều, trong đó có Lão Hạc vì lão trở nên yếu hẳn sau khi ốm dậy, không ai còn muốn thuê lão làm nữa. Lão với cậu Vàng - con chó mà người con trai trước khi đi đã để lại cho lão, ăn uống mà vẫn đói deo, đói dắt, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. "Nhưng đời người ta không chỉ đau khổ một lần". Ông giáo đã nói với Lão Hạc như vậy trước ý định bán chó của lão. Vì cậu vàng ăn nhiều mà Lão Hạc không đủ khả năng nuôi dưỡng nó nữa. Bán cậu vàng, lão như bị đẩy sâu xuống bờ vực thẳm, cảm thấy mình ích kỉ, tệ bạc, già rồi mà còn đánh lừa một con chó. Đói khổ, túng bấn, cô đơn thêm nặng nề. Lão Hạc chỉ ăn khoai, củ chuối, củ ráy, sung luộc, vài bữa trai ốc cho qua ngày. Để rồi cuối cùng lão phải quyên sinh bằng bả chó, một cái chết đau đớn, thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc tru tréo, bọt mép sùi ra, vật vã hai giờ đồng hồ mới chết. Một cái chết thật dữ dội. Số phận một con người, một kiếp người như Lão Hạc thật đáng thương. Ôi! Bao niềm xót xa, thương cảm đối với những con người nghèo khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ tự tử và Lão Hạc đã kết thúc cuộc đời mình bằng bả chó. "Nếu kiếp người đau khổ nốt thì ta nên làm gì cho thật sướng". Câu nói đó đã thể hiện cái đau khổ tột cùng của Lão Hạc.

Nhưng Lão Hạc có bao phẩm chất tốt đẹp, là một con người hiền lành, chất phác, nhân hậu, là một người cha có trách nhiệm. Lão đau đớn khi đứa con trai độc nhất đi phu đồn điền cao su và lão khóc "Hình của nó người ta giữ, ảnh của nó người ta chụp, nó là con người ta rồi chứ đâu phải con tôi". Ba sào vườn là của vợ lão đã thắt lưng buộc bụng để lại trước khi mất. Lão thà chết chứ không chịu bán đi một sào, nhất quyết để lại cho đứa con, một sự hi sinh thầm lặng to lớn, tất cả vì con, mãi dành cho con những gì tốt nhất của cuộc đời. Lòng nhân hậu của lão được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng. Chính nó là chỗ dựa tinh thần, là niềm an ủi, nguồn động viên, khích lệ lão trong những tháng ngày cô đơn, tuyệt vọng nhất. Lão coi nó như đứa con, đứa cháu, như một thành viên trong gia đình. Lão cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu, lão bắt rận, tắm rửa cho nó. Lão trò chuyện với nó "Cậu vàng của ông ngoan lắm, ông để ông nuôi...", lão ăn gì cũng cho cậu vàng ăn. Và cậu vàng đã góp phần toả sáng tâm hồn và làm sáng lên bản tính tốt đẹp của lão, nó là một phần của cuộc đời lão. Vậy nên sau khi bán chó, lão đã tự tử cũng chính bằng bả chó như để tự trừng phạt mình.

Và Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ nhưng trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù có đói khổ, túng bấn, dù phải ăn củ chuối hay sung luộc nhưng khi ông giáo mời ăn khoai, uống trà thì lão cười hiền hậu bảo để khi khác. Dù ông giáo có ngấm ngầm giúp đỡ nhưng lão đã từ chối gần như là hách dịch. Sau khi bán chó, lão đau khổ, dằn vặt và vẫn luôn giữ nguyên mảnh vườn cho con trai. Lão gửi ông giáo 3 sào vườn và 30 đồng bạc phòng khi chết để không làm phiền tới láng giềng. Lão luôn sống theo quy tắc "Đói cho sạch, rách cho thơm". Nhà văn Nam Cao đã khéo léo đưa Binh Tư - một kẻ chuyên đánh bả chó ở cuối truyện để làm nổi bật lòng tự trọng, trong sạch của lão nông dân nghèo khổ. Ông giáo đã nói "Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không hiểu họ thì ta cho rằng họ gàn dở, ngu ngốc và bần tiện".

Tóm lại cuộc đời Lão Hạc đầy nước mắt, đau thương. Sống thì cô đơn, bất hạnh, nghèo đói, chết thì quằn quại đau đớn. Lão Hạc cũng đại diện cho số phận của bao người nông dân khác. Trong khổ đau, gian truân, nổi bật lên một phẩm chất hiền lành, nhân hậu, chất phác và giàu lòng tự trọng. Nam Cao đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng tháng 8.

Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc – mẫu 2

Hình tượng người nông dân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 được khai thác một cách sâu sắc và triệt để trong văn học. Qua những trang văn của các tác giả, những con người với số phận bất hạnh nhưng ngời sáng những phẩm chất cao quý được thể hiện một cách rõ nét. Nếu Ngô Tất Tố thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật chị Dậu, một người phụ nữ yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh nhưng cũng có những phút giây vùng lên để chống lại cái xấu, cái ác trong "Tắt đèn" thì Nguyễn Công Hoan lại xây dựng hình ảnh một anh Pha dám vùng lên đánh trả lại bọn cường hào ác bá trong "Bước đường cùng". Và Nam Cao với hình tượng nhân vật lão Hạc trong tác phẩm cùng tên đã khắc họa thành công hình tượng người nông dân với số phận nghèo khổ, bần cùng nhưng lương thiện, chất phác và rất giàu lòng tự trọng.

Lão Hạc có số phận bất hạnh vô cùng.Sự khổ đau, bất hạnh của lão thể hiện ngay từ hình dáng đến cuộc sống của lão. Một ông lão già nua, bất hạnh vì phải chịu cảnh cô đơn, bệnh tật lại nghèo đói. Hoàn cảnh của lão Hạc vô cùng cực khổ.Vợ lão chết sớm, lão phải lâm vào tình cảnh gà trống nuôi con. Vậy nhưng con trai lão cũng bỏ lão mà đi làm tại đồn điền cao su. Lão Hạc cô đơn, buồn tủi với tuổi tác đã già chỉ biết bầu bạn với con chó Vàng. Chính hoàn cảnh khốn cùng ấy với hoàn cảnh neo đơn của lão đã khiến người đọc vô cùng xót xa, thương cảm. Lão coi Vàng như một đứa con, đứa cháu, một người ruột thịt của mình. Lão chia sẻ từng đồ ăn, thức uống, trò chuyện, tâm sự với nó như một con người. Lão Hạc vì bất đắc dĩ phải đành lòng bán đi cậu Vàng, cái tên thân thương mà lão dành cho con chó của mình. Lão vì thương con trai, không muốn tiêu phạm vào số tiền dành dụm cho con. Lão đã tính kĩ mỗi ngày cậu ấy ăn thế cũng mất hai hào. Mà cứ thế này thì lão không lấy tiền đâu mà nuôi được.Đối với lão, giờ đây, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con trai. Cảnh tượng lão Hạc chia tay với con chó Vàng vô cùng xúc động. Đọc đoạn văn ấy, người đọc rưng rưng xúc động, đồng cảm sâu sắc với lão Hạc. Nam Cao cũng đã vô cùng thành công khi miêu tả cảnh tượng ấy chỉ bằng những nét chấm phá trên gương mặt đau khổ của lão. Sau khi bán con chó đi, lão Hạc sang nhà ông giáo để chia sẻ. Dù lão cố làm ra vẻ bình thường nhưng không thể nào giấu đi được khuôn mặt biến dạng của con người già nua đầy đau khổ đó. Nam Cao đã vô cùng tinh tế khi miêu tả lại khuôn mặt ấy: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...".Bán đi cậu Vàng, lão đau như cắt từng khúc ruột.Nhưng bởi hoàn cảnh sống, bởi tình thương yêu con vô bờ bến mà lão phải đưa ra quyết định ấy. Chính nỗi khổ tâm của người cha già luôn dằn vặt, đau đáu chuyện vì nghèo, vì khổ mà không cưới được vợ cho con, thêm nữa giờ đây cũng vì hoàn cảnh mà lão đối xử không đàng hoàng đối với một con chó. Lão nhờ ông giáo giữ lại hộ mảnh vườn để mai sau người con trai lão trở về sẽ có nhà để ở, có vườn ruộng làm ăn. Lão tự lo cho hậu sự của mình sau này, lão không muốn nhờ vả hay vay mượn bất cứ ai.

Cảnh sống nghèo khốn khó về vật chất và sự suy sụp về tinh thần khiến cho lão Hạc kiệt sức.Lão rơi vào cảnh bần cùng hóa. Không kiếm được việc làm, lại không có đủ sức khỏe, cô đơn lạc lõng, lão sống vật vờ qua ngày với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc...Cái kết của câu chuyện là một cái kết đầy đau xót đối với độc giả. Lão Hạc đã tìm đến cái chết. Sau cùng, con người khốn khổ ấy cũng tìm cho mình một lối giải thoát.Hầu hết khi nghĩ đến việc tự tử, người ta thường nghĩ đến những việc làm sai trái, tiêu cực nhưng với lão Hạc, lão không nào có tội tình gì. Lão chết với lí do muốn giữ lại tiền cho con trai mình, không muốn nhờ vả liên lụy mọi người xung quanh. Cái chết của lão cũng thật đau đớn, xót xa: "Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên".Lão đã tự tử bằng thuốc chuột.Cho đến cuối đời, lão nông khốn khổ ấy vẫn đau đớn và bất hạnh vô cùng. Một con người, một số phận đầy đau thương.

Lão Hạc là một trong những nhân vật điển hình trong các sáng tác của Nam Cao. Chúng ta tự đặt ra câu hỏi: Phải chăng Nam Cao đã quá lạnh lùng với ngòi bút của chính mình? Phải chăng số phận của những nhân vật trong những tác phẩm của Nam Cao lại đều đau thương đến vậy?Thế nhưng ngẫm nghĩ lại, ta lại thấy đằng sau ngòi bút ấy là một tấm lòng chan chứa yêu thương. Càng viết, tác giả như càng muốn phơi bày sự thật của chế độ phong kiến tàn ác, chế độ đã đàn áp và đưa con người ta đến bước đường cùng. Vậy nhưng trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt ấy, những nhân vật của ông luôn ngời sáng lên vẻ đẹp tinh thần. Nhắc đến đây, ta lại nhớ đến nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Anh Chí ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao với sự thay đổi về cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng có một khát khao lớn là muốn "làm người". Thế nhưng chính xã hội bất công ấy đày đọa con người ta đến bước đường cùng. Để rồi cuối cùng phải tìm đến cái chết như một sự giải thoát.

Có nhiều người cho rằng cách kết thúc tác phẩm của Nam Cao thường là ngõ cụt, mang tính tiêu cực.Thế nhưng điều đó làm cho hiện thực cuộc sống được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Lão Hạc, một cuộc đời đầy nước mắt, khổ đau, bất lực cho đến lúc mất đi nhưng luôn giữ trong mình bản chất lương thiện, hiền lành, nhân hậu. Đó cũng chính là thông điệp mà Nam Cao muốn truyền đến độc giả về bản chất của văn chương trong những sáng tác của ông: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có".

Tài liệu có 11 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống