TOP 23 bài Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú 2023 SIÊU HAY

Tải xuống 5 18.6 K 7

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 23 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

CẢM NHẬN 4 CÂU THƠ CUỐI BÀI KHI CON TU HÚ

Bài giảng: Khi con tu hú

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 1

Bốn câu thơ cuối trong bài Khi con tu hú có giọng thơ từ tha thiết nhớ chuyển thành uất hận sục sôi. Nhịp sống trào dâng, mời gọi, thôi thúc tràn ngập vào tận ngõ ngách tăm tối của chốn ngục tù, len lỏi vào tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi biến thành nỗi khát khao hành động: “muốn đạp lan phòng”.

"Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chán muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu".

Mùa hè đã đến, mùa hè đang qua. Bao âm thanh đã "dậy bên lòng”, thôi thúc, gịuc giã: "muốn đạp tan phòng" xà lim chật chội. Không cam chịu cảnh tù đày! Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ "Ngột làm sao / chết uất thôi" với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc như nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do! Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú "gọi bầy", khép lại bài thơ là tiếng chim tu hú ''ngoài trời cứ kêu". Tiếng chim vừa gợi nhớ gợi thương, vừa giục giã lên đường chiến đấu.

Bài thơ khép lại nhưng là nghe tiếng tu hú “cứ kêu”, kêu hoài, kêu mãi...

Bài thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ gang thép đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng, và một niềm khát khao tự do cháy bỏng.

"Khi con tu hú" là khúc ca tâm tình, là tiếng gọi đàn, hướng về đồng quê và bầu trời tự do với tất cả tình yêu và niềm khao khát cháy bỏng. Bài thơ ghi lại một nét đẹp bức chân dung tinh thần tự họa của người thanh niên cộng sản Tố Hữu thuở ấy. Để ta ngưỡng mộ và tin yêu.

 

Sơ đồ tư duy

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú hay nhất (3 mẫu) (ảnh 3)

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Giới thiệu nhà thơ Tố Hữu và bài thơ “Khi con tu hú”:

+ Nhà thơ Tố Hữu là một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, trong thơ của ông, hình ảnh của cách mạng của lí tưởng cộng sản luôn hiện hữu, gắn liền với mảnh đất quê hương Việt Nam cách mạng.

+ Bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu chính là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện cho phong cách thơ của người chiến sĩ cách mạng.

- Giới thiệu bốn câu thơ cuối bài.

II. Thân bài

- Khái quát về bốn câu thơ cuối bài thơ:

+ Trong bài thơ “Khi con tu hú”, tiếng chim tu hú có tác động mạnh mẽ tới tâm hồn nhà thơ, nó báo hiệu mùa hè đến, mùa của sức sống thiên nhiên, tạo vật.

+ Tác giả đang trong cảnh lao tù cảm thấy càng ngột ngạt và tù túng, cô đơn, từ đó càng khao khát được tự do, tung hoành.

- Tâm trạng nhà thơ trong nhà tù:

+ Bài thơ “Khi con tu hú” được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh đang sống trong nhà tù, tưởng chừng như những bức tường kín mít xung quanh kia không thể ngăn cản nhà thơ lắng nghe và tưởng tượng về thế giới bên ngoài.

+ Khi hướng tâm hồn ra bên ngoài, nhà thơ mới thực sự bị đánh động vào trong tâm trạng của mình

+ Cảm giác ngột ngạt, tù túng của nhà thơ: Tiếng chim ở ngoài không gian bao la kia càng thiết tha, sinh động thì càng khiến người tù càng cảm thấy bị tách biệt, ngột ngạt “muốn đập tan phòng”.

- Niềm uất hận, bế tắc khi chưa ra khỏi chốn lao tù:

+ Nhưng tiếng chim tu hú ở cuối bài thơ lại khiến cho người tù cảm thấy ngột ngạt, bực bội, khó chịu và khó chấp nhận, chìm đắm vào sự đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đày, giam cầm “chết uất thôi”.

+ Bên ngoài tiếng tu hú vẫn không ngừng vang lên, niềm uất hận trong lòng tác giả vẫn cứ thế kéo dài.

III. Kết bài

- Nêu ý nghĩa của 4 câu thơ cuối bài thơ “Khi con tu hú”.

Top 10 bài Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú hay nhất (ảnh 1)

Các bài văn mẫu khác:

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 2

Trở lại với thực tại đang bị giam hãm, chỉ với bốn câu thơ cuối bài, tác giả đã thể hiện tâm trạng bức xúc, sự phẫn uất của mình:

"Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu".

Trước hết là khát vọng muốn bứt phá tù ngục muốn “đạp tan phòng”. Mùa hè trở thành đối tượng vẫy gọi, đối tượng để nhà thơ thổ lộ tâm tình. Cảm giác ngột ngạt trong cảnh tù hãm lên đến tột đỉnh khi nhà thơ thốt lên: “Ngột làm sao, chết uất thôi”.

Cái ngột ngạt ở đây không chỉ là giới hạn chật hẹp của phòng giam, mà là sự phẫn uất của tác giả và niềm khao khát tự do, khao khát trở về với cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi. Các từ cảm thán “ôi”, “thôi”, “làm sao”,... càng nhấn mạnh cảm giác ngột ngạt đó.

Tiếng “Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!” càng như thôi thúc vẫy gọi. Tiếng chim tu hú báo hiệu xuân hết hè sang, báo hiệu sự chuyển đổi của thời gian, mà đối với người chiến sĩ cộng sản, vấn đề không phải chỉ là ở chỗ bị bắt bớ tù đày khổ ải, mà vấn đề là ở chỗ cách mạng đang bước vào giai đoạn quyết liệt, thời cơ của cách mạng giải phóng dân tộc đã tới gần. Do đó, thời gian hành động đòi hỏi rất cấp bách, trong khi ấy, người chiến sĩ lại đang bị giam hãm trong nhà lao.

Cách ngắt nhịp 6/2 hay 3/3 cũng nhấn mạnh trạng thái tinh thần bức xúc, bực bội ấy (“Mà chân muốn đạp tan phòng/ hè ôi”, “Ngột làm sao/ chết uất thôi”). Tiếng chim tu hú một mặt vừa báo hiệu sự chuyển dịch của thời gian, mặt khác vừa như thúc bách, giục giã người thanh niên cách mạng trẻ tuổi đang bị giam hãm trong nhà lao đế quốc phải nhanh chóng thoát ra ngoài để trở về với phong trào, để cùng với nhân dân đấu tranh cho tự do, độc lập.

Nếu tiếng chim ở phần đầu bài thơ là tiếng chim thông báo chuyển mùa thì tiếng chim ở cuối bài là tiếng chim nhắc nhở, thôi thúc. Tiếng chim một mặt cho thấy dấu hiệu dịch chuyển thời gian, mặt khác lại cho thấy thời gian không đợi không chờ. Tiếng chim ấy đối với người tù cộng sản cũng là tiếng gọi của tự do.

Top 10 bài Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú hay nhất (ảnh 2)

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 3

Nếu sáu câu đầu là bức tranh mùa hè trong tâm tưởng được sáng tác trong tù, cảnh đẹp đó đang say đắm lòng người, làm náo nức trái tim yêu đời, yêu cuộc sống, yêu tự do của người tù cách mạng. Đó là sản phẩm của trí tưởng tượng, của những cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống, khao khát tự do. Qua đó thể hiện tình yêu quê hương, đất nước với tâm hồn trẻ trung, phóng khoáng của nhà thơ - người chiến sĩ trẻ.

"Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!

Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu".

Nhân vật trữ tình trở lại với thực tại. Đó chính là nỗi đau khổ, tâm trạng ngột ngạt uất ức vì bị giam cầm trong bốn bức tường u tối. Nhịp thơ thay đổi bất thường 6/2 (câu 8), 3/3 (câu 9), kết hợp với nhiều động từ mạnh: đạp tan phòng, chết uất thôi và nhiều từ cảm thán. Tất cả làm nổi bật được nỗi đau khổ đến tận cùng đồng thời qua đó cảm nhận được khát vọng muốn thoát khỏi cảnh tù đày u ám để trở về với cuộc sống tự do của người chiến sĩ cách mạng. Cho ta thấy cuộc vượt ngục bằng tinh thần của người chiến sĩ cộng sản thật mạnh mẽ.

Đó là cuộc vượt ngục bằng tấm lòng nhiệt tình cách mạng, sống có lí tưởng đẹp đẽ với một tinh thần bất khuất không cam chịu. Đó là cuộc vượt ngục từ bóng tối ra ánh sáng. Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao. Cái tôi cá nhân hòa vào cái ta của dân tộc.

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 4

Bốn câu thơ cuối đã khắc họa 1 cách rõ nét tâm trạng của người tù cách mạng. Đó là tâm trạng đau khổ, bực bội, uất ức, ngột ngạt nhưng không hề có vẻ bi quan, chán chường, tuyệt vọng của một tâm hồn yếu đuối dễ bị gục ngã, quy phục trước hoàn cảnh. Nhà thơ cảm nhận vẻ đẹp mùa hè bằng chính sức mạnh tâm hồn, bằng tình yêu quê hương tha thiết, yêu cuộc sống tự do đến cháy bỏng "Ta nghe hè dậy bên lòng". Nhịp thơ đang đều đều, êm ái đến câu 8 và 9 bỗng bị ngắt bất thường 6/2, 3/3. Các từ ngữ, hình ảnh đang vui tươi, đến đây bỗng trở nên mạnh mẽ, dữ dội: đập tan phòng, chết uất, ngột... Tất cả để diễn tả tâm trạng u uất, ngột ngạt, bực bội và khát khao sống, khát khao tự do. Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tú hú và kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú. Phải chăng mỗi tiếng kêu của nó là một tín hiệu gợi nhắc về cuộc sống tự do và thân phận tù tội?. Tiếng chim tu hú ở đầu bài là tiếng gọi vào hè náo nức, rộn ràng. Tiếng chim tu hú ở câu thơ kết bài là tiếng kêu có phần như thiêu đốt giục giã, tiếng gọi của tự do, khát vọng da diết thôi thúc lòng người. Bài thơ kết thúc bằng cách mở ra tiếng chim tu hú cứ kêu "như giục giã những hành động sắp tới".

Video Phân tích 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 5

Bốn câu thơ cuối bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã cho ta thấy niềm khao khát tự do mãnh liệt trong người tù Cách mạng. Nghe tiếng hè, lòng người như xốn xang. Chốn lao tù có đau khổ không? Nó có lẽ không chỉ đau khổ mà còn khiến nhà thơ phẫn uất vô cùng! Hành động "đạp tan phòng" đủ gúp ta có những hình dung về sự bế tắc cực độ trong người tù. Thế giới mùa hè ngoài kia đẹp quá, sống động quá. Nhưng nhà thơ của chúng ta chỉ có thể tự giam hãm mình, tự mình vượt lên trên nỗi đau ấy. Cảm thán từ "hè ôi!" như tiếng lòng bật ra đau đớn, đau đớn đến tuyệt vọng trong thực tại. Sự ngột ngạt, uất ức, bế tắc trở thành nỗi niềm tâm trạng trong thi nhân. Động từ mạnh biểu thị sắc thái cảm xúc trong toàn bài kết hợp với rất nhiều thán từ đẩy niềm cảm xúc trong thi nhân vươn lên tột độ. Con chim tu hú ngoài trời kêu như tiếng kêu của lòng người, tiếng đau khổ khôn cùng trong lao ngục. Người tù khát khao về một thế giới tự do, khao khát ngày hè tươi đẹp. Lòng chìm đắm trong thế giới đẹp tươi mà thực tại thì đau đớn, giằng xé.

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 6

Tự do, xưa nay vốn là điều mà bất kì ai cũng mong muốn có được trong cuộc sống. Tuy quan điểm tự do mỗi thời kỳ mỗi khác, thế nhưng tất cả đều chung một điều là khao khát được tự do về thể xác, tự do về suy nghĩ, lý tưởng. Vào những năm tháng kháng chiến chống Pháp, hàng vạn thanh niên đã được giác ngộ lý tưởng cách mạng. Mong muốn được đem sức trẻ, nhiệt huyết để được chiến đấu cho hòa bình dân tộc.

Nhà thơ Tố Hữu cũng như bao lớp thanh niên thời đại lúc bấy giờ, được giác ngộ lý tưởng cách mạng. Tuy nhiên, chỉ mới hoạt động trong thời gian ngắn đã bị giam cầm. 4 câu thơ cuối bài khi con tu hú đã diễn tả đầy đủ tâm trạng của nhà thơ khi bị giam cầm trong nhà lao.

Nếu như 6 câu thơ đầu là bức tranh tưởng tượng của tác giả khi bị giam cầm trong nhà tù. Bức tranh thiên nhiên với những hình ảnh chân thực, rõ nét như lúa thơm đang chín, nắng đào ngoài sân...Khung cảnh ngày hè hiện ra với sự ồn ào, tự do phóng thoáng. Bức tranh đó cũng là khoảng thời gian tươi đẹp của tác giả khi được tham gia hoạt động cách mạng.

Nhưng sau đó, cũng tiếng chim tu hú đã kéo tác giả về với thực tại.

"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu".

Bốn câu thơ diễn tả tâm trạng thực của tác giả lúc bấy giờ, khung cảnh hoài mộng về sự tự do trong 6 câu thơ đầu đã bị “tiếng hè gọi dậy”. Đó là tâm trạng bực bội, phẫn uất và bí bách của nhà thơ khi bị giam chân trong 4 bức tường. Nhịp thơ đã có sự thay đổi khi câu thơ 8 là nhịp 6/2 và sang câu thứ 9 là nhịp 3/3.

Ngột làm sao chết uất thôi

Câu thơ là sự giằng co mãnh liệt trong tâm hồn và nội tâm của tác giả. Tất cả như làm nổi bật được sự đau khổ đến cùng cực của tác giả khi bị giam cầm trong bốn bức tường. Cái ngột ngạt này việc do mùa hè đem lại, bởi lẽ khí hậu đất Huế thì mùa hè nóng như thiêu như đốt, cộng thêm phòng giam chật hẹp khiến không khí bị thu hẹp lại.

Ngoài ra cái ngột ngạt ở đây còn là tâm trạng tù túng khi bị giam cầm trong nhà lao. Tiếng tu hú ngoài kia như thôi thúc tinh thần chiến đấu của cả dân tộc, còn bản thân tác giả đang phải ở trong này chịu cảnh lao tù. Tinh thần và ý chí muốn được ra ngoài kia để vẫy vùng, thế nhưng thực tại lại bị giam cầm trong xiềng xích.

Có thể nói đây là thực cảnh hết sức thống khổ của tác giả khi không được tự do về thể xác, khiến tinh thần dù muốn thoát ra nhưng vẫn bị lao tù kéo lại. Muốn đập tan xiềng xích nhưng lại không thể làm theo điều mình muốn, tự do bản thân lại do người khác nắm giữ.

Tuy xiềng xích nhà lao có thể giam giữ đôi chân, thể xác của tác giả. Nhưng xiềng xích lại không thể nào trói buộc tâm tư và lý tưởng của người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim tu hú, tiếng kêu của sự tự do, thôi thúc ngọn lửa lý tưởng bùng cháy lên dữ dội. Tuy thân thể ở trong lao tù, nhưng tinh thần vẫn ở ngoài kia, không bao giờ bị dập tắt. Đây có thể coi là cuộc vượt ngục từ bóng tối ra ánh sáng, khi cái tôi cá nhân hòa vào cái tôi của cả dân tộc.

Video tóm tắt kiến thức bài Khi con tu hú

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 7

Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ ông ngập tràn những hình ảnh lãng mạn cách mạng. Tâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu hú của ông tiêu biểu cho phong cách ấy.

Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điếm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.

Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Khỉ con tu hú gọi bầy (cũng là khi mùa hè đang đến), người tù cách mạng càng thấy ngột ngạt, cô đơn trong phòng giam chật hẹp, càng khát khao được sống cuộc sống tự do bay bổng ở ngoài kia.

Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi nó là tín hiệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.

Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim "gọi bầy", tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng "lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần". Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:

Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.

Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh "Đôi con diều sáo lộn nhào từng không". Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.

Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải "hạt bắp vàng mà là "bắp rây vàng hạt" nắng là "nắng đào" màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì "càng rộng càng cao" tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ "ngân" mà còn "dậy" lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hòa điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cánh diều sáo cũng không chịu lững lờ" hay "vi vu" mà "lộn nhào từng không”. Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.

Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe... Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được tháo cũi sổ lồng. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh, huyền ảo, rực rỡ hẳn lên. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống, đôi với quê hương.

Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!

Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.

Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau, ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đày.

Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.

Top 10 bài Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú hay nhất (ảnh 3)

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 8

Hoạt động cách mạng bị bắt giam, ngồi trong nhà lao,Tố Hữu, người chiến sĩ mười chín tuổi vừa giác ngộ lí tưởng cộng sản cao đẹp, ôm ấp bao dự định xông pha trong trường tranh đấu, xả thân vì nghĩa lớn, nghe tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến đã làm bài thơ này.

Mùa hè sống động, náo nức, đầy gợi mở, nhưng người trẻ tuổi say mê hoạt động như ông lại bị cầm tù giữa bốn bức tường kín mít, ngột ngạt, cách biệt với cuộc đời. Tiếng chim tu hú kia đã đánh thức nỗi niềm, bản tính sôi nổi ở người thanh niên cộng sản. Từ tiếng chim tu hú, Tố Hữu tưởng nghĩ đến cuộc sống phóng khoáng, nóng bỏng của mùa hè ở bên ngoài.

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.

Có người cho rằng khổ thơ dẫn trên là một bức tranh phong cảnh, với những câu tả cảnh vào loại đẹp và hay trong tập thơ Từ ấy, trong cả thơ Tố Hữu.

Quả thật ở đây cảnh mùa hè được tả có hồn, sống động. Tất cả dường như đang nảy nở, phát triển. Lúa chiêm “đương” chín, không phải “đã” chín; trái cây “đang” ngọt dần, không phải “đã” ngọt. Và đều bộc lộ hết sức mình trong cái mùa hè rộn rã kia. Tiếng ve “dậy”, nắng vàng “đầy” sân. Chiều rộng, chiều cao của không gian, của sự vật thật phóng khoáng, tự do. Trời xanh cao rộng, diều sáo “lộn nhào tầng không”.

Tiếng chim tu hú như là khúc dạo đầu. Từ khúc mở màn này, cả mùa hè bừng lên, náo nức, say mê. Nhưng cho rằng đây là một bức tranh thì không đúng. Với con mắt hoạ sĩ, đây không phải là một bức tranh mùa hè với bấy nhiêu thứ dồn vào một cái khung như thế. Hình như hai câu đầu là một bức, câu thứ ba, thứ tư và hai câu năm, sáu đều là những bức tranh độc lập với nhau. Nếu gọi là tranh thì đây là tranh liên hoàn mới đúng. Tại sao lại như thế? Vì đây là “tranh” không được vẽ bằng mắt nhìn, mà vẽ bằng tưởng tượng, hình dung ra theo tâm trạng của con người. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này, ở lúc này không định vẽ tranh mà cảnh trí náo nức, sinh động, sinh sôi của cảnh vật từ tiếng ve kêu đã hiện thành hình, đứt nối thành mùa hè trong con người. Cảnh rồi lại cảnh theo đó mà hiện ra, toàn những cảnh phóng khoáng tự do như mộng tưởng.

Về mặt kết cấu đoạn một, 6 câu thơ đầu và đoạn hai, 4 câu thơ cuối có thể xem là hai bài thơ riêng biệt. Bài trước được đặt tên là “mùa hè”, bài sau đặt tên là “tiếng chim tu hú”. Thì ra tuy ngay bài đầu câu đầu của bài đã là “Khi con tu hú gọi bầy” nhưng thực ra cái hồn của cả bài thơ này, bài Khi con tu hú lại nằm ở 4 câu sau, ở câu sau cùng:

Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.

Thì ra tiếng chim tu hú ấy tạo “nghịch trạng” trong lòng người thanh niên này. Mùa hè sôi động, rực rỡ, khoáng đạt đã đến rồi mà mình lại bị giam hãm tù túng. Ngoại cảnh (do tưởng tượng vì đã được nếm trải) tác động vào con người gây một xung động ở con người, khiến con người bức bối, ngột ngạt muốn vùng vẫy, tung phá.

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi.

Nhưng thực tế không thể làm được, nên phải buột ra thành lời than. Ấy chính là biểu hiện của lòng khao khát tự do, khao khát hoạt động bị thôi thúc ngày càng mãnh liệt ở con người trẻ tuổi giàu tâm huyết chưa được thoả mãn, đáp ứng. Câu thơ cuối cùng: “Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu” như tiếng đời cứ lăn náo nức mà con người thì đang đành chịu tù túng. Tiếng chim tu hú ngoài trời kia lại như giục giã đốt nóng tâm can dữ dội.

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu

Tiếng chim tu hú chính là tiếng đời, là cuộc sống hoạt động cách mạng. Và tâm trạng, tinh thần kia là tâm trạng, tinh thần của một người chiến sĩ trẻ tuổi “say mùi hương chân lí”.

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 9

Nhà thơ Tố Hữu là một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, trong thơ của ông, hình ảnh của cách mạng của lí tưởng cộng sản luôn hiện hữu, gắn liền với mảnh đất quê hương Việt Nam cách mạng. Bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu chính là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện cho phong cách thơ của người chiến sĩ cách mạng.

Trong bài thơ “Khi con tu hú”, tiếng chim tu hú có tác động mạnh mẽ tới tâm hồn nhà thơ, nó báo hiệu mùa hè đến, mùa của sức sống thiên nhiên, tạo vật. Khiến cho tác giả đang trong cảnh lao tù cảm thấy càng ngột ngạt và tù túng, cô đơn, từ đó càng khao khát được tự do, tung hoành. Và tâm trạng đó của người tù cộng sản được bộc lộ rõ nhất trong bốn câu thơ cuối:

“Ta nghe hè dậy bên lòng
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”

Ở khổ thơ đầu bài thơ, là một bức tranh thiên nhiên mùa hè tươi đẹp và tràn đầy màu sắc, âm thanh. Chính trí tưởng tượng và trí nhớ cùng với tình yêu thiên nhiên, cuộc sống của Tố Hữu đã vẽ nên bức tranh đó với tất cả mọi thứ đều được tô đậm và đẩy lên mức cao nhất của rực rỡ. Đoạn thơ đã thể hiện tình yêu và lòng khao khát sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống và thiên nhiên. Thế nhưng, mộng tưởng đẹp đẽ bao nhiêu thì thực tế đối với tác giả lại phũ phàng, cay nghiệt bấy nhiêu.

“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!”

Bài thơ “Khi con tu hú” được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh đang sống trong nhà tù, tưởng chừng như những bức tường kín mít xung quanh kia không thể ngăn cản nhà thơ lắng nghe và tưởng tượng về thế giới bên ngoài. Thế nhưng khi hướng tâm hồn ra bên ngoài, nhà thơ mới thực sự bị đánh động vào trong tâm trạng của mình. Tiếng chim ở ngoài không gian bao la kia càng thiết tha, sinh động thì càng khiến người tù càng cảm thấy bị tách biệt, ngột ngạt “muốn đập tan phòng”.

“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”

Có thể thấy, dù là mở đầu hay kết thúc bài thơ, tiếng chim tu hú vẫn mang biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của cuộc sống tự do đầy ám ảnh đối với người tù cộng sản. Tuy nhiên ở mỗi thời điểm, tâm trạng của người tù khi lắng nghe tiếng chim tu hú lại khác nhau, ở đầu bài thơ, khi nghe tiếng chim, người tù khao khát mãnh liệt về cuộc sống tự do, tung hoành ngang dọc. Nhưng tiếng chim tu hú ở cuối bài thơ lại khiến cho người tù cảm thấy ngột ngạt, bực bội, khó chịu và khó chấp nhận, chìm đắm vào sự đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đày, giam cầm “chết uất thôi”. Bên ngoài tiếng tu hú vẫn không ngừng vang lên, niềm uất hận trong lòng tác giả vẫn cứ thế kéo dài.

Như vậy, chỉ với bốn câu thơ cuối bài thơ “Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện một nguồn sống sôi sục của người tù cộng sản. Những câu thơ mang hình ảnh gần gũi, giản dị với cảm xúc thiết tha, sâu lắng đã để lại trong lòng người đọc một hình ảnh về người tù cộng sản Tố Hữu rất rõ nét.

Cảm nhận 4 câu thơ cuối bài Khi con tu hú – mẫu 10

Tố Hữu “con chim đầu đàn” của thơ ca văn học Việt Nam, là người chiến sĩ cộng sản giàu lòng yêu nước. Những bài thơ mà ông sáng tác trong thời kỳ này luôn gắn liền với tư tưởng cách mạng của thời đại. Mỗi bài thơ là lời cổ vũ, là tiếng lòng của thời đại, là khao khát tự do, hòa bình. Bài thơ khi con tu hú được viết nên khi ông đang bị giam cầm tại nhà lao Thừa Phủ, Huế.

Khi vừa giác ngộ lý tưởng cách mạng, hoạt động chưa được bao lâu, Tố Hữu đã bị bắt giam. Đang còn ôm trong mình biết bao lý tưởng, hoài bão, mong muốn được chiến đấu, xả thân cho cách mạng thì phải vào chốn lao tù. Tâm trạng lúc này của nhà thơ không nén nỗi bức bối, ngột ngạt.

Vào những năm kháng chiến ác liệt, mùa hè như làm sôi sục thêm ý chí và tinh thần chiến đấu. Thế nhưng ông lại bị giam chân trong bốn bức tường, ngăn cảnh ông với thế giới bên ngoài. Tiếng chim tu hú ngoài kia như thôi thúc mãnh liệt ý chí và tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng.

Có khá nhiều ý kiến thắc mắc tại sao lại là tiếng tu hú mà không phải là tiếng ve, bởi lẽ tiếng ve cũng báo hiệu mùa hè. Tuy nhiên tiếng ve lại gợi lên sự âu sầu, tiếng ve kêu rả rích khiến người ta chỉ thêm buồn. Còn tiếng tu hú lại có sự thôi thúc mãnh liệt hơn. Tiếng kêu tu hú khiến tác giả liên tưởng mạnh mẽ đến cuộc sống phóng thoáng bên ngoài:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Bức tranh mùa hè đã được nhà thơ miêu tả chi tiết, sinh động. Hình ảnh trong những câu thơ hết mực gần gũi như lúa đang chín, trái cây đang ngọt, ngoài vườn có tiếng ve ngân, bắp đang phơi ngoài sân. Đây đều là những hình ảnh thường ngày, rất giản dị, chân thực. Tuy bốn bề là tường đá, song sắt thế nhưng chỉ giam cầm được thể xác của nhà thơ.

Tác giả đang liên tưởng tới cánh diều nhào lộn trên bầu trời cao, với khoảng trời xanh bao la, rộng lớn. Vạn vật không gian dường như vô cùng rộng lớn, khơi dậy sự phóng thoáng, tự do trong tâm hồn nhà thơ. Tuy nhiên tất cả chỉ là tưởng tượng, hồi tương về khoảng thời gian tự do trước đây.

Phân tích 4 câu thơ cuối bài khi con tu hú để làm rõ nét hơn suy nghĩ chân thực của nhà thơ. Nếu như tiếng tu hú gọi bầy ở 6 câu thơ đầu gợi lên sự tự do, phóng thoáng thì ở 4 câu thơ cuối lại đưa tác giả về với thực tại. Tiếng kêu của chim tu hú lúc này lại là nghịch cảnh lớn trong tâm hồn của nhà thơ.

Nếu như tiếng chim tu hú ngoài kia là sự tự do, phóng thoáng cho mùa hè sôi động. Thì nội tâm tác giả lúc này lại vô cùng ngột ngạt, bí bách. Thân thể đang bị 4 bức tường đá bủa vây, bao nhiêu hoài bão, chí hướng lớn vẫn chưa thực hiện được. Dường như có sự đối nghịch rất lớn giữa không gian bên ngoài và tâm trạng thực tế của nhà thơ.

Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi

Tuy nhiên thực tế lại không như mong muốn, đôi chân này không thể đạp đổ bức tường, đôi tay này không thể phá bỏ xiềng xích. Câu thơ là tiếng than cho tâm hồn đầy hoài bão nhưng vẫn bị giam cầm tại đây.

Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu

Cái nóng mùa hè của Huế cùng với sự bí bách trong tâm trạng lao tù của nhà thơ đã tạo nên tâm trạng ngột ngạt đến cùng cực “chết uất thôi”. Tiếng con tu hú cứ kêu, dòng đời vẫn tiếng tục, nhịp sống và tinh thần kháng chiến vẫn sục sôi. Vậy mà ông vẫn phải bị giam cầm nơi đây mà không sao thoát ra được.

4 câu thơ cuối là câu thơ “đắt giá” nhất của bài thơ. Tiếng con chim tu hú là tiếng đời và cũng là cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng. 4 câu thơ cuối làm rõ nét hơn tâm trạng và tinh thần của người chiến sĩ cách mạng.

Phân tích đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Khi con tu hú – mẫu 1

Bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất được ra đời trong thời gian tác giả bị giam tù. Bài thơ ra đời là tiếng lòng và tâm trạng của người chiến sĩ cộng sản khao khát cuộc sống tự do, tung hoành ngang dọc. Bài thơ đã cho người đọc cảm nhận một bức tranh mùa hè tươi sáng và rực rỡ sắc màu, âm thanh, đồng thời là tình yêu thiên nhiên, cuộc đời của tác giả.

Có thể nói, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của Việt Nam, thơ văn của ông có sức ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học nước nhà. Chính vì vậy trong thơ của Tố Hữu, ẩn chứa những nét riêng độc đáo của một thi nhân nổi tiếng Việt Nam. Bài thơ “Khi con tu hú” của ông với những đặc sắc nghệ thuật đã phần nào thể hiện được phong cách và nghệ thuật thơ của Tố Hữu.

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

Tác giả đang ở trong tù nhưng lại vẽ ra một cảnh tượng như đang đứng ở đầu làng quê yên bình, có cánh đồng lúa và có vườn cây trái. Có thể thấy, cách tưởng tượng của nhà thơ cho thấy sức sống và sinh khí của mùa hè đang trỗi dậy mãnh liệt, có tiếng chim nô nức gọi nhau, có lúa đang chín vàng cánh đồng và có mùi thơm của hoa trái. Không hề thấy bóng dáng của người tù bị giam cầm trong nhà lao mà chỉ thấy hình ảnh con người đứng giữa trời đất bao la, khoáng đạt tận hưởng không gian rộng lớn.

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân…

Đôi con diều sáo lộn nhào tầng không”

Dưới ngòi bút và sự tưởng tượng của nhà thơ, bức tranh mùa hè có tiếng ve râm ran, có sân ngô phơi vàng, bầu trời xanh cao rộng và tiếng sáo diều vi vu. Đó là một bức tranh có cảnh gần – xa, cảnh cao – thấp và tràn ngập màu sắc, âm thanh. Đó quả là những vần thơ đẹp, đầy mộng tưởng tình tứ.

“Ta nghe hè dậy bên lòng

Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!”

Câu thơ đã phản ánh rõ thực tại trong nhà tù của tác giả, mùa hè tươi đẹp bỗng biến mất, chỉ còn lại mùa hè oi bức, ngột ngạt khiến cho tác giả muốn “đạp tan phòng”. Đến lúc này, tâm trạng nhà thơ đã bị biến đổi, uất ức vì phải chịu cảnh giam cầm, chưa thoát khỏi được chốn lao tù:

“Ngột làm sao, chết uất thôi

Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”

Tóm lại có thể thấy, mọi cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ đều được bắt nguồn từ tiếng chim tu hú kêu, ở những thời điểm khác nhau, tiếng chim đã khiến tâm trạng tác giả có những biến chuyển khác nhau. Và nghệ thuật đặc sắc của bài thơ chính là sự kết hợp hài hòa của không gian, giữa bên trong và bên ngoài lao tù. Hai khung cảnh với những cảnh vật khác nhau đã tạo ra sự dồn nén, đẩy niềm khát khao tự do của người tù cộng sản lên đỉnh điểm. Bài thơ để lại những tiếng kêu vang vọng trong lòng người đọc, đó chính là tiếng chim tu hú và tiếng thân uất hận của nhà thơ.

Phân tích đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Khi con tu hú – mẫu 2

Khi con tu hú là bài lục bát ngắn, gồm mười câu thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu, được đưa vào chương trinh Ngữ văn THCS trong suốt một thời gian dài. Bài thơ là nỗi lòng của tác giả trong những tháng ngày bị giam cầm ở Huế. Không khó để nhận thấy bài thơ được cấu tứ từ hai bức tranh đối lập: hiện thực cuộc sống tươi đẹp ngoài kia và những tâm tư của tác giả trong tù. 

Nếu như những xúc cảm bực bội, uất hận ở bốn câu thơ cuối: Ta nghe hè dậy bên lòng / Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi/Ngột làm sao, uất chết thôi/ Con chim tu tú ngoài trời cứ kêu biểu hiện cho ý chí kiên cường, tinh thần đấu tranh cách mạng đến cùng của người tù cộng sản Nguyễn Kim Thành thì sáu câu thơ đầu lại mang những nét đặc trưng trong nghệ thuật lục bát của nhà thơ Tố Hữu, đặc biệt trong việc miêu tả thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp được bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn và hợp lí của Tố Hữu, vì khi buộc phải ở trong một không gian chật hẹp, hạn chế về thị giác thì sợi dây liên kết khả dĩ nhất của tác giả với thế giới là thính giác. Từ tiếng chim kêu ấy, nhà thơ đã hình dung ra cả một không gian tươi đẹp, tràn trề nhựa sống ở ngoài kia. Không gian đó dường như là vô cùng vô tận, trải dài theo cả ba chiều: chiều dài với những cánh đồng lúa mênh mông, vườn cây ăn trái xum xuê quả ngọt, chiều rộng và chiều cao lồng lộng đến vô cùng của bầu trời xanh. Và màu sắc cũng được nhà thơ huy động đến tối đa đêr làm cho bức tranh thiên nhiên ấy thêm tươi tắn, sống động, vui tươi. Miêu tả màu sắc là một trong những điểm mạnh nổi bật của thơ Tố Hữu nói chung và lục bát Tố Hữu nói riêng. Ông luôn có những câu thơ miêu tả màu sắc tuyệt hay. Trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chỉ bằng hai câu thơ: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng Tố Hữu đã miêu tả được năm màu sắc (xanh, hồng, lam, trắng, vàng), ở một bài lục bát khác, bài Tiếng hát sang xuân, Tố Hữu cũng có hai câu lục bát gợi nên những sắc màu gây ấn tượng mạnh với bạn đọc: Ngoài này nắng đỏ cành cam/ Chắc trong ấy nắng xanh lam ngọn dừa. Đặc biệt, ở bài lục bát “kinh điển” Việt Bắc qua mấy câu thơ: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi / Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng / Ngày xuân mơ nở trắng rừng / Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng / Nhớ cô em gái hái măng một mình /Rừng thu trăng rọi hòa bình / Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung, Tố Hữu cũng miêu tả hàng loạt những màu sắc như xanh, đỏ, trắng và đặc biệt là màu vàng. Trong đoạn thơ này mặc dù chỉ có màu vàng của cây phách được miêu tả trực tiếp, nhưng lại có đến ba màu vàng khác bị ẩn đi. Đó là màu vàng của măng, của trăng và của sợi giang. Đây là nét tài hoa của nhà thơ Tố Hữu mà ít người có được. Và ở khổ thơ này, chúng ta lại một lần nữa bắt gặp hàng loạt những sắc màu như màu vàng đậm của lúa chiêm đang vảo vụ chín, màu vàng nhạt của hạt bắp, màu sáng trong của tia nắng đào, màu xanh của trời: Khi con tu hú gọi bầy/ Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần/ Vườn râm dậy tiếng ve ngân/ Bắp rây vàng hạt đẩy sân nắng đào / Trời xanh càng rộng càng cao / Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.

Về âm thanh, trong khổ thơ đầu, chúng ta bắt gặp âm thanh của tiếng chim tu hú, tiếng ve ngân và tiếng sáo diều. Ba âm thanh gợi mở ba trạng huống của mùa hè. Tiếng tu hú gọi bầy mang tính chất báo hiệu thời gian bắt đầu dịch chuyển từ xuân sang hè, tiếng ve ngân báo hiệu mùa hè đã thực sự bắt đầu. Như vậy, có thể thấy Tố Hữu đã sử dụng âm thanh để miêu tả thời gian một cách tài tình. Thời gian vật lí không được hiện lên qua các từ, cụm từ quen thuộc như sáng, trưa, chiều, tối, hay được phiếm chỉ qua các từ đầu, giữa, cuối mà bằng thanh âm của những loài vật. Sự miêu tả này vừa bộc lộ khả năng quan sát tinh tế các sự vật, hiện tượng trong đời sống, vừa thể hiện khả năng tái hiện chúng một cách tài tình của Tố Hữu. Nếu như hai âm thanh đầu mang chức năng tái hiện thời gian, thì âm thanh thứ ba (tiếng sáo diều) còn có nhiệm vụ quan trọng hơn. So với hai âm thanh kể trên, tiếng sáo diều có điểm khác biệt lớn. Đó là âm thanh không có sẵn trong tự nhiên, đó là âm thanh do con người tạo ra bằng tâm hồn nghệ sĩ và bàn tay tài hoa của mình. Sự xuất hiện của tiếng sáo diều báo hiệu rằng ngoài kia có người đang tự do, tự tại, ung dung hưởng thú vui tao nhã nơi “đồng chiều cuống rạ”. Và chỉ đến khi có âm thanh gợi nên bóng dáng của con người, thì mùa hè mới thật sự là mùa hè, mới thật sự toát lên tất cả sức sống mãnh liệt, sự vui tươi trẻ trung. Một mùa hè “chín” thật sự. Mặt khác, không phải ngẫu nhiên Tố Hữu để âm thanh sáo diều xuất hiện cuối cùng trong khổ thơ đầu, đó là âm thanh gợi nên mối liên hệ giữa người với người, làm ý chuyển để đến với tâm trạng tác giả ở khổ sau, nhằm nêu bật lên sự tương phản giữa người tự do và người tù cộng sản.

Một điểm hết sức thú vị trong đoạn thơ này là hệ thống vần. Như chúng ta đã biết vần của lục bát tuân thủ theo quy luật chặt chẽ. Chữ thứ sáu của câu lục hiệp vần với chữ thứ sáu của câu bát, chữ thứ tám của câu bát lại hiệp vần với chữ thứ sáu của câu lục tiếp theo, cứ như vậy liên tục xoay vòng cho đến hết bài. Đây là lối hiệp vần chân thường gặp ở một bài lục bát chuẩn. Lục bát cũng có trường hợp hiệp vần lưng ở chữ thứ tư của câu bát. Thơ Tố Hữu cũng có nhiều câu hiệp vần giữa tiếng thứ sáu của câu lục và tiếng thứ tư của câu bát ví như trong bài Phá đường, ông đã hiệp vần ở tiếng thứ tư ở câu bát hai lần liên tiếp:

Nhà em thóc lúa chưa khô

Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong

Nhà em con bế con bồng

Em vẫn theo chồng đi phá đường quan.

Nhưng ở bài Khi con tu hú, trong câu thơ:

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…

Chúng ta thấy Tố Hữu hiệp vần rất đặc biệt. Tiếng thứ sáu của câu lục (cao) hiệp vần với cả tiếng thứ tư (sáo) và tiếng thứ sáu của câu bát (nhào). Đây là hiện tượng hiệp vần kép, khá hiếm gặp trong lục bát hiện đại. Ba chữ này đều có vần “ao”. Theo hiểu biết của chúng tôi, duy chỉ có bài lục bát Ếch mà của Tản Đà cũng có lối hiệp vần như trên:

Phượng kêu trái núi bên tê

Hồng bay bốn bề, nhạn về nơi nào

Ở đây, ba chữ tê – bề – về hiệp vần “ê” với nhau. Cách hiệp vần này có thể coi là một biến thể về vần trong thể lục bát, đem lại sự thú vị cho người đọc, chứng tỏ khả năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của nhà thơ. Đến đây, có thể nói rằng chỉ bằng sáu câu lục bát, Tố Hữu đã dựng nên cả một bức tranh mùa hè sống động với âm thanh, màu sắc, hình ảnh tươi tắn và bộc lộ hết được sở trường, sự tài hoa của mình trong thể lục bát truyền thống của dân tộc. Đây có lẽ cũng là một trong những lí do Khi con tu hú được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 1

Nhà thơ Tố Hữu là một người có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với nền văn học Việt Nam. Ông có nhiều những tác phẩm nổi tiếng mà trong đó phải kể đến bài thơ rất tiêu biểu là “Khi con tu hú”. Đây là một bài thơ được ông viết trong tù, hoàn cảnh ngục tù ngột ngạt, xiềng xích nhưng không thể trói buộc tâm hồn lạc quan và khao khát tự do của Tố Hữu.

Mở đầu bài thơ “Khi con tu hú” chính là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về mùa hè, tác giả đã vẽ bức tranh thiên nhiên ấy bằng sáu câu thơ đầu. Chúng ta không cảm thấy quá bất ngờ trước cảnh tượng thiên nhiên, bởi đây là cảnh mùa hè quen thuộc của miền quê Việt Nam. Đó là một bức tranh hiện thực được mở ra bằng sự lắng nghe hiện tại và hồi tưởng quá khứ.

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

Tiếng tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến, lùa mùa màng đang tới và trái cây chín muồi, hoàn toàn theo quy luật của tự nhiên, tiếng chim gọi bầy như đang gọi mùa, mang đến sự náo nức, xôn xao trong đất trời và cả trong lòng người. Tiếng tu hú đã mang lại mạch sống của cây cối, mọi cảnh vật dường như đang ở trong thế động, lúa đang chín và trái ngọt dần. Nhà thơ Tố Hữu đã gửi gắm tâm tình của mình vào trong câu thơ, cái động của cảnh vật chính là tài của nhà thơ, gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu sự sống và yêu cuộc đời của tác giả.

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân…

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”

Mùa hè hiện lên rất sinh động và tươi đẹp, màu vàng của lúa, màu của trái cây cùng với âm thanh rộn ràng của tiếng ve ngân lên đón chào mùa hè. Trong chốn tù ngục, nhà thơ nhớ về tiếng ve, hình ảnh sân bắp phơi đầy, thèm muốn một cuộc sống thường nhật, bình thường như bên ngoài. Trong nhà ngục tối tăm, ánh sáng của thiên nhiên và bầu trời quả là xa xỉ đối với nhà thơ, thế nhưng nhà thơ đã tự tạo ra cho mình một bầu trời tươi đẹp như thế:

“Trời xanh càng rộng càng cao…

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”

Hình ảnh diều sáo lộn nhào giữa không trung thể hiện cho khát vọng bay bổng, tự do, khao khát hòa nhập và tung hoành cùng thiên nhiên đất trời của tác giả. Tiếng sáo diều cao vút, rạo rực như chính tiếng lòng của người thanh niên Tố Hữu, mang trong mình tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát được sống trong thiên nhiên đã giúp cho nhà thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè trong trẻo, tươi mới và đầy màu sắc, âm thanh như thế. Để có được bức tranh đó, nhà thơ đã sử dụng các giác quan của mình, từ nghe, ngửi, nhìn để cảm nhận toàn bộ âm thanh, màu sắc và đường nét của mùa hè.

Chỉ với sáu câu thơ đầu bài thơ “Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu đã làm hiện lên một khung cảnh thiên nhiên yên bình đặc trưng của làng quê Việt Nam. Bức tranh thiên nhiên mùa hè trong tâm hồn nhà thơ đã phản ánh khát vọng tự do cháy bỏng của tác giả trong chốn lao tù.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 2

Đằng sau những song sắt của nhà tù thực dân, nơi tưởng chừng có thể giam giữ và cầm tù người chiến sĩ cách mạng, nhưng trong đó ngọn lửa của lòng yêu nước vẫn không ngừng cháy, trí căm hờn vẫn vút lên hòa vào từng câu thơ trong bài thơ "Khi con tu hú" của Tố Hữu. Đặc biệt, với tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa hè xứ Huế sôi nổi, phong phú và khát khao tự do đến cháy bỏng qua sáu dòng thơ:

"Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không"...

Bài thơ được sáng tác trên con đường nhà thơ hoạt động cách mạng và bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ của Huế. Trong bức tranh thiên nhiên tràn đầy hương sắc, ta có thể nhận thấy tác giả gửi gắm nhiều tâm sự trong đó qua nghệ thuật tả cảnh sinh động. Bức tranh thiên nhiên hiện lên rõ nét bằng cách sử dụng nhiều từ ngữ có tính chọn lọc cao như các tính từ chỉ mức độ "chín, ngọt", các tính từ chỉ màu sắc "vàng, đào, xanh", các từ miêu tả không gian "rộng, cao" kết hợp cùng biện pháp tu từ liệt kê giúp người đọc hình dung được bức tranh mùa hè với mùi vị, âm thanh, sắc màu rực rỡ, đa dạng, sinh động. Bên cạnh đó, việc sử dụng thể thơ quen thuộc mang đậm tính dân gian đã giúp nhà thơ bộc lộ tâm trạng, khao khát tự do một cách dễ dàng.

Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong tâm trí thi nhân với đầy đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Bức tranh ấy thật rộn ràng khi ta bất chợt nghe:

"Khi con tu hú gọi bầy"

Tiếng "tu hú" là tiếng gọi báo hiệu mùa hè tới khi hoa phượng ngoài kia đang đỏ rực, bằng lăng nở tím cả góc trời báo hiệu cái nắng chói chang của mùa hạ. Tiếng "tu hú" làm thổn thức tâm hồn thi nhân với khao khát tự do đến cháy bỏng. Tuy nhiên, bức tranh thiên nhiên ấy không chỉ có tiếng chim "tu hú" mà còn có cả những âm thanh râm ran của những chú ve trong vòm lá:

"Vườn râm dậy tiếng ve ngân"

Tất cả được hòa quyện cùng tiếng sáo diều trên bầu trời xanh thẳm:

"Đôi con diều sáo lộn nhào từng không"

Không chỉ có âm thanh của "tiếng tu hú", "tiếng ve ngân", tiếng "con diều sáo" đang di chuyển trên bầu trời mà bức tranh ấy còn tràn ngập sắc màu tươi vui khi:

"Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần"

Những cánh đồng lúa chín vàng trải dài bất tận báo hiệu một mùa bội thu thuận lợi. Trong cơn gió thoảng của mùa hè, nhà thơ ngửi thấy một mùi hương quen thuộc của quê nhà đó là mùi hoa quả chín tác động vào khứu giác làm ta bất chợt nhớ tới "hương ổi" trong bài thơ "Sang thu" của nhà thơ Hữu Thỉnh:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se"

để báo hiệu mùa thu đang đến cận kề. Với Tố Hữu cũng vậy, nhà thơ đã nhận ra mùi hoa quả đang chín ngọt dần báo hiệu một mùa hè đang tới với biết bao mong đợi. Không chỉ có màu vàng của lúa chín, bức tranh thiên nhiên ấy còn có màu vàng của những sân ngô, màu xanh hi vọng của bầu trời cao vút:

"Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng càng cao".

Với tất cả tin yêu, nhà thơ đã phác họa bức tranh thiên nhiên mùa hè sống động tràn đầy mới mẻ và tươi vui. Chắc hẳn nhà thơ là một người yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước đến cháy bỏng nên mới có những cảm nhận tuyệt vời đến vậy. "Thơ ca vốn là sự thăng hoa của cảm xúc". Bởi vậy, bức tranh thiên nhiên ấy còn chứa đựng những nỗi lòng của thi nhân. Nhà thơ như muốn phá tan song sắt để bước đến với thiên nhiên, để được cảm nhận và hòa quyện với những tinh hoa đất trời. Phải chăng, tiếng chim "tu hú gọi bầy", "tiếng ve ngân" đã làm cho nhà thơ thổn thức đến vậy?

Bằng ngòi bút tinh tế, nhà thơ đã phác họa thành công bức tranh thiên nhiên với đầy đủ màu sắc, hương vị và âm thanh. Với nghệ thuật tả cảnh sinh động, từ ngữ giản dị giàu tính tạo hình cùng với phép liệt kê, nhà thơ đã tạo ra những ấn tượng khó quên trong lòng bạn đọc. Giọng điệu sôi nổi hào hứng như đang rạo rực cùng mùa hè đã khiến chúng ta như bị cuốn hút bởi bức tranh thiên nhiên rực rỡ đó.

Bức tranh thiên nhiên mùa hè qua bài thơ Khi con tu hú giúp ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết của nhà thơ. Thổi hồn vào đó là khao khát được tự do đến mãnh liệt. Bài thơ đã giúp chúng ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản. Đó là những rung động mãnh liệt với hơi thở của cuộc sống tự nhiên.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 3

Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, là một nhà thơ gốc Huế, giác ngộ cách mạng từ khi tuổi đời còn rất trẻ, tham gia vào hàng ngũ của Đảng khi mới tròn 18 tuổi. Kể từ đó ta thấy có một sự thống nhất chặt chẽ giữa đường cách mạng và đường thơ trong sự nghiệp sáng tác của tác giả. Ông được coi là một trong những lá cờ đầu của nền thơ ca kháng chiến, đưa thể loại thơ trữ tình chính trị đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, cũng như tư tưởng. Vốn là một người con gốc Huế, gắn bó sâu sắc với vùng đất Nam Ai, Nam Bình, thế nên trong đời thơ của mình Tố Hữu đã từng nhiều lần đưa Huế vào các sáng tác của mình, Khi con tu hú chính là một trong những bài thơ như vậy, đây cũng là một trong những tác phẩm hay và độc đáo của Tố Hữu trong những năm đầu làm cách mạng, làm thơ chính trị. Ở đó ta thấy bức tranh cảnh ngày hè được tác giả tái hiện một cách sinh động, tươi đẹp vô cùng trong 6 câu thơ đầu tiên.

Khi con tu hú là một bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, ấy là khi Tố Hữu mới bị bắt giam tại nhà lao tỉnh Thừa Thiên tháng 7/1939. Khi trong chốn lao tù thế nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn rất lạc quan, yêu đời, lắng nghe tiếng chim tu hú gọi bầy và dựa vào những ký ức gắn bó với xứ Huế thân yêu để vẽ nên một bức tranh mùa họa tươi đẹp và thanh bình. Nhan đề "Khi con tu hú" là một nhan đề hay và thú vị, trích dẫn từ một nửa câu thơ, nó đã đem đến cho người đọc sự tò mò, chú ý, muốn tìm hiểu xem bài thơ nói gì với hình ảnh con tu hú. Đồng thời nó cũng lại là một cụm từ chỉ thời gian khá tinh tế, có tiếng chim tu hú gọi tức là báo hiệu một mùa hè đã bắt đầu, rộn ràng và sôi động ngoài kia. Dấy lên trong lòng người tù cách mạng nhiều nỗi bồn chồn, niềm khao khát tự do mãnh liệt, gợi nhắc về một không gian khoáng đạt, cao rộng, về một cuộc sống tự do bay nhảy như những chú chim, bộc lộ niềm yêu cuộc sống, muốn hòa nhập với cảnh ngày hè rực rỡ của quê hương, thoát khỏi cái nhà tù chật chội, nóng bức, thiếu tự do mà tác giả căm ghét.

"Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không"

Với một tâm hồn trẻ tuổi, còn nhiều bồng bột, thơ của Tố Hữu thời kỳ đầu thường nghiêng về sự trẻ trung thoải mái, bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp rõ ràng trong từng vần thơ. Giữa lúc cuộc đời đang phơi phới tràn đầy lý tưởng cách mạng, sự hăng hái của tuổi trẻ còn chưa kịp thỏa đời chiến sĩ, thì Tố Hữu bị địch bắt giam và chưa biết ngày nào sẽ được thả ra. Trong khi ấy một tiếng chim tu hú gọi bầy vang vọng ngoài trời Huế, đã len lỏi vào song sắt, gợi cho tác giả nhiều cảm xúc, từ đó vẽ nên một bức tranh mùa hạ sống động và tuyệt vời. Rõ ràng ta có thể từ hoàn cảnh sáng tác mà nhận ra rằng bức tranh của Tố Hữu là do bản thân ông tưởng tượng ra sau nhiều năm gắn bó với Huế, chứ không phải được thấy từ sự quan sát trực tiếp. Tuy nhiên tuổi trẻ, tài năng và niềm yêu cuộc sống đã giúp Tố Hữu gợi ra tất cả chỉ từ một tiếng tu hú gọi bầy, bằng những dòng thơ lục bát truyền thống, nhịp nhàng, thanh thoát, đã mở ra một thế giới thật khoáng đạt, tràn trề nhựa sống. Từ tiếng tu hú kêu, tác giả dường như đã nhìn thấy những cảnh sắc thật tiêu biểu của mùa hạ ở một vùng nông thôn Huế, ấy là mùa lúa chiêm đang chín vàng trên những cánh đồng rộng lớn, là những thức trái cây đang nhạt dần chờ ngày thu hái, là tiếng ve râm ran rộn rã cùng cất lên dàn đồng ca mùa hạ, là khung cảnh những trái bắp vàng cam được phơi đầy khắp sân nhà, là cảnh trời xanh cao trong vắt, không một đám mây và điểm xuyết trên ấy là những cánh diều sáo nhịp nhàng bay lượn, tiếng sáo diều đã tưởng thấu tận trời xanh, khuấy động trong lòng tác giả. Có thể thấy rằng chỉ bằng một tiếng tu hú "Tu hú kêu, tu hú kêu, hoa phượng nở, hoa gạo đỏ đầy ước mơ hi vọng...", đã mang đến cho tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng thật nhiều mộng tưởng, vốn chỉ là bức tranh trong lòng người nhưng sao lại có thể khoáng đạt, đẹp đẽ, tuyệt vời với những gam màu rực rỡ, sống động, nhiều âm thanh đến thế. Còn có mùa hạ nào đẹp hơn mùa hạ trong chính lòng người nữa, giữa cảnh lao tù chật hẹp, im ắng, nóng bức thế mà người chiến sĩ vẫn có thể thấy những sắc vàng, sắc đỏ, sắc đào, sắc xanh của vạn vật, đôi tai vẫn dường như nghe thấy tiếng ve râm ran, tiếng sáo diều vút cao, và tâm hồn người dường như đã rời khỏi chốn lao tù khổ hạnh để tìm đến với "Trời xanh càng rộng càng cao", như những con diều sáo thỏa sức bay lượn, cấp cho đời những âm thanh thật vang vọng thật tươi đẹp. Như vậy có thể thấy rằng, ở sáu câu thơ đầu đơn giản chỉ là một bức tranh tả cảnh, một tấm màn hồi ức tươi vui của Tố Hữu, nhưng ta cũng dễ dàng nhìn ra sau đó là cả một tâm hồn tươi trẻ, gắn bó tha thiết, sâu nặng với quê hương, bởi lẽ nếu không yêu, không nhớ người ta sẽ chẳng bao giờ vẽ nên một bức tranh quê đẹp đẽ và sống động đến thế. Không chỉ vậy từ trong bức tranh thiên nhiên tràn ngập âm thanh, màu sắc ấy ta còn nhận ra cả một tấm lòng khao khát tự do, bay nhảy đến mãnh liệt. Có lẽ rằng hơn bao giờ hết, tiếng tu hú gọi bạn, gọi hè đã nhắc nhở người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi một điều quan trọng ấy là thời gian đang dần trôi đi, xuân qua hè đến, chẳng chốc thu tới đông lại về, làm sao có thể chấp nhận cảnh tù đày, chôn chân trong khi đời cách mạng mới chớm vẫn còn dang dở. Thế nên nhà thơ khao khát quá cái mùa hè ngoài kia, khao khát được nhìn thấy khung trời rộng lớn, khung trời cách mạng vô cùng, mà tiếng chim tu hú lại càng kêu như giục giã, khiến tác giả không khỏi bồi hồi, nóng nảy. Bên cạnh việc mang đến những cảnh sắc mùa hè tiêu biểu, đầy âm thanh, màu sắc của sự sống thì nghệ thuật sử dụng phép liệt kê, gieo vần, dùng những hình ảnh, từ ngữ tuy giản đơn nhưng rất gợi hình, gợi cảm đã khiến cho bức tranh mùa hè càng thêm sống động, tràn ngập niềm vui sống, cũng góp phần không nhỏ vào việc thể hiện tâm trạng lạc quan, yêu đời, khao khát tự do cháy bỏng của người tù chính trị trong hoàn cảnh tù đày ngặt nghèo.

Khi con tu hú là một trong những bài thơ hay mở đầu cho chặng đường thơ ca trữ tình chính trị lắm vẻ vang của Tố Hữu, có thể thấy rằng đánh giá ông là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học hiện đại Việt Nam cũng không có gì là quá lắm. Bởi lẽ ngay từ những ngày mới giác ngộ cách mạng đường thơ của Tố Hữu đã thể hiện được những tư tưởng cá nhân tích cực, tươi đẹp của một con người đang ủng hộ cách mạng bằng cả tâm hồn, từ đó dần mở ra một cánh cửa tươi sáng dẫn tác giả từ cái tôi cái nhân mạnh mẽ sang tập trung, hòa vào cái ta chung của cộng đồng rộng lớn. Trở thành một nhà thơ của cách mạng, gắn bó sâu sắc và chặt chẽ với từng chặng đường cách mạng của dân tộc từ những khi mới nhen nhóm cho tới khi thắng lợi hoàn toàn.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 4

Trong những năm tháng nô lệ đau thương của đất nước, rất nhiều những chiến sĩ trung kiên của cách mạng Việt Nam đã bị bắt giam trong những nhà tù thực dân. Nhưng từ bóng đêm căm hờn vẫn vút lên những tiếng thơ bày tỏ niềm say mê, khao khát với cuộc đời. Bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu là một trong số ấy. Sáu câu thơ đầu của bài thơ là bức tranh phong cảnh thiên nhiên rực rỡ thể hiện sự phong phú, sôi nổi và niềm yêu đời tha thiết của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi:

Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Bài thơ "Khi con tu hú" sáng tác tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ trên bước đường hoạt động cách mạng bị địch bắt giam tại lao Thừa Thiên - Huế (Tố Hữu bị địch bắt tháng 4-1939 - khi nhà thơ mới 19 tuổi). Bài thơ thể hiện tâm trạng ngột ngạt của người cộng sản trẻ tuổi sôi nổi yêu đời bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh. Tâm trạng ấy càng trở nên bức bối khi nhà thơ hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài.

Giữa tháng hè nắng lửa, giữa cái im lìm đáng sợ của chốn lao tù chợt vang lên tiếng tu hú gọi bầy:

“Khi con tu hú gọi bầy”

Trong tiềm thức của con người Việt Nam, tiếng tu hú là tiếng gọi mùa: 'Tu hú kêu, tu hú kêu, hoa phượng nở, hoa gạo đỏ đầy ước mơ hi vọng...". Đó là mùa hạ chói chang ánh nắng và đi cùng với đó là những sắc màu rực rỡ của thiên nhiên. Tiếng tu hú thân quen bất chợt vang vọng gợi lên trong tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi đang sục sôi ước mơ, khát vọng nhưng bị mất tự do ấy bao suy tưởng về một mùa hè ngập tràn màu sắc và niềm vui.

Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.

Vườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Mùa hè được tái hiện trong tâm trí người tù rất chân thực, màu sắc hài hòa với những âm thanh sống động. Đó là màu rộm vàng của lúa chín, sắc đỏ lấp ló của quả ngọt, màu vàng tươi của ngô, sắc đào tươi của nắng, màu xanh thẳm của trời cao... tiếng ve ngân râm ran, tiếng sáo diều vi vút... Chao ôi! Đẹp đẽ quá! Rạo rực quá! Mới hồi tưởng thôi đã đủ cồn cào khao khát lao ra trời cao mà nhảy nhót hát ca. Tác giả đã vẽ lên bức tranh mùa hè sống động và tươi tắn bằng những từ ngữ giản dị, nhưng đầy sức gợi hình, gợi cảm. Nếu không có niềm gắn bó tha thiết với cuộc đời, không có niềm khao khát tự do mãnh liệt, không có một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và một trí tưởng tượng vô cùng phong phú thì nhà thơ không thế viết được những câu thơ tuyệt vời đến thế....

Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh rất sinh động, cụ thể và gợi cảm, các từ ngữ lựa chọn có giá trị tạo hình. Đặc biệt, phép liệt kê được vận dụng tạo ra những ấn tượng huy hoàng về một mùa hè phong phú, sôi động đong đầy ước mơ và khát vọng tuổi trẻ.

Hình ảnh thiên nhiên mùa hè hiện lên trong tâm hồn nhà thơ trong cánh lao tù ấy đã thể hiện niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm nén nổi. Đoạn thơ đã cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ xả thân vì lý tưởng cao đẹp đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 5

Trong bài thơ "Khi con tu hú" của nhà thơ Tố Hữu, 6 câu thơ đầu đã thể hiện được bức tranh thiên nhiên mùa hè tươi đẹp và rực rỡ. Thật vậy, trái ngược với hoàn cảnh tù đày khốn khổ của người tù cách mạng, bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên chân thực bằng sự lắng nghe hiện tại và hồi tưởng quá khứ của người tù cách mạng. Bức tranh thiên nhiên bắt đầu bằng câu thơ:"Khi con tu hú gọi bầy". Tương tự như trong thơ xưa, các nhà thơ, nhà văn thường dùng những hình ảnh chọn lọc để tạo được nét chấm phá, gợi tả vô cùng đặc sắc trong tác phẩm của mình ("Một tiếng chim kêu sáng cả rừng, Tiếng hát trong như tiếng hát xa"). Nhà thơ Tố Hữu đã bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy gây ấn tượng cho người đọc và đây là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Những hình ảnh thiên nhiên được tác giả chọn lọc vô cùng đẹp như: lúa chiêm, trái cây và chúng đều đang ở trạng thái "đang chín, ngọt dần". Những hình ảnh thơ tiếp theo như "vườn râm, ve ngân, bắp rây, nắng đào, trời xanh và sáo diều bay bổng". Bức tranh thiên nhiên được vẽ nên là bức tranh hoàn hảo, tuyệt đẹp,có sự hòa quyện giữa âm thanh và màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp. Ôi, người đọc như cảm tưởng được âm thanh của tiếng chim tu hú, và tiếng ve ngân cũng như thấy được màu sắc của lúa chiêm đang chín vàng, trái cây đang chín dần, màu xanh tươi tốt của vườn râm, màu đào của nắng và màu vàng rực của ngô. Hình ảnh sáo diều trên trời dường như là hình ảnh tượng trưng cho sự tự do và hạnh phúc, nó trái ngược hoàn toàn với hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ. Hơn nữa, bức tranh thiên nhiên này có thể là bức tranh thiên trong tưởng tượng hoặc là hồi tưởng những ngày còn được tự do của nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên chính là bản lề của khát khao được tự do, thoát khỏi chốn ngục tù của nhà thơ. Tóm lại, bức tranh thiên nhiên mùa hè đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động trong 6 câu thơ đầu bài thơ "Khi con tu hú".

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 6

Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh rất sinh động cụ thể gợi cảm các từ ngữ lựa chọn có giá trị tạo hình.

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Đặc biệt phép liệt kê được vận dụng để tạo ra những ấn tượng huy hoàng về một mùa hè phong phú và khát khao của tuổi trẻ. Hình ảnh thiên nhiên mùa hè hiện lên trong tâm hồn nhà thơ trong cảnh lao tù ấy đã thể hiện khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm nén nổi. Đoạn thơ cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ. Người chiến sĩ xả thân vì lí tưởng cao đẹp đó có một thế giới nội tâm rất phong phú rung động mãnh liệt đối với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó tha thiết với quê hương ruộng đồng.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 7

Khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sống bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sống tự do tươi đẹp bên ngoài Tố Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy bỏng trong bài thơ “Khi con tu hú”.Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tố Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chốn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sống - mùa hè về. Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tố Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chốc phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tố Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sống: những bông lúa chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân...

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 8

Giữa chốn ngục tù người chiến sĩ ấy nhớ tiếng ve ngân nhớ sân bắp phơi đầy. Đó là những hình ảnh âm thanh màu sắc của đời sống thường thật bên ngoài mà sao nhà thơ lại nhớ đến tột cùng như thế, thèm muốn được ngắm nhìn chúng đến như thế. Chắc hẳn trong chốn lao tù ấy ánh sáng thiên nhiên bầu trời thiên nhiên cũng là một điều tưởng chừng như quá xa xỉ đối với nhà thơ. Bầu trời trong xanh ấy với tiếng ve ngân còn được điểm xuyết thêm hình ảnh "đôi con diều sáo lộn nhào từng không" mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng được bay bổng tự do cùng thiên nhiên đất trời. Nhà thơ phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên , hòa nhập với thiên nhiên và khát khao được sống trong thiên nhiên lắm thì nhà thơ mới có thể vẽ ra một bức tranh thiên nhiên trong trẻo tươi mới và rộn ràng đến như thế. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp và thơ mộng kia không phải được nhìn từ con mắt của nhà thơ mà được tưởng tượng qua hình ảnh con tu tú kêu gọi bầy. Nhà thơ đã sử dụng những giác quan để nghe ngửi và cảm nhận tất cả mọi âm thanh đường nét màu sắc của mùa hè. Chỉ bằng sáu câu thơ nhà thơ đã làm hiện lên một khung cảnh của làng quê yên bình như bao làng quê khác của Việt Nam. Nhìn thiên nhiên ấy tác giả càng thấy đau xót cho thân phận mình khi con chim ngoài trời cũng được tự do bay lượn trên bầu trời mà tại sao con người lại bị chôn vùi trong nhà lao với bốn bức tường cô độc không thể tự do vùng vẫy bên ngoài. Trong cảnh tù đày mùa của ngô lúa hay màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế những màu sắc âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh huyền ảo rực rỡ hẳn lên. Trẻ trung và yêu đời say mê khát khao sống khao khát được tự do. Nhà thơ đang bị đày đạo trong ngục tối nhưng tinh thần ở ngoài lao mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 9

Năm 1958, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Từ đó, chúng bắt đầu áp bức, bóc lột, vơ vét tài nguyên, tàn nhẫn sát hại những người chiến sĩ cách mạng. Trong những năm tháng nô lệ, lầm thang và đau thương đó của đất nước, đã có rất nhiều những người chiến sĩ trung kiên với cách mạng Việt Nam, với Nhân dân, đất nước đã bị bắt giam và tra tấn trong những nhà tù thực dân. Nhưng cũng từ những đau thương đó mà nỗi căm hờn vút lên những tiếng thơ bày tỏ niềm say mê, khao khát với cuộc đời đồng thời thể hiện ý chí và quyết tâm chống giặc thực dân.

Bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu là một trong số ấy. Phân tích 6 câu thơ đầu của bài Khi con tu hú cho ta thấy bức tranh phong cảnh thiên nhiên rực rỡ thể hiện sự phong phú, sôi nổi và niềm yêu đời tha thiết của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Bên cạnh đó, 6 câu thơ đầu còn là nỗi uất hận và khát khao được tự do của tác giả.

Bài thơ "Khi con tu hú" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi nhà thơ đang hoạt động cách mạng và chẳng ma bị địch bắt giam tại lao Thừa Thiên - Huế (Tố Hữu bị địch bắt tháng 4-1939 - khi nhà thơ mới 19 tuổi). Bài thơ thể hiện tâm trạng ngột ngạt, bức bách, đầy uất ức của người cộng sản trẻ tuổi với tuổi đời còn khá nhỏ nhưng sôi nổi yêu đời và nhiệt huyết sôi trào. Tố Hữu bị giam cầm giữa bốn bức tường vôi lạnh, không tiếng động, không người trò chuyện. Tâm trạng ấy càng trở nên bức bối khi nhà thơ nhìn thấy khung cảnh ngoài ô cửa ngục và hướng tâm hồn mình đến với bầu trời tự do ở bên ngoài.

Mở đầu bài thơ “Khi con tu hú” tác giả đã mở ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về mùa hè, tác giả đã sử dụng khả năng ngôn từ của mình để vẽ bức tranh thiên nhiên đầy sống động trong lòng người đọc:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Đây là cảnh mùa hè quen thuộc của miền quê Việt Nam và dường như bức tranh ấy ai trong chúng ta cũng đã từng gặp qua. Đó cũng chính là một bức tranh hiện thực được mở ra bằng sự lắng nghe hiện tại và hồi tưởng bằng hồi ức quá khứ. Giữa tháng hè nắng lửa, giữa cái im lìm đáng sợ của chốn lao tù thì chợt vang lên tiếng tu hú gọi bầy:

“Khi con tu hú gọi bầy”

Trong tiềm thức của con người Việt Nam, tiếng tu hú là tiếng gọi mùa hè, là lời báo hiệu rằng mùa hè đang đến: 'Tu hú kêu, tu hú kêu, hoa phượng nở, hoa gạo đỏ đầy ước mơ hi vọng...". Đó là mùa hạ chói chang ánh nắng và đi cùng với đó là những sắc màu rực rỡ của thiên nhiên.

Tiếng tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến, lùa mùa màng đang tới và trái cây chín muồi, hoàn toàn theo quy luật của tự nhiên, tiếng chim gọi bầy như đang gọi mùa, mang đến sự náo nức, xôn xao trong đất trời và cả trong lòng người. Tiếng tu hú đã mang lại mạch sống của cây cối, mọi cảnh vật dường như đang ở trong thế động, lúa đang chín và trái ngọt dần. Nhà thơ Tố Hữu đã gửi gắm tâm tình của mình vào trong câu thơ, cái động của cảnh vật chính là tài của nhà thơ, gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu sự sống và yêu cuộc đời của tác giả.

Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Tiếng tu hú thân quen bất chợt vang vọng gợi lên trong tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi đang sục sôi ước mơ, khát vọng nhưng bị mất tự do ấy bao suy tưởng về một mùa hè ngập tràn màu sắc và niềm vui.

Mùa hè được tái hiện trong tâm trí người tù rất chân thực, màu sắc hài hòa với những âm thanh sống động. Đó là màu rộm vàng của lúa chín, sắc đỏ lấp ló của quả ngọt, màu vàng tươi của ngô, sắc đào tươi của nắng, màu xanh thẳm của trời cao... tiếng ve ngân râm ran, tiếng sáo diều vi vút... Chao ôi! Đẹp đẽ quá! Rạo rực quá! Mới hồi tưởng thôi đã đủ cồn cào khao khát lao ra trời cao mà nhảy nhót hát ca.

Tác giả đã vẽ lên bức tranh mùa hè sống động và tươi tắn bằng những từ ngữ giản dị, nhưng đầy sức gợi hình, gợi cảm. Nếu không có niềm gắn bó tha thiết với cuộc đời, không có niềm khao khát tự do mãnh liệt, không có một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và một trí tưởng tượng vô cùng phong phú thì nhà thơ không thế viết được những câu thơ tuyệt vời đến thế....

Mùa hè hiện lên trong thơ Tố Hữu rất sinh động và tươi đẹp: màu vàng của lúa, màu của trái cây chín ươm hòa cùng với âm thanh rộn ràng của tiếng ve ngân. Trong chốn tù ngục, nhà thơ nhớ về mùa hè năm cũ: tiếng ve ngân, sân bắp phơi đầy,...

Tác giả bất chợt thèm muốn một cuộc sống thường nhật, bình thường như thế giới bên ngoài, khao khát được tự do, khao khát được đấu tranh.. Trong nhà ngục tối tăm, ánh sáng của thiên nhiên và bầu trời quả là xa xỉ đối với nhà thơ, thế nhưng nhà thơ vẫn có cho riêng mình một bầu trời tươi đẹp: “Trời xanh càng rộng càng cao/Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”

Hình ảnh diều sáo lộn nhào giữa không trung thể hiện cho khát vọng bay bổng, tự do, khao khát hòa nhập và tung hoành cùng thiên nhiên đất trời của tác giả. Tiếng sáo diều cao vút, rạo rực như chính tiếng lòng của người thanh niên Tố Hữu. Chàng thành niên mang trong mình tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát được sống trong thiên nhiên đã giúp cho nhà thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè trong trẻo, tươi mới và đầy màu sắc, âm thanh như thế. Để có được bức tranh đó, nhà thơ đã sử dụng các giác quan của mình, từ nghe, ngửi, nhìn để cảm nhận toàn bộ âm thanh, màu sắc và đường nét của mùa hè.

Đoạn thơ sử dụng nghệ thuật tả cảnh rất sinh động, cụ thể và gợi cảm, các từ ngữ lựa chọn có giá trị tạo hình. Đặc biệt, phép liệt kê được vận dụng tạo ra những ấn tượng huy hoàng về một mùa hè phong phú, sôi động đong đầy ước mơ và khát vọng tuổi trẻ.

Chỉ với sáu câu thơ đầu bài thơ “Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu đã làm hiện lên một khung cảnh thiên nhiên yên bình đặc trưng của làng quê Việt Nam. Hình ảnh thiên nhiên mùa hè hiện lên trong tâm hồn nhà thơ trong cánh lao tù ấy đã thể hiện niềm khát vọng tự do cháy bỏng không thể kìm nén nổi. Đoạn thơ đã cho ta hiểu thêm nét đẹp trong tâm hồn người cộng sản trẻ tuổi. Người chiến sĩ xả thân vì lí tưởng cao đẹp đó có một thế giới nội tâm rất mực phong phú, rung động mãnh liệt với nhịp đập của cuộc sống, gắn bó thiết tha với quê hương ruộng đồng.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 10

Bài thơ có mười câu, đã dành sáu câu cho đoạn thứ nhất:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Đây là cảnh mùa hè tiêu biểu ở các làng quê. Nhưng bức tranh hiện thực ấy được mở ra bằng hai lớp: lắng nghe và hồi tưởng, hiện tại và quá khứ, cái đang tới và cái đã qua. Cái hôm nay - cái bây giờ mà nhà thơ đang nghe là tiếng tu hú, một sự lắng nghe bất chợt sau một thời gian bị xiềng xích trong tù (“Khi con tu hú gọi bầy”). Cái cảm giác đột nhiên ấy - sở dĩ là đột nhiên, vì nó xuất hiện trong một khối cảnh không gian đặc biệt: hiếm khi có âm thanh cuộc sống vọng vào. Cảm giác này phải chăng giống với tâm trạng của tác giả Nhật ký trong tù khi nghe tiếng sáo (“Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu”). Nó lạ lẫm và khơi gợi vô cùng. Tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến. Nhưng nó đến như thế nào thì tác giả không nhìn thấy. Vốn sống, sự gắn bó với mọi làng quê đã được huy động để thay vào. Lấp đầy các khoảng trống bị vây bọc bởi bốn bức tường xà lim lạnh lẽo là sự tưởng tượng của nhà thơ mà người đọc không cảm thấy có một chút gì khiên cưỡng, gò ép. Mạch thơ vẫn hết sức tự nhiên như không có một sự lắp ghép cố tình nào. Hãy đọc lại:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần.

Hai câu thơ, và rồi bốn câu tiếp như một tác động dây chuyền: cứ tiếng chim xuất hiện là mùa màng, cây trái đến theo. Sự hô - ứng ấy bao đời vẫn thế bởi đó là quy luật của tự nhiên. Tiếng chim gọi bầy mà cũng là tiếng chim gọi mùa chính là vì thế. Nó lập tức xôn xao. Nó va đụng vào lòng người nao nức lắm. cần chú ý hai trạng thái chín của lúa và ngọt của cây: đang chín, ngọt dần. Nếu thay vào đã chín, ngọt rồi, câu thơ sẽ khác, sẽ ở vào thế tĩnh, đông cứng lại ngay. Còn ở đây tả chim mà như nó đang bay, tả hoa mà như nó chớm nở, nó mỉm cười thì ấy là cái động của thơ, của họa. Cái động ấy ở đây là do tài của nhà thơ, nhưng cũng là do tình của nhà thơ thân mến nó. Nghe một tiếng chim kêu mà thấy mạch sống của cây, của lúa sinh sôi, đang rạo rực thân cành thì chỉ có thể ở những con người yêu thương cuộc đời, yêu thương sự sống đến mức thắt lòng. Từ đó mà tưởng tượng nảy sinh.

Ấy là chưa nói đến ưu thế uyển chuyển, nhịp nhàng, giàu khả năng diễn đạt tâm tình của thơ lục bát. Thơ lục bát vừa có hình thức cố định lại vô cùng biến hóa. Chẳng hạn, trong bốn câu thơ đầu, nếu lấy tiêu chí giác quan mà nhìn vào kết cấu thì ta thấy mỗi cặp câu 6/8 có đủ cả thính giác và thị giác, từng đôi một, tạo cảm giác âm thanh giục giã mùa màng bước vào ngày hội:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Nếu bốn câu thơ đầu là bốn câu thơ đẹp, nó nói được cái ríu rít của mùa hè, của cây trái xum xuê thì hai câu sau tưởng như không ăn nhập gì với không khí ấy bởi nó nói đến những con diều sáo, một sắc trời xanh. Nguyễn Trãi xưa vì mừng thấy dân khắp nơi “giàu đủ” mà nghĩ đến cây đàn của vua Thuấn. Cây đàn với bát cơm, tấm áo trên một phương diện nào đó là khá xa nhau, nhưng thực thì chúng lại rất gần nhau, ở cảnh thanh bình, hạnh phúc. Vậy thì hai câu “Trời xanh càng rộng càng cao/ Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” phải chăng là những âm thanh vút cao lên từ một giai điệu bè trầm là bốn câu trước đó.

Để cắt nghĩa vì sao bức tranh nông thôn hiện ra trong thơ rất thực và rất đẹp, ta nghĩ đến hai điều: bản thân cảnh nông thôn, nhất là vào dịp mùa màng là rất đẹp, nó gợi cái ấm, cái no của người cày cuốc một nắng hai sương. Song điều thứ hai, trong trường hợp bài thơ này, mới là quan trọng: nhà thơ chiến sĩ bị giam cầm vì yêu nó, đang mơ thấy nó, thấy nó như đang ở tầm tay. Yêu nó, không được gần mà nhớ đã đành (đã bao lần ở trong tù, người thanh niên ấy đã nhớ người, nhớ đồng?), cái chính thức: bức tranh ấy là bức tranh tự do, thứ tự do vừa lớn lao vừa bình dị như một chân lý đơn sơ.

Để vừa miêu tả (ngoại cảnh) vừa diễn tả (tâm cảnh, tâm trạng), với một độ hấp dẫn đến xúc động lòng người, Tố Hữu đã huy động cả thành tựu của thơ dân gian (thể lục bát của ca dao), cả thành tựu của Thơ mới. Riêng về hình ảnh của Thơ mới, thành công của Tố Hữu ở đây trước hết là biết phát huy mạnh mẽ cái tôi nội cảm, cái tôi của cảm xúc dồi dào, của sức tưởng tượng phong phú. Sáu câu đầu giống như một đời sống bên trong của nó. Ngay câu thơ đầu thôi, cái nguyên cớ, cái nguồn cơn để từ đó cảm xúc trào dâng như một giây phút “chạnh lòng” (tên một bài thơ của Thế Lữ). Một âm thanh nhỏ của cuộc đời mấy ai để ý mà với Tố Hữu, tiếng “gọi bầy” ấy có sức gợi rất lớn, sức gợi tức thời. Sự nhạy cảm ở đây là của thơ nói chung, trước hết là của thơ mới. Đọc Khi con tu hú, ta có cảm giác vừa là ca dao, vừa không phải là ca dao chính bởi sự kết hợp của hai thành tựu vừa nêu.

Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa hè trong 6 câu đầu – mẫu 11

Nhà giáo, nhà văn Đặng Thai Mai khi đánh giá về tập thơ Từ ấy đã từng khẳng định "Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca". Tố Hữu không chỉ là một nhà thơ mà còn là một người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Đọc thơ Tố Hữu ta không chỉ thấy được những bước chuyển mình của lịch sử mà còn bắt gặp một tinh thần sục sôi, nhiệt huyết của một chàng thanh niên trẻ yêu nước, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Tinh thần ấy được thể hiện rõ nét qua bài thơ "Khi con tu hú". Được Tố Hữu sáng tác trong hoàn cảnh tù đày, bài thơ không chỉ thể hiện được khát khao tự do, lí tưởng cách mạng sục sôi mà còn bộc lộ một tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc đời, điều này được thể hiện rõ nét qua bức tranh mùa hè trong 6 câu thơ đầu của bài.

Mở đầu bài thơ, Tố Hữu đã tái hiện trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên mùa hè sống động với những gam màu tươi sáng và âm thanh rực rỡ:

Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

Bức tranh mùa hè được gợi mở qua âm thanh tiếng chim "tu hú gọi bầy"- loài chim báo hiệu mùa hè rộn rã, tươi vui của chim tú hú không chỉ gọi về mùa hè mà còn làm bừng sáng cả bức tranh thơ, mang đến cái xốn xang, bồi hồi trong lòng người. Hè về là "lúa chiêm đang chín", là khi "trái cây ngọt dần". Tính từ chỉ trạng thái "đương chín", "ngọt dần" không chỉ gợi ra sự biến đổi của lúa, của trái cây khi vào hè mà còn tạo ấn tượng về một hành động đang tiếp diễn ngay trước mắt. Sự sống như bung nở, căng tràn ngay trước mắt khiến nhà thơ lưu luyến, đắm say. Nhà thơ Tố Hữu cảm nhận mùa hè bằng tất cả các giác quan, đó không chỉ là thính giác, thị giác mà còn là xúc giác và bằng chính trái tim tha thiết yêu đời.

Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào

Bức tranh mùa hè tiếp tục được điểm xuyết bởi âm thanh râm ran của ve, bởi sắc vàng của bắp, sắc đỏ của nắng. Sự kết hợp giữa những gam màu tươi sáng và những hình ảnh bình dị, quen thuộc đã mang đến những cảm nhận thật đẹp, thật ấn tượng về mùa hè. Người đọc như được hòa nhập làm một với cuộc sống bình dị mà tươi sáng trong bức tranh thơ, tiếng chim tu hú đưa ta trở về với một vùng quê yên bình, bên tai là âm thanh tha thiết của chim tu hú, là cái râm ran của tiếng ve, trước mắt là sắc vàng rực của lúa chiêm, bắp rây, sắc đào ấm áp của nắng hè, là sắc xanh của vườn râm.

Động từ "dậy", tính từ chỉ mức độ "đầy" được sử dụng rất khéo đã gợi ra cái rộn rã của âm thanh, cái chan chứa, tràn đầy của nắng. Tất cả như đang diễn ra sống động ngay trước mắt. Đặc biệt hơn cả là bức tranh mùa hè tươi sáng, đẹp đẽ ấy không phải điều nhà thơ có thể "mắt thấy tai nghe" mà là những hồi ức được tái hiện trong tâm trí của nhà thơ Tố Hữu. Trong hoàn cảnh tù đày, nhà thơ không có điều kiện để ngắm nhìn, "thưởng thức" trực tiếp cảnh sắc, hương vị của ngày hè mà chỉ có thể đắm chìm trong những hồi ức tốt đẹp. Bốn câu thơ đầu tiên đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc đời tha thiết, mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng. Tình yêu ấy có thể vượt ra khỏi hoàn cảnh xiềng xích, mất tự do để tìm về với cuộc sống yên bình, tươi sáng ngoài kia.

Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...

"Trời xanh" gợi ra không gian rộng lớn, khoáng đạt. Hình ảnh nhân hóa "đôi con diều sáo lộn nhào từng không" vừa là hình ảnh tả thực về những con chim diều sáo bay lượn tự do trên bầu trời vừa gợi liên tưởng đến khát vọng tự do của nhà thơ Tố Hữu. Đôi cánh tự do của diều sáo cũng tựa như khát khao tự do, vượt thoát khỏi chốn lao ngục để hòa nhập với với cảnh ngày hè rực rỡ của quê hương, cuộc đời rộng lớn, với sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ trẻ.

Như vậy, qua 6 câu thơ đầu tiên, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện lại trong tâm trí bức tranh thiên nhiên mùa hè tươi sáng, rộn rã, tràn trề nhựa sống. Qua đó bộc lộ tấm lòng yêu đời tha thiết và khát khao tự do đến cháy bỏng.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

 Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành.

- Quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Tố Hữu cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam.

- Ông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đồng thời ông cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Việt Nam.

- Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.

- Các tác phẩm chính:

  • Từ ấy (1937 - 1946)
  • Việt Bắc (1947 - 1954)
  • Gió lộng (1955 - 1961)
  • Ra trận (1962 - 1971)
  • Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
  • Máu và hoa (1972 - 1977)
  • Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
  • Một tiếng đờn (1978 -1992)
  • Ta với ta (1992 - 1999)
  • Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)

2. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

Bài thơ được sáng tác vào tháng 7 năm 1939, khi tác giả mới bị bắt giam trong nhà lao Thừa Phủ

2. Bố cục: 4 phần

- Phần 1 (6 câu đầu): Khung cảnh thiên nhiên vào hè.

- Phần 2 (4 câu cuối): Tâm trạng người chiến sĩ trong tù.

3. Nội dung chính: Bài thơ là bức chân dung tinh thần tự họa của Tố Hữu, cho chúng ta hiểu thêm về hình ảnh người chiến sĩ cách mạng anh hùng. Tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.

4. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

5. Thể thơ: Lục bát

6. Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy.

7. Giá trị nghệ thuật:

- Thể thơ lục bát sử dụng uyển chuyển.

- Giọng điệu linh hoạt.

- Từ ngữ tự nhiên và gần gũi với đời thường.

Tài liệu có 5 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống