TOP 30 Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn 2025 SIÊU HAY

Tải xuống 12 3.5 K 4

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn hay nhất, gồm 11 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 16 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN

Bài giảng: Đập đá ở Côn Lôn

Đề bài: Phân tích bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm

- Tác giả Phan Châu Trinh quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam. Là một trong những chiến sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX.

- Tác phẩm Đập đá ở Côn Lôn ( Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn đã dựng lên một hình ảnh đẹp lẫm liệt, ngang tàng của người anh hùng cứu nước, dù gặp bước nguy nan nhưng vẫn không sờn chí; Bài thơ cũng thể hiện được tài năng nghệ thuật của Phan Châu Trinh với tư cách của một nhà văn,nhà thơ).

II. Thân bài: Phân tích chi tiết bài thơ Đập đá ở Côn Lôn

- Hình ảnh ngang tàng, khí phách của người anh hùng được thể hiện qua công việc đập đá:

+ Khẩu khí đầy ngang tàng, sừng sững của chí làm trai với lòng kiêu hãnh và khát vọng hành động mãnh liệt.

+ Hình ảnh người tù đẹp đẽ, hùng tráng. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng trong tư thế ngạo nghễ, vươn cao ngang tầm vũ trụ, biến một công việc lao động khổ sai thành một cuộc chinh phục dũng mãnh của con người có sức mạnh thần kì.

+ Xách búa đánh tan

+ Ra tay đạp bể

- Ý chí chiến đấu sắt son của người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày

+ Tháng ngày gian khổ chỉ càng làm tôi luyện sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai, hun đúc ý chí chiến đấu sắt son.

+ Tự thấy mình có tinh thần cứng cỏi, trung kiên, không sờn lòng, đổi chí trước gian lao thử thách. Có sức chịu đựng mãnh liệt cả về thể xác lẫn tin thần. Thể hiện sự bất khuất trước gian nguy. Trung thành với lí tưởng yêu nước

+ Những người có gan làm chuyện lớn khi phải chịu cảnh tù đày chỉ là việc nhỏ. Tự hào, kiêu hãnh công việc mình theo đuổi.

III. Kết luận: 

- Khái quát lại những nội dung cơ bản và giá trị nghệ thuật của bài Đập đá ở Côn Lôn

Sơ đồ tư duy

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn hay nhất (5 mẫu) (ảnh 3)

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 1

Phan Châu Trinh (1872 - 1926) là một nhà chí sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Không chỉ vậy, ông còn sáng tác được nhiều tác phẩm thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con”

Nhan đề bài thơ là “Đập đá ở Côn Lôn” đã gợi ra cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kỳ, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo với cái án khổ sai chung thân.

Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc “đứng giữa đất Côn Lôn” bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vẫn “lừng lẫy làm cho lở núi non”. Hai từ “đứng giữa” biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ “làm cho lở núi non” thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.

Các động từ mạnh “đánh tan” và “đập bể” vừa tả thực sức mạnh đập đá “năm bảy đống” và “mấy trăm hòn” của người tù cách mạng. Đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:

“Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn”

Hai câu năm và câu sáu đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (tháng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng), lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. “Thân sành sỏi” và “dạ sắt son” là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên phẩm chất cách mạng của nhà thơ:

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son”

Việc sử dụng các từ ngữ “bao quản” và “chi sờn” biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức với bạo lực quân thù. Tinh thần ấy, ta bắt gặp nhiều trong “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh hơn ba mươi năm sau:

“Kiên trì và nhẫn nại,

Không chịu lùi một phân;

Vật chất tuy đau khổ,

Không nao núng tinh thần”

(Bốn tháng rồi)

Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vá trời) mà không thành (lỡ bước). Đó là những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, coi chuyện tù đày, gian nan chỉ là “việc con con” không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của nhà thơ chiến sĩ:

“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con”

Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để dãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. Đó là tấm lòng sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày.

“Đập đá ở Côn Lôn” tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn hay nhất (5 mẫu) (ảnh 2)

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 2

Phan Châu Trinh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng, mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc. Các tác phẩm của ông thấm đẫm tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu kiên trinh, bền bỉ. “Đập đá ở Côn Lôn” là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện tinh thần cứng cỏi, yêu nước của tác giả.

Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh ông bị bắt giam, lưu đày ngoài Côn Đảo với công việc đập đá khổ sai. Nhưng ngay từ những câu thơ đầu đã thể hiện được tinh thần sắt đá, tư thế sừng sững, lớn lao, nổi bật giữa đất trời của người chí sĩ cách mạng:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn”

Hai câu thơ đầu đã thể hiện chí nam nhi của các bậc trượng phu thời xưa. Văn học dân gian đã từng khẳng định, làm trai thì phải:

“Làm trai cho đáng nên trai,

Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”

Sống cùng thời với Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu cũng có quan điểm tương tự:

“Sinh vi nam tử yếu hi kì”

Trong câu thơ của Phan Châu Trinh chí làm trai thật lớn lao, mạnh mẽ. Nhân vật trữ tình hiện lên trong tư thế làm chủ, hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, vô cùng anh dũng, kiêu hùng. Đây cũng là nét mới trong cách thể hiện chí làm trai của ông. Giữa non nước, đất trời Côn Lôn, con người được đặt vào vị trí trung tâm với sức mạnh “làm cho lở núi non”. Từ “lừng lẫy” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh hơn nữa sức mạnh phi thường của nhân vật trữ tình.

Để làm rõ sức mạnh phi thường của kẻ làm trai, hai câu thơ tiếp theo miêu tả trực tiếp sức mạnh đó: “Xách búa đánh tan năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm hòn”. Tác giả sử dụng hàng loạt các động từ mạnh: “xách búa, ra tay, đập bể” cho thấy sức mạnh thần kì của con người. Sử dụng số từ “năm, bảy, mấy trăm” có tính chất ước lệ càng khẳng định hơn nữa vẻ đẹp sức mạnh của con người. Hai câu thơ dùng nhiều thanh trắc với nhịp điệu mạnh mẽ như chính những hành động trong thực tế công việc của tác giả. Đây đồng thời cũng là hình ảnh thực tế của công việc đập đá mà người tù khổ sai phải làm. Tuy nhiên, câu thơ không dừng lại là tái hiện công việc mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh của kẻ làm trai - gây ấn tượng mạnh về tầm vóc của đấng nam nhi.

Những câu thơ cuối thể hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhân vật trữ tình:

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son

Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con”

Bốn câu thơ cuối tạo tương quan đối lập giữa hoàn cảnh thực tế với ý chí kiên cường, dẻo dai của người chiến sĩ. Hai câu thực có sự đối lập giữa “tháng ngày”, “mưa nắng” với “thân sành sỏi”, “dạ sắt son” – sự đối lập giữa gian khổ với sức chịu đựng dẻo dai và ý chí bền bỉ phi thường của người chiến sĩ. Hai câu thơ cuối thật đẹp đẽ. Đây không còn là công việc khổ sai mà trở thành trọng trách lớn lao “vá trời”. Ông tự nhận trách nhiệm to lớn, cứu nước cứu dân, bởi vậy những gian nan vất vả này chỉ là thử thách nhỏ bé, tầm thường không đáng quan tâm. Câu thơ đã hoàn chỉnh bức tranh chân dung tinh thần của người chiến sĩ. Bài thơ kết hợp hài hòa giữa giọng điệu hào hùng và bút pháp lãng mạn, người chí sĩ cách mạng được xây dựng bằng bút pháp khoa trương, phóng đại và thủ pháp đối lập. Thể thơ thất ngôn bát cú phù hợp với nội dung tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của bài.

Tác phẩm đã cho thấy ý chí kiên trung, nghị lực phi thường của người chí sĩ cách mạng trong hoàn cảnh khổ sai, tù đày vẫn vững lòng với sự nghiệp cứu nước của mình. Bài thơ còn có ý nghĩa nêu gương và động viên to lớn đối với thế hệ cách mạng sau này.

video bài giảng: Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 3

 “Đập đá ở Côn Lôn” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Phan Châu Trinh. Qua bài thơ, nhà thơ muốn nhấn mạnh vào mạch chảy dào dạt của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam

Phan Châu Trinh là một trong những chí sĩ cách mạng nổi tiếng đầu thế kỷ XX. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn làm trong thời gian ông bị đày ở đảo Côn Lôn thể hiện khí phách quật cường, một bản lĩnh ngang tầm với dũng sĩ thần thoại.

Chắc hẳn không ai là không từng nghe đến cái tên nhà tù Côn Đảo - nơi được mệnh danh là địa ngục trần gian. Chính quyền thực dân Pháp sử dụng nơi này với mục đích giam giữ những nhà cách mạng của dân tộc. Chúng không chỉ tra tấn họ bằng những cực hình mà còn bắt họ phải lao động khổ sai. Trong đó, đập đá là một trong những công việc cực nhọc nhất. Dù vậy, người tù cách mạng vẫn hiện lên với nét đẹp hiên ngang, phong thái cứng cỏi ngang tàng của người anh hùng cứu nước. Bốn câu thơ đầu tác giả miêu tả cảnh tượng đập đá của người tù và cũng bằng những hình ảnh ấy mà khắc họa dáng vóc phi thường của người anh hùng đấng nam nhi:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn”

Câu mở đầu, tác giả phác ra bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên ngang, sừng sững của phận “làm trai” - đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Ông cha ta cũng từng có câu: “Làm trai cho đáng nên trai”. Nguyễn Công Trứ thì viết:

“Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông

Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”

Điều đó cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền thông. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn” là “đứng giữa” biển - trời - đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của người làm chủ giang sơn.

Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc (khai thác đá) tác giả đã khắc họa thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể, kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh người dũng sĩ với sức vóc thần kỳ đang xung trận: “xách búa”, “ra tay”; và “lừng lẫy” những chiến công “lở núi non”, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”. Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian biển trời bao la sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.

Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng:

“Tháng ngày bao quản thông sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con”

“Thân sành sỏi” và “ạ sắt son” sẽ bền bỉ trụ lại được cùng “tháng ngày”, “mưa nắng”. Thế đối lập ở câu thứ 5 và thứ 6 đã thể hiện sự kiên tâm, vững trí của nhà cách mạng dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thủy chung, son sắt “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” (Nguyễn Trãi) kia cũng là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất đã được khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vững vàng đến “trơ gan cùng tuế nguyệt”, đến ngạo nghễ đã là đạo sống, phẩm cách của người chiến sĩ chẳng tiếc thân mình cho sự nghiệp chung. Phan Châu Trinh cũng xuất thân từ Nho học, ở những vần thơ này ta thấy bản lĩnh của nhà nho đã hòa thấm thuần thục với tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng. Trong bối cảnh đầy những gian nan, thử thách hồi đầu thế kỷ XX người chiến sĩ dám dấn thân vì giang sơn xã tắc cũng phải là những con người bất chấp hy sinh, nguy khó, biết quên thân mình. Có khi còn phải biết gồng mình lên, chiến thắng hoàn cảnh bằng ý chí. Hai chữ “vá trời” lấy từ tích Nữ Oa vá trời. Tầm vóc, sức mạnh ở đây đã được thi vị hóa đến mức thần kỳ, giống như bà Nữ Oa trong truyền thuyết đội đá vá trời. Hình ảnh “những kẻ vá trời” vừa thực vừa bay bổng, khoa trương. Thực ở mức liên hệ với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá, làm lở núi non đã được miêu tả ở bốn câu thơ đầu. Bay bổng, khoa trương ở lối ví với nhân vật trong thần tích. Hai câu thơ cuối này gợi tả sự đối lập giữa cái lớn lao, kì vĩ (vá trời) với thực tế gian nan chỉ là “việc con con”. Sự đối lập ấy là kết quả của một ý chí sắt đá, niềm tin lớn vào sự nghiệp chính nghĩa, kẻ vá trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể đè bẹp mọi trở ngại gian nan. Thực tế thì những khó khăn tác giả đang phải đương đầu không “con con” chút nào nhưng chỉ có bằng cách ấy, bằng ý chí quật cường tích tụ từ nguồn mạch dân tộc người chiến sĩ mới có thể tiếp tục được con đường dằng dặc chông gai trước mắt. Đó cũng là một cuộc chiến thắng chính mình.

Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã đóng góp phần vào mạch chảy dào dạt của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 4

Bên cạnh vai trò của một nhà hoạt động cách mạng, Phan Châu Trinh còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được ông sáng tác trong thời gian ông bị đày ở đảo Côn Lôn đã thể hiện khí phách quật cường của người tù cách mạng.

Được biết đến với cái tên “địa ngục trần gian”. Chính quyền thực dân đã biến nơi đây thành nơi giam giữ những nhà chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Nhưng kẻ thù chỉ có thể làm nhục được thân thể họ chứ không thể làm nhụt ý chí của họ. Những câu thơ mở đầu đã gợi ra tư thế của kẻ làm trai:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non”

Mảnh đất Côn Lôn xa xôi, khí hậu lại khắc nghiệt. Côn Lôn có thể coi là mảnh đất của cái chết, huỷ diệt sinh mạng của con người. Giữa cái mảnh đất tử thần đó, người làm trai phải khẳng định được tư thế của mình. Từ láy “lừng lẫy” kết hợp với hình ảnh “làm cho lở núi non” cho thấy sự ngang hàng của con người trước núi non. Tư thế của người tù khổ sai thật đĩnh, đạc, hiên ngang, ngạo nghễ của một người anh hùng trong trời đất.

Đến hai câu thơ sau nhà thơ mới đi vào tả cụ thể việc đập đá ở Côn Lôn. Với nhà thơ, đây là một trong những biểu hiện cho việc làm trai giữa trời đất:

“Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn”

Những cụm động từ “xách búa”, “ra tay” đứng đầu câu tạo một chất giọng khỏe khoắn, hăng hái. Cùng với đó là các động từ “đánh tan”, “đập bể” gợi tả sức mạnh. Kết hợp với các số từ chỉ số lượng “dăm bảy đống”, “mấy trăm hòn” càng tôn thêm cho sức mạnh như vũ bão ấy. Cả hai câu thơ đầy khí thế, tưởng chừng như sẵn sàng đập tan những gì cứng rắn nhất. Ta cảm giác như trong hành động đập đá của người tù khổ sai ấy là một ý chí và một sức mạnh không có gì địch nổi.

Tinh thần, khí thế bừng bừng của người tù khổ sai ấy đã nâng lên thành một lời hứa chắc nịch :

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son”

“Tháng ngày” là một khoảng thời gian dài, triền miên từ ngày này sang ngày khác. Nói đến tháng ngày lúc này chính là nhà thơ đang nói đến những ngày tháng ở Côn Lôn. “Thân sành sỏi” là thân phận của người tù khổ sai. Nhưng cụm từ “bao quản” đứng giữa câu thơ như một lời khẳng định chắc nịch tinh thần không sợ hiểm nguy của người tù. Còn “mưa nắng” là những hiện tượng của tự nhiên, nhưng ở đây được hiểu như là những hiểm nguy của cuộc sống tù đày nơi Côn đảo. Nắng mưa ấy có thể làm xoáy mòn đá núi, nhưng không thể làm sờn lòng người tù cách mạng, “chi sờn dạ sắt son”. Cụm từ “dạ sắt son” là dạ rắn như sắt, đỏ như son, thuỷ chung như nhất. Dù nắng mưa có thế nào thì nó vẫn không bao giờ đổi thay. Hai câu thơ tả sức chịu đựng gian khổ, thử thách nghe như một lời tự khẳng định và như một lời thề thiêng liêng.

Bài thơ kết thúc với lời khẳng định:

“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con"

Với người tù này, thân phận tù đày chỉ là một phút sa cơ, gặp tai ách rủi ro trên bước đường hoạt động cách mạng. Họ gọi mình là “những kẻ vá trời”. Câu thơ gợi nhắc cho ta đến câu chuyện Nữ Oa vá trời. Thì ra những kẻ đập đá, làm lở núi non trên kia là những kẻ đang luyện đá vá trời, đang đưa vai gánh vác vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Họ không phải là những người tù khổ sai bình thường.

Như vậy, “Đập đá ở Côn Lôn” là một bài thơ hấp dẫn. Với một khí phách hiên ngang, ngạo nghễ thì người tù đã khẳng định bản lĩnh cách mạng của mình, với niềm tin vào tương lai tốt đẹp của đất nước.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 5

Phan Châu Trinh là một trong những chí sĩ yêu nước nổi tiếng của cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Không chỉ vậy, ông còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã thể hiện được tư thế hiên ngang của người chí sĩ cách mạng trước hoàn cảnh chốn lao tù vẫn lạc quan quyết không “sờn lòng đổi chí".

Vào năm 1908, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân khép vào tội xúi giục nhân dân nổi loạn trong phong trào chống thuế ở Trung Kì và bị bắt đày ra Côn Đảo. Tháng 6 năm 1910, ông được tha do có sự can thiệp của Hội nhân quyền (Pháp). Bài thơ được sáng tác khi ông đang cùng những người tù khác lao động khổ sai tại nhà tù ở Côn Đảo (Côn Lôn).

Những câu thơ đầu tiên gợi ra hình ảnh người tù cách mạng với tư thế hiên ngang:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non”

Tác giả đã cho người đọc thấy được một hoàn cảnh sống vô cùng khắc nghiệt nơi Côn Đảo - chỉ có núi non hiểm trở, biển cả mênh mông. Nhưng trước hoàn cảnh đó, người tù vẫn giữ được tư thế vững vàng của một đấng nam nhi. Hình ảnh người chí sĩ cách mạng đầu đội trời, chân đạp đất - lừng lẫy, oai phong hiện ra trước mắt người đọc thật đẹp đẽ. Giữa hoàn cảnh sống như vậy, họ phải lao động khổ sai với công việc đập đá. Một công việc mà mới chỉ nghe tên thôi đã thấy được sự nặng nhọc. Công cụ lao động là “búa” và “tay”, cùng với hành động đầy quyết liệt “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn” - quả là một sức mạnh phi thường.

Tiếp đến, hình ảnh người tù cách mạng hiện lên với ý chí dẻo dai, bền bỉ và kiên cường:

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son”

Cụm từ “tháng ngày” chỉ thời gian bị tù đày, bị khổ sai kéo dài, còn “mưa nắng” tượng trưng cho gian khổ, cho mọi nhục hình, đày đọa. Trước những thử thách ghê gớm ấy, người chí sĩ “bao quản” chí khí. Cùng với đó, hình ảnh “thân sành sỏi”, “dạ sắt son” là hai ẩn dụ nói lên chí khí bền vững, lòng son sắt thủy chung đối với nước với dân của một đấng nam nhi. có chí lớn, của một kẻ sĩ chân chính: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Đó chính là cốt cách của những bậc trượng phu trong thời xưa. Trong gian khổ, ý chí của người tù cách mạng hiện lên càng đẹp đẽ, sáng ngời.

Hai câu cuối cùng vang lên như một lời thề với non sông, đất nước:

“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể sự con con”

Ở đây, Phan Châu Trinh đã mượn sự tích “vá trời” của bà Nữ Oa trong thần thoại Trung Hoa để nói lên chí lớn làm cách mạng, cứu nước cứu dân. Đối với họ, dù “có lỡ bước” - có gặp khó khăn, có chịu thất bại, dù có nếm trải gian nan cay đắng tù đày thì với nhà chí sĩ chân chính việc “con con” ấy không đáng kể, không đáng nói, không đáng quan tâm. Cùng với đó là niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc trong tương lai.

Như vậy, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã khắc họa hình tượng lẫm liệt, ngang tàn của người anh hùng cứu nước dù gặp bước nguy nan nhưng vẫn không sờn lòng đổi chí.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 6

Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ ông. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sống mãi với non sông, đất nước và trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng sáng ngời của Cụ:

 

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dụ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Năm 1908 Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã khép tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kì và đày đi Côn Lôn. Côn Lôn! Cái địa danh gợi lên trong trí tưởng tượng của những người Việt Nam một sự chết chóc, rùng rợn. Giữa bốn bề biển cả mênh mông, cái "địa ngục trần gian" này là nơi giam cầm, đọa đày dã man những người yêu nước và đã có biết bao người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây.

Bị đày đến địa ngục, Phan Châu Trinh tự xác định: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Trong tư thế "đứng" ấy của nhà chí sĩ cách mạng vừa biểu thị một thái độ ngang tàng bất khuất vừa chủ động tự tin - Giữa trời biển bao la, trước cảnh ngục là tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan Châu Trinh thật vững vàng như một tượng đài hiên ngang.

Ông không còn là một người tù bị đi đày nữa mà là một con người của tự do. Chí "làm trai" của người quân tử có phen được bộc lộ và thử thách. Đúng là một thử thách rất khắc nghiệt, người tù ngày ngày phải lao động khổ sai. Việc đập đá rất cực nhọc đối với Phan Châu Trinh, một nhà nho chân yếu tay mềm chỉ quen với bút nghiên, đèn sách không quen với công việc nặng nhọc.

Bị cực hình về thể xác nhưng tinh thần vẫn vững vàng: Lừng lẫy làm cho lở núi non. Đây không còn là chuyện người tù đập đá nữa mà còn bao hàm một ý nghĩa rộng lớn về chí khí hào hùng lẫm liệt của kẻ "làm trai" có chí lớn quyết xoay chuyển lại thời cuộc, nước non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

"Xách búa", "ra tay" thể hiện tư thế chủ động; "đánh tan", "đập bể" động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà chí sĩ đang hình dung như dồn tất cả nghị lực và lòng căm thù vào cánh tay để "đập bể", "đánh tan" cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát.

Ba năm trời đằng đẵng Phan làm thân tù tội, chịu đựng biết bao đoạ đày "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại" (một ngày ở tù, nghìn năm ở ngoài). Nhưng thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là hoàn cảnh để rèn luyện khí tiết người cách mạng.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

 

"Lửa thử vàng, gian nan thử sức", nhà tù đế quốc là trường hợp để tôi rèn thử thách. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông "vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu", Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn Tự khuyên mình

Nghĩ mình trong bước gian truân

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

(Nhật kí trong tù)

Những thử thách khốc liệt của lao lù làm cho Phan Châu Trinh thêm rắn rỏi, dạn dày, lòng dạ càng thêm sáng ngời "sắt son" một niềm tin mãnh liệt ở sự nghiệp cứu dấn, cứu nước. Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ đầy tự tin:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Phan tự ví mình là kẻ "vá trời", lấp biển, mưu đồ sự nghiệp lớn lao. Người anh hùng có chí lớn, tin ở tài năng và nghị lực của mình nhưng chẳng may bị sa cơ, "lỡ bước"! Bị "lỡ bước" trên con đường tranh đấu đầy chông gai hiểm nạn là lẽ tất yếu, thường tình đối với ông. Người cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày, xiềng gông kể cả việc phải hi sinh tính mạng.

Nói chuyện tù tội, chết chóc mà lời thơ cứ tự nhiên, nhẹ nhàng: Gian nan chi kể việc con con! Ông xem đó chỉ là việc "con con", không đáng kể, thái độ tư thế của nhà chí sĩ đĩnh đạc, ung dung lạ thường, ở đây ta lại bắt gặp sự đồng điệu rất lí thú trong tư thế của hai chí sĩ họ Phan:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.

(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác - Phan Bội Châu)

Kẻ thù dùng bạo lực, cực hình đày đọa để tiêu diệt lòng yêu nước, nhưng chúng đã lầm, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô địch.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn có giọng điệu hào hùng, sảng khoái của con người coi thường gian nguy, xem khinh kẻ địch. Đó là tư thế của những người chiến thắng, "đứng trên đầu thù". Phan Châu Trinh nhà yêu nước vĩ đại, người chiến sĩ bất khuất hiên ngang đã đi vào lịch sử của dân tộc.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 7

Là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt, Phan Châu Trinh là một chí sĩ yêu nước quả cảm và tài hoa. Dường như trong những tâm hồn chí sĩ như ông, khí phách ngang tàn đã thấm vào máu xương để dù trong hoàn cảnh nào thì vẫn sáng lên như ngọn hải đăng trong đêm tối mịt mùng của thời đại.

Bài thơ: “Đập đá ở Côn Lôn” ra đời năm 1908 khi Phan Châu Trinh bị bắt và bị đày ra Côn Đảo, trong hoàn cảnh ấy, cả bài thơ vẫn sáng bừng khí phách của người anh hùng thời đại. Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã phác họa nên chân dung vị anh hùng hào sảng:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Đây là bài thơ ra đời năm 1908 khi Phan Châu Trinh bị bắt và bị đày ra Côn Đảo vì vụ chống thuế ở Trung Kì nhưng đọc hai câu thơ đầu, ta không hề cảm nhận được đây là một người tù khổ sai ở cái nơi mệnh danh là “địa ngục trần gian” mà là một trang nam nhi khí khái hơn người ở giữa trời đất bao la mà Côn Lôn không chỉ là một địa danh đơn thuần mà là một vùng rộng lớn bao la, là phông nền cho hình ảnh cao lớn của con người.

Ở giữa nơi bao la hoang vắng ấy, khí phách của con người dường như “lừng lẫy”, hiên ngang tới mức núi non cũng phải rung chuyển.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Những hành động “xách búa”, “ra tay” đi kèm với những động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” trong biện pháp nói quá đã vẽ nên chân dung vạm vỡ khỏe mạnh của người chí sĩ yêu nước. Đây là những chi tiết tả thực được lí tưởng hóa cao độ. Là người tù khổ sai ở Côn Lôn, công việc nặng nhọc chính của những người tù cách mạng đó là đập đá để xây nhà tù.

Họ phải dùng những dụng cụ vô cùng thô sơ như búa, xẻng để đập những ghè đá to và vững trong hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt cùng hoàn cảnh sống kham khổ lại dưới sự quản thúc đòn roi của bè lũ tay sai. Những hành động ấy đi vào trong thơ của Phan Châu Trinh không còn nhuốm màu bi thương mà hùng tráng vô cùng.

Ta như cảm nhận được sức mạnh dời non lấp bể của một trang nam nhi trí lớn, trong từng nhát búa bổ xuống không chỉ là sức mạnh thể chất phi thường mà còn là ý chí sắt đá, lòng căm thù giặc sâu sắc. Và có lẽ cũng chính vì như vậy mà Phan Châu Trinh coi những ngày tháng phải chịu khổ sai ở nơi đây chỉ là thử thách để tôi rèn ý chí và sức mạnh:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Ngày tháng càng dài, con người ta như càng kiên trì, sành sỏi hơn, càng nhiều khổ cực, nắng mưa dãi dầu, lòng con người ta như càng vững, càng tin hơn. Côn Đảo thực chất là nơi mà thực dân Pháp cố tình lập ra để giam cầm những chí sĩ yêu nước, những nhà cách mạng trong khổ sai và tra tấn, muốn làm thui chột ý chí chiến đấu của họ để tiêu tan đi mọi lí tưởng về một dân tộc tự do.

Nhưng chúng đã lầm, tinh thần sắt son của những chí sĩ cách mạng không những không mất đi mà giống như vàng càng thử qua lửa thì càng giá trị. Phan Châu Trinh đã coi những năm tháng này chỉ như thử thách tôi rèn bản thân và lí tưởng nơi ông chỉ có thể ngày càng rõ ràng, hun đúc, không bao giờ tàn lụi. Bởi ông đã tự coi mình là:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể sự con con.

Ông tự cho mình là “kẻ vá trời”, người nhận trách nhiệm cao cả và vĩ đại vì sự bình yên và no ấm của muôn dân vì vậy khổ sai ở Côn Lôn chỉ là việc “con con” không đáng kể trong hành trình vĩ đại của ông. Cả bài thơ toát lên một khí phách kiên cường bất khuất với một giọng hào sảng, hiên ngang. Đó chính là tinh thần của những chí sĩ yêu nước cuối thế kỉ XIX với quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi gông kìm nô lệ của chế độ thực dân.

Hình ảnh người chí sĩ yêu nước hiên ngang dõng dạc sẽ không thể phai mờ trong lòng những thế hệ sau, cổ vũ thế hệ tiếp tục bước lên phía trước với một khí phách kiên cường bất khuất, xứng đáng với cha ông ta ngày trước.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 8

Có những người anh hùng dù bị gông tù giam cầm nhưng vẫn hiên ngang, ngẩng cao đầu hướng về tương lai. Có những người tù bị tra tấn dã man nhưng vẫn cất cao lời ca yêu nước, yêu dân. Bài “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh là một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần như vậy, đồng thời khẳng định chí làm trai ở trên đời cần phải sống có lý tưởng, có mục tiêu.

Nhắc đến đảo Côn Lôn, chúng ta lại nhớ đến nhà tù Côn Đảo, nơi đã giam giữ biết bao nhiêu người con cách mạng. Nơi đó có máu, có nước mắt và có cả những khát khao được đập tung cánh cửa nhà tù, ra với thế giới bên ngoài để kháng chiến chống lại kẻ thù.

Bài thơ là tiếng hát, tiếng lòng của người anh hùng cách mạng được cất lên giữa gông cùm Côn Đảo. Giọng thơ hào hùng, đanh thép tạo nên âm hưởng chủ đạo cho cả bài thơ. Hai câu thơ mở đầu đã khẳng định chí làm trai khi sống trên đời này cần phải hiên ngang, bất khuất:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non

Hình ảnh một con người hiện lên giữa nhà tù Côn Lôn thật hiên ngang, trong tư thế ngẩng cao đầu. Dù bị giam cầm, bị khổ sai nhưng vẫn “lừng lẫy”, công việc đập đá nặng nhọc, vất vả nhưng đối với người chiến sỹ cách mạng nó chỉ là việc “con con”. Người tù bỗng trở nên hùng vĩ, to lớn, mang tầm vóc vĩ đại.

Như vậy ngay từ đầu bài thơ, tác giả như ném một tiếng thét, tiếng lòng đầy sức sống vào giữa chốn ngục tù tăm tối; khắc họa thành công người con cách mạng. Đây cũng chính là cảm hứng chính của bài thơ. Hành động đập đá được Phan Châu Trinh tái diễn rất chân thực, sinh động và không kém phần hào hùng. Nhịp thơ cứ thể dẫn ra, dồn dập:

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn

Một loạt động từ mạnh xuất hiện liên tiếp trong hai câu thơ đã đặc tả sự mạnh mẽ, dứt khoát của người tù cách mạng. Việc đập đá chỉ là việc thường tình. Hình ảnh ước lệ “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn” mang ý nghĩa phóng đại thể hiện sức mạnh phi thường, không thể địch nổi của người anh hùng cách mạng.

Cá tính mạnh mẽ, hiên ngang của người chiến sỹ ấy không chỉ dừng lại ở đó mà còn được tác giả tái hiện qua khí phách:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng càng bền dạ sắt son

Giữa nơi đất khách quê người, tù ải khổ sai, hứng chịu sự giận dữ của thiên nhiên nhưng người tù vẫn hiên ngang, không hề sợ hãi. Ngược lại dù nắng mưa thì nó càng khiến cho “bền dạ sắt son”. Một ý chí, nghị lực đáng khâm phục và ngưỡng mộ. Hình ảnh mưa nắng hoàn toàn đối lập với hình ảnh người chiến sỹ cách mạng có lẽ là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Và bài thơ khép lại bằng một hình ảnh hào hùng, kiên cường hơn nữa:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con

Người tù khổ sai chỉ còn việc bị đày đọa ở nhà tù Côn Đảo chỉ là “lỡ bước”, và tự nhận mình là kẻ “vá trời”. Khi làm việc lớn thì những việc như thế này không có gì làm chùn bước được. Những việc gian nan, chông gai còn rất nhiều nên người tù xem rằng không đáng kể lể. Một chí khí thật ngang tàng, một châm ngôn sống khiến người khác phải ngưỡng mộ

Phan Châu Trinh bằng ngòi bút phóng khoáng, giọng điệu thơ hào hùng đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ cách mạng vẫn luôn ngang nhiên, ý chí quật cường. Đó là hình tượng của những người chiến sỹ cách mạng giữ nước, chống giặc ngoại xâm.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 9

Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước lớn, sớm có tinh thần dân chủ ở nước ta. Ông là một trong những người đã làm dấy lên phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX. Không những là một nhà chính trị, một nhà hoạt động cách mạng hăng say, Phan Châu Trinh còn là một nhà văn, nhà thơ. Cũng giống như nhiều nhà cách mạng khác, Phan Châu Trinh đã dùng ngòi bút của mình như một thứ vũ khí tinh thần cổ động và kích động tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đập đá ở Côn Lôn là một trong những bài thơ tù nổi tiếng của ông.

Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ ông làm tại nơi ông bị bắt làm tù khổ sai ở đảo Côn Lôn, do bị vu cho tội khởi xướng phong trào chống thuế Trung Kì. Cũng giống như bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, bài thơ này mang khẩu khí ngạo nghễ, bất chấp gian khổ, khẳng định bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng đầy nhiệt huyết.

Bài thơ mở đầu với tư thế của kẻ làm trai :

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Không phải ngẫu nhiên kẻ làm trai lại được ví tư thế của mình với đất Côn Lôn, được đặt giữa đất Côn Lôn. Mảnh đất đảo xa, đầy nắng gió khắc nghiệt, lại là nơi thực dân Pháp lập nhà tù khổ sai để giam cầm các chiến sĩ cách mạng của ta, những nhà hoạt động yêu nước. Côn Lôn có thể coi là mảnh đất của cái chết, hủy diệt sinh mạng của con người.

Giữa cái mảnh đất tử thần đó, người làm trai phải khẳng định được tư thế của mình. “Lừng lẫy làm cho lở núi non”, “lừng lẫy” là tính từ chỉ sự vang dội, ở đâu cũng nghe thấy tiếng vang. Hình ảnh “làm cho lở núi non” là hình ảnh hùng vĩ, vang dội như động đất, núi lửa, kinh thiên động địa.

Tư thế của con người ngang hàng cùng với núi non. Đó là tư thế đĩnh, đạc, hiên ngang, ngạo nghễ của một người anh hùng trong trời đất. “Làm trai” ở đây thực chất là làm chủ giang sơn, gây tiếng tăm vang dội. Đó là quan niệm làm trai của Phan Bội Châu.

Hai câu thơ sau nhà thơ mới đi vào tả cụ thể việc đập đá ở Côn Lôn. Với nhà thơ, đây là một trong những biểu hiện cho việc làm trai giữa trời đất:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Những cụm động từ “xách búa”, “ra tay” đứng đầu câu tạo một chất giọng khỏe khoắn, hãng hái. Những từ “đánh tan”, “đập bể” đầy sức mạnh. Các từ chỉ số lượng “dăm bảy đống”, “mấy trăm hòn” càng tôn thêm cho sức mạnh như vũ bão ấy. Cả hai câu thơ đầy khí thế, tưởng chừng như sẵn sàng đập tan những gì cứng rắn nhất.

Ta cảm giác như trong hành động đập đá của người tù khổ sai ấy là một ý chí và một sức mạnh không có gì địch nổi. Tinh thần, khí thế bừng bừng của người tù khổ sai ấy đã nâng lên thành một lời hứa chắc nịch :

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

“Tháng ngày” là một khoảng thời gian dài, triền miên từ ngày này sang ngày khác. Nói đến tháng ngày lúc này chính là nhà thơ đang nói đến những ngày tháng ở Côn Lôn. “Thân sành sỏi” là thân phận của người tù khổ sai. Nhưng cụm từ “bao quản” đứng giữa câu thơ như một lời khẳng định chắc nịch tinh thần không sợ hiểm nguy của người tù. “Mưa nắng” là những hiện tượng của tự nhiên, nhưng ở đây được hiểu như là những hiểm nguy của cuộc sống tù đày nơi Côn đảo.

Nắng mưa ấy có thể làm xoay mòn đá núi, nhưng không thể làm sờn lòng người tù cách mạng, “chi sờn dạ sắt son”. “Dạ sắt son” là dạ rắn như sắt, đỏ như son, thuỷ chung như nhất. Dù nắng mưa có thế nào thì nó vẫn không bao giờ đổi thay. Hai câu thơ tả sức chịu đựng gian khổ, thử thách nghe như một lời tự khẳng định và như một lời thề thiêng liêng.

Hai câu thơ kết bài thơ cho chúng ta biết ý nghĩa sâu xa của công việc đập đá của nhà thơ – người tù :

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con !

Với người tù này, thân phận tù đày chỉ là một phút sa cơ, gặp tai ách rủi ro trên bước đường hoạt động cách mạng. Họ gọi mình là “những kẻ vá trời”. Câu thơ gợi nhắc cho ta đến câu chuyện Nữ Oa vá trời. Thì ra những kẻ đập đá, làm lở núi non trên kia là những kẻ đang luyện đá vá trời, đang đưa vai gánh vác vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Họ không phải là những người tù khổ sai bình thường.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 10

Đầu năm 1908, nhân dân Trung Kì nổi dậy chống chính sách sưu cao thuế nặng của chính quyền thực dân, phong kiến. Phan Châu Trinh – nhà chí sĩ yêu nước đề xướng phong trào dân chủ và bãi bỏ chế độ quân chủ đã bị Pháp bắt giam, kết án chém và đày ra Côn Đảo (tháng 4 -1908). Vài tháng sau, nhiều nhân sĩ cũng bị đày ra đây.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn được sáng tác trong lúc Phan Châu Trinh cùng các tù nhân chính trị khác bị bắt lao động khổ sai đập đá:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Bằng nghệ thuật ẩn dụ tượng trưng, bài thơ đã dệt nên hình tượng hiên ngang, lẫm liệt của người anh hùng cứu nước, trong lúc nguy nan vẫn giữ vững chí khí dời non lấp bể. Cái độc đáo của bài thơ là ở chỗ tác giả nói về công việc hết sức nặng nhọc là đập đá mà như nói về một công cuộc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh và đầy khí phách của một dũng sĩ trong thần thoại.

Côn Đảo là một hòn đảo nằm ở vùng biển phía đông nam nước ta, nơi thực dân Pháp lập nhà tù giam cầm những chiến sĩ yêu nước và Cách mạng. Tù nhân buộc phải lao động khổ sai và không ít người đã gục ngã vì kiệt sức, vì bệnh tật, đòn roi của lũ cai ngục độc ác, dã man.Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu quan niệm về “chí làm trai” của tác giả nói riêng và của các nhà Nho thuở ấy nói chung.

Thủa trước, vị Thượng quan Nguyễn Công trứ đã từng tuyên bố: Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông. Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể. Chí sĩ Phan Bội Châu thì khẳng định: Đã sinh làm trai thì cũng phải khác đời. Còn trong bài thơ này, Phan Châu Trinh nhấn mạnh: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non. Câu thơ thể hiện tư thế hiên ngang, sừng sững giữa trời cao, biển rộng và thái độ kiêu hãnh, tự hào, cùng khát vọng lớn lao của những chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã.

Công việc đập đá vô cùng vất vả, nguy hiểm đã được tác giả miêu tả bằng nghệ thuật cường điệu (hay còn gọi là lối nói khoa trương). Mỗi hình ảnh là một ẩn dụ đặc sắc, chứa đựng ý nghĩa sâu xa:

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Quả là những dũng sĩ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy, hành động phi thường và sức mạnh thật là ghê gớm. Điều thú vị là các động tác ước lệ ấy lại giống hệt như những động tác của tù nhân trong công việc khai thác đá hằng ngày.

Phan Châu Trinh đã khắc họa rất thành công hình ảnh kiêu hùng của người tù cách mạng với tầm vóc và tư thế ngang tầm vũ trụ. Họ đã biến công việc lao động khổ sai nặng nhọc thành một cuộc chinh phục dũng mãnh của những con người có ý chí lớn lao và sức mạnh thần kì. Qua bốn câu thơ đầu, tác giả đã dựng lên một tượng đài uy nghi về người anh hùng với khí phách hiên ngang, lẫm liệt.

Nếu trong bốn câu thơ đầu, tác giả kết hợp giữa miêu tả và biểu cảm thì trong bốn câu thơ cuối, tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Đây là khẩu khí ngang tàng của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi thử thách gian nan, luôn giữ vững khí tiết, niềm tin và ý chí chiến đấu. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong được miêu tả ở trên đã tạo nên một hình tượng nghệ thuật giàu tính sử thi, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Để làm nổi bật chí lớn, gan to của người anh hùng, tác giả đã đặt nhân vật trong thế tương quan đối lập với những thử thách lớn lao. Ở câu 5-6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan (tháng ngày, mưa nắng) và sức chịu đựng kiên trì, bền bỉ cùng ý chí chiến đấu, chiến thắng mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng (thân sành sỏi, dạ sắt son).

Câu 7 – 8 nêu bật khí phách cương cường rất đáng khâm phục của những con người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỉ XX. Tác giả tự hào gọi họ là Những kẻ vá trời và so sánh hành động của họ giống với hành động đội đá vá trời của bà Nữ Oa trong thần thoại Trung Quốc ở tính chất vĩ đại, phi thường.

Bởi thế nên những thử thách trên bước đường chiến đấu được Phan Châu Trinh và các đồng chí của ông coi chỉ là những việc con con (tầm thường, không đáng kể). Sự thật thì bản án tử hình và hoàn cảnh tù đày khắc nghiệt mà ông đang phải chịu đựng đâu có phải là việc con con? Có điều, đặt bên cạnh lí tưởng vì dân vì nước thì quả là nó chẳng có gì đáng phải bận tâm.

Âm hưởng chung của bài thơ là hào hùng, sảng khoái. Cảm xúc của nhà thơ bay bổng vượt lên trên thực tế tù đày và sự nặng nhọc, hiểm nguy của công việc đập đá ở Côn Lôn. Vẻ đẹp của Những kẻ vá trời khi lỡ bước biểu hiện ở khí phách ngang tàng, lẫm liệt trước những thử thách, gian lao, ở ý chí chiến đấu bất khuất và niềm tin vững chắc vào thắng lợi.

Bài thơ là hình tượng tuyệt vời về những người anh hùng cứu nước đầu thế kỉ XX. Họ đã chấp nhận hi sinh cuộc đời mình để đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại chủ quyền độc lập tự do thiêng liêng cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 11

“Đập đá ở Côn Lôn” là khẩu khí của một người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Khẩu khí ấy rắn rỏi như chính khí phách của tác giả - một nhà chí sĩ yêu nước trên bước đường bôn ba cách mạng đang bị giam cầm, đày ải. Có thể nói rằng, với “Đập đá ở Côn Lôn” nhà chí sĩ Phan Châu Trinh đã khẳng định rằng, có một dòng thơ ca yêu nước chống ngoại xâm toát lên khí phách kiên cường bất khuất.

Trước hết tác giả đã dựng lên một tượng đài hiên ngang, lẫm liệt về người anh hùng cứu nước. Dẫu đó là một người tù nhưng hình ảnh thơ lại khiến ta liên tưởng đến tư thế của người đang làm chủ mình, làm chủ cuộc sống, muốn dùng sức mạnh và nghị lực của bản thân để hoán cải càn khôn, vũ trụ:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Thật hào hùng, thật lẫm liệt ở cái tư thế “đứng giữa đất Côn Lôn”. Ởđây, vị trí của kẻ làm trai là vị trí trung tâm. Đất Côn Lôn như là toàn bộ hình ảnh thu nhỏ của cuộc sống đầy cam go khủng khiếp. Với tư thế ấy, kẻ làm trai như muốn khẳng định sức mạnh dời non lấp biển của mình, sức mạnh ấy sánh ngang cùng trời đất, ở chính giữa trời đất. Họ tin rằng với vị trí ấy, sức mạnh đó sẽ làm cho “lở núi non”.

Đi liền với tư thế là hành động:

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Hai câu thơ vận dụng nhiều động từ chỉ hành động mạnh, hay nói cách khác động từ chi phối toàn bộ ý tưởng của câu thơ: “xách”, “đánh tan”, “ra tay”, “đập bể”... Hình ảnh và ý thơ đối nhau chan chát vừa tạo lớp nghĩa tả thực người tù đang cầm búa để đập đá trong những buổi lao động khổ sai, vừa tạo nghĩa bóng thể hiện khí phách hào hùng của người có chí lớn.

Cùng với dụng ý sử dụng động từ, cách ngắt nhịp của hai câu thơ khiến hình ảnh thơ trở nên cứng cỏi, mãnh liệt:

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Nhịp thơ 2/2/3 tạo nên hành động mạnh mẽ, ý chí quyết tâm của kẻ có chí vá trời lấp biển. Và tiếp theo, hai câu luận (5 - 6) thể hiện nghị lực phi thường của kẻ làm trai trong một hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

“Tháng ngày”, “mưa nắng”, những thử thách của thời gian và hoàn cảnh không làm cho người chiến sĩ sờn lòng, nản chí, trái lại, lời thơ khẳng định một quyết tâm vượt qua mọi gian lao, khổ hận để giữ tấm lòng son sắt.

Hai câu thơ kết, tác giả bộc lộ trực tiếp tâm tư, tình cảm của “những kẻ vá trời khi lỡ bước”. Nếu nói rằng âm hưởng chủ đạo của bài thơ là khẩu khí anh hùng của một người tuy thất thế nhưng vẫn nuôi mộng lớn dời non lấp bể thì ở hai câu kết ý tưởng đó được thể hiện nổi bật nhất:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con!

Hình tượng kì vĩ “những kẻ vá trời” làm ta liên tưởng đến bà Nữ Oa trong câu chuyện thần thoại, sức mạnh của Nữ Oa là sức mạnh biến cải cả trời đất, vũ trụ. Khí phách của người anh hùng trong bài thơ được tỏa sáng, tạo nên sức truyền cảm góp phần động viên tinh thần những người yêu nước trong những giờ phút nguy nan nhất.

Đọc xong bài thơ, có hai hình ảnh đậm nét đọng lại trong tâm trí em. Đó là hình ảnh một người bị kẻ thù đày đọa nhưng vẫn coi thường gian khổ, chết chóc, dáng vẻ vẫn hiên ngang anh hùng. Người chí sĩ xem thực tế khổ ải của lao tù thực dân như một hoàn cảnh để tôi rèn khí phách.

Một hình ảnh khác vượt lên hoàn cảnh tù đày, không gian, thời gian, một kẻ “làm trai” nguyện đem tâm huyết và nghị lực để cải tạo thế giới, biến cái cuộc sống thực tại hướng tới một chân trời sáng tươi của đất nước, dân tộc. Hai hình ảnh đó liên kết, đan xen, bổ sung cho nhau để dựng nên một tượng đài anh hùng rực rỡ trong dòng văn học yêu nước chống ngoại xâm.

Cuộc đời và thơ văn của Phan Châu Trinh sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam anhhùng.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 12

Tương tự như bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội Châu, bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Bài thơ đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong chốn tù đày.

Nhan đề bài thơ gợi lên cảnh lao động khổ sai của tác giả và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp bắt giam và đày đọa ở Côn Đảo. Sau sự kiện chống thuế ở Trung Kì, năm 1908, Phan Châu Trinh và một số chiến sĩ bị thực dân Pháp bắt giam và đày ra Côn Đảo với án khổ sai chung thân.

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Bốn câu thơ đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc đứng giữa đất Côn Lôn, bị tù đày khổ sai là một thách thức nhưng không phải là thấp hèn mà là lừng lẫy, không những thế còn lừng lẫy làm cho lở núi non. Hai từ đứng giữa biểu thị một tư thế hiên ngang, bất khuất trước quân thù.

Câu thơ thứ hai thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh đày đọa của quân thù. Các động từ đánh tan, đập bể vừa tả thực sức mạnh đập đá, vừa thể hiện một quyết tâm, một ý chí căm thù giặc. Đó là quyết tâm phá tan cảnh ngục tù, lật đổ ách thống trị của bọn thực dân tàn bạo. Câu thứ ba và thứ tư đối nhau làm cho lời thơ thêm mạnh mẽ, các số từ trong câu đã tạo nên vẻ đa nghĩa cho bài thơ: .

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Hai câu năm và sáu đối nhau rất chỉnh. Tác giả lấy thời gian bị giam cầm (tháng ngày)đối với gian truân, thử thách (mưa nắng); lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần sắt thép (dạ sắt son). Nghệ thuật đối làm hiện lên hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp.

Thân sành sỏi và dạ sắt son là hai hình ảnh ẩn dụ thể hiện một cách hàm súc và hình tượng phẩm chất cao quý của tác giả:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Các từ bao quản và chi sờn biểu thị một thái độ chấp nhận đương đầu với khó khăn thử thách, thái độ thách thức với cảnh ngục tù của quân thù. Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vá trời) mà không thành (lỡ bước).

Hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang đã được khắc họa một cách thú vị. Chuyện tù đày được xem là con con, không đáng kể. Hai câu cuối toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của người chí sĩ yêu nước:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kề việc con con!

Đập đá ở Côn Lôn là bài thơ tiêu biểu cho thơ ca viết trong ngục tù của các chiến sĩ yêu nước đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng,ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị, vừa cổ kính sang trọng. Tác giả đã lấy thơ để giãi bày cái tâm, cái chí của mình, sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với sự nghiệp cứu nước, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày. Đó chính là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện qua bài thơ Đập đá ở Côn Lôn.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 13

Nhà tù Côn Đảo được mệnh danh là địa ngục trần gian, bởi trên hòn đảo trơ trọi, giữa nắng gió biển khơi, trong chế độ nhà tù khắc nghiệt, người đi đày sẽ buộc phải làm công việc lao động khổ sai như đập đá cho đến khi kiệt sức và không ít người đã gục ngã.

Bài thơ thể hiện khí phách của một người xem thường mọi thử thách gian nan, nói về công việc lao động cưỡng bức hết sức nặng nhọc mà như nói về một công việc chinh phục thiên nhiên dũng mãnh và đầy khí phách của một dũng sĩ thần thoại

Bốn câu thơ đầu có hai lớp nghĩa. Tư thế đứng của con người giữa đất trời: Thể hiện quan niệm nhân sinh truyền thống về “chí làm trai” “Đã sinh làm trai cũng phải khác đời” (Phan Bội Châu), “Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông - Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể” (Nguyễn Công Trứ),... Đó là niềm kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình, là khát vọng hành động mãnh liệt. Con người thể hiện chí làm trai của mình: Đứng giữa đất Côn Lôn, đứng giữa biển rộng, non cao, đội trời đạp đất, tư thế hiên ngang, sừng sững. Từ câu thơ toát lên một vẻ đẹp hùng tráng.

Miêu tả công việc đập đá: Bằng nét bút khoa trương nhằm làm nổi bật sức mạnh to lớn của con người khổng lồ: Khí thế hiên ngang “lừng lẫy” như bước vào một trận chiến đấu mãnh liệt; hành động thì quả quyết, mạnh mẽ phi thường: “Xách búa”, “ra tay”; sức mạnh thật là ghê gớm, gần như thần kì: “Làm cho lở núi non”, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”...

Câu thơ khắc họa hình ảnh người tù cách mạng trong tư thế vươn cao ngang tầm vũ trụ, đã biến một công việc lao động khổ sai thành một cuộc chinh phục dũng mãnh của con người có sức mạnh thần kì.

Bốn câu thơ cuối tác giả trực tiếp bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ của mình. Đây là khẩu khí của người anh hùng không chịu khuất phục hoàn cảnh, xem thường mọi thứ thử thách gian nan, luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu. Vẻ đẹp tinh thần này kết hợp với tầm vóc lẫm liệt, oai phong đã tạo nên một hình tượng giàu chất sử thi và gây ấn tượng mạnh.

Câu 5-6 là sự đối lập giữa những thử thách gian nan, những gian khổ phải chịu đựng không phải một sớm, một chiều mà dài dằng dặc qua năm tháng với sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ và ý chí chiến đấu sắt son của người chiến sĩ cách mạng.

Câu 7-8 là sự đối lập giữa chí lớn của những người dám mưu đồ sự nghiệp cứu nước vào những năm đầu thế kỉ XX, khi đất nước đang lâm vào cảnh tối tăm do bị thực dân Pháp đàn áp, thì không phải ai cũng tin vào sức người có thể làm được. Những thử thách trên bước đường chiến đấu bị Phan Châu Trinh coi như là những “việc con con”, không làm ông nhụt chí.

Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để giãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" này. Cái tâm, cái chí của nhà cách mạng tiền bối Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

 Video tóm tắt kiến thức: Đập đá ở Côn Lôn

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 14

Côn Đảo trước kia được coi là “địa ngục trần gian”, nơi thực dân Pháp cho xây dựng những nhà tù giam cầm các chiến sĩ yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được sáng tác khi nhà yêu nước Phan Châu Trinh bị bắt và giam cầm ở nơi đây. Bài thơ toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ kiên trung dù bị đày ải, khổ sai nhưng vẫn mang dáng vẻ chí khí, bất khuất trước kẻ thù.

Ngay từ những câu thơ đầu bài thơ, Phan Châu Trinh đã làm hiện lên hình ảnh một người anh hùng hiên ngang giữa đảo xa:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non

Ông thể hiện niềm tự hào được “làm trai” – một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất, mạnh mẽ, dũng mãnh và được rạng danh tiếng tăm – “lừng lẫy” giữa đời. Mang sức mạnh của một thanh niên trai trẻ, những công việc khổ sai cũng trở nên quá đỗi tầm thường:

Xách búa đánh tan năm bảy đống

Ra tay đập bể mấy trăm hòn

“Xách búa”, “đánh tan”, “đạp bể” – động từ mạnh, dứt khoát, thể hiện một sức mạnh ghê gớm, tạo cho người tù yêu nước một tư thế ngạo nghễ hiên ngang. Công việc đập đá tưởng chừng như nặng nề, vất vả mà lại quá đỗi nhẹ nhàng với người tù yêu nước. Thời gian sống trong tù tôi luyện thân thể họ, những khó khăn, thử thách lại càng làm ý chí của họ thêm vững vàng:

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng càng bền dạ sắt son

Ông bày tỏ quan điểm cá nhân:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con

Mượn câu chuyện thần thoại Nữ Oa đội đá vá trời, Phan Châu Trinh nói lên cái chí lớn của đời mình: Tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đối với ông, đập đá cũng chỉ là một “việc con con”, còn theo đuổi hoài bão mới thực sự là hành trình gian nan và thử thách. Ông coi thường những vất vả, nhọc nhằn trước mắt để giữ ý chí vững bền và hiên ngang trước kẻ thù.

“Đập đá ở Côn Lôn” – nhan đề bài thơ là về chuyện đập đá nhưng ý thơ không chỉ đơn giản là những cực nhọc trong cảnh tù đày. Toàn bài thơ hiện lên hình ảnh người tù yêu nước cao lớn sừng sững, đứng hiên ngang giữa đất trời, bất chấp mọi gian khổ để đi theo tiếng gọi của lý tưởng. Đó chính là tư thế hiên ngang của người anh hùng Việt Nam trong những năm chiến đấu vì tự do, độc lập của nước nhà.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 15

Phan Châu Trinh (1872-1926), là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi và mạnh mẽ nhất trong những năm đầu của thế kỷ XX, ông là người đầu tiên đề xướng phong trào cứu nước kiểu dân chủ, đòi bác bỏ chế độ quân chủ phong kiến sớm nhất ở Việt Nam. Trong suốt cuộc đời mình Phan Châu Trinh đã từng đi đến nhiều nơi để theo đuổi lý tưởng giải phóng dân tộc lúc ở Pháp, lúc ở Nhật. Tuy nhiên vì một số hướng đi sai lầm mà ông cũng như Phan Bội Châu vẫn chưa tìm ra được một con đường cứu nước đúng đắn và phù hợp với đặc điểm lúc bấy giờ của đất nước. Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi, Phan Châu Trinh còn là một nhà thơ, nhà văn chính luận có nhiều tác phẩm đặc sắc. Đập đá ở Côn Lôn là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông, được viết trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, ấy là khi Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp khép vào tội xúi giục nhân dân Trung Kỳ chống thuế và bị bắt đày ra Côn Đảo, bị buộc phải lao động khổ sai với công việc khai thác đá.

Trước hết trong bốn câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm của mình về chí làm trai, đồng thời thông qua đó cũng bộc lộ những sự vất vả, cực nhọc của công việc lao động khổ sai khi bị lưu đày tại Côn Đảo.

"Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn"

Câu thơ đầu tiên "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn" đã mở ra cho người đọc một hình dung về bối cảnh không gian rộng lớn, đồng thời thông qua đó tọa dựng tầm vóc và tư thế hiên ngang của con người trong trời đất, bộc lộ khí phách của một người anh hùng, sừng sững giữa đất trời. Trong đó hai từ "làm trai" nhắc nhở độc giả về quan niệm chí nam nhi trong nền giáo dục truyền thống mà cụ thể ấy là Nho học, người ta luôn quan niệm rằng làm trai thì phải trả món nợ công danh, phải làm nên sự nghiệp, đáp đền cho Tổ quốc, đồng thời lừng lẫy với núi sông, xứng đáng là bậc nam tử hán đại trượng phu chí lớn rộng khắp đất trời. Có thể thấy quan niệm truyền thống về chí làm trai đã từng xuất hiện rất nhiều trong thơ ca xưa ví như Nguyễn Công Trứ có "Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông/ Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể", hay Phan Bội Châu với "Làm trai phải lạ ở trên đời" tức là không cam chịu cuộc sống tầm thường, mà luôn hướng tới những lý tưởng vĩ đại phi thường, tiêu biểu như sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hoặc xa hơn nữa còn có Phạm Ngũ Lão với "Nam nhi vị liễu công danh trái/Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu", ý bảo nam nhi mà chưa trả được nợ công danh thì ắt phải xấu hổ khi nghe chuyện nhà Gia Cát. Tương tự vậy trong Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh ông viết "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non", tức là thể hiện lòng kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình, khát vọng hành động mãnh liệt, sẵn sàng làm nên những việc lừng lẫy rung chuyển núi sông. Đặc biệt nhân vật trữ tình với tư thế "đứng giữa" đất Côn Lôn, đối diện với núi non sừng sững, lại càng làm nổi bật lên vẻ đẹp oai hùng, hiên ngang của trang nam tử với ý chí cao ngút trời xanh. Khẳng định tầm vóc của con người khi đứng trước thiên nhiên, trời đất không hề bị lu mờ mà càng trở nên, rõ ràng, sắc nét, mang vẻ đẹp hùng tráng, mà vẻ đẹp ấy vốn toát ra từ chính ý chí nam nhi, từ những khát vọng to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc vĩ đại. Ở ba câu thơ tiếp, dù miêu tả công việc lao động khổ sai, cực nhọc khi tay cầm búa, dùng sức người đập đá, với khối lượng công việc lớn, thế nhưng giọng điệu thơ của Phan Châu Trinh ở đây lại hết sức mạnh mẽ, hùng hồn như đang bước vào một trận chiến mãnh liệt. Các từ ngữ mang sắc thái mạnh như "lừng lẫy", "đánh tan", "đập bể", thể hiện được sức mạnh, tầm vóc của con người trong những công việc lao động vất vả, nhưng không hề vì thế mà nao núng, chán chường. Trái lại từ một công việc lao động khổ sai vất vả, Phan Châu Trinh đã biến nó thành một công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy thách thức, mà con người trong đó luôn tràn trề sức sống, sinh lực, sẵn sàng chinh phục mọi đỉnh cao. Bộc lộ khẩu khí ngang tàn, ngạo nghễ của một con người tuy chịu cảnh tù đày thế nhưng vẫn hiên ngang mạnh mẽ, tinh thần lạc quan, tầm vóc sáng ngang sơn hà. Tạo dựng được một tượng đài về người anh hùng vượt lên trong nghịch cảnh, chiến thắng số phận, với khí phách hiên ngang lẫm liệt, sừng sững giữa đất trời, cũng như trong chính lòng giặc thù.

Nếu như 4 câu thơ đầu tập trung thể hiện khí phách, tầm vóc của người anh hùng giữa đất trời, thì ở bốn câu thơ cuối vẻ đẹp tâm hồn của Phan Châu Trinh lại càng được bộc lộ một cách rõ ràng, bổ sung cho phong thái ngạo nghễ, hiên ngang của người anh hùng trước những hoàn cảnh khó khăn, ngục tù, luôn giữ vững niềm tin và ý chí sắt son vào con đường mình đã chọn không đổi dời.

"Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng càng bền dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!"

Để nhấn mạnh cho vẻ đẹp tâm hồn kiên định, ý chí mạnh mẽ, cũng như chí lớn nam nhi của mình tác giả đã tinh tế dùng thế tương quan đối nghịch giữa các sự thể trong hai câu thơ 5 và 6 "Tháng ngày bao quản thân sành sỏi/Mưa nắng càng bền dạ sắt son". Trong đó "tháng ngày" và "mưa nắng" là chỉ những khó khăn vất vả với cuộc sống tù đày dài đằng đẵng ngày này qua tháng khác không biết hồi kết, còn mưa nắng là để chỉ những nỗi khó nhọc, gian lao trong quá trình lao động khổ sai mà người tù phải gánh chịu. Tuy nhiên đối lập với những khó khăn này, thì "tháng ngày" chỉ càng làm cho thân thể, ý chí người chiến sĩ thêm bền bỉ, dẻo dai, với một tấm "thân sành sỏi", còn "mưa nắng" cũng chỉ khiến cho tấm lòng, tâm hồn tác giả thêm vững chãi, một lòng kiên trung với lý tưởng cách mạng, cứu nước, "càng bền dạ sắt son". Có thể nói rằng chính những khó khăn vất vả trong cảnh tù đày càng khiến người chiến sĩ cách mạng thêm quyết tâm và tin tưởng vào sự nghiệp, lý tưởng mà mình đang theo đuổi, càng trở nên mạnh mẽ và hiên ngang giữa trời đất, chứ không thể làm suy sụp hay chán chường trước nghịch cảnh.

Đến câu thơ thứ 7 "Những kẻ vá trời khi lỡ bước", khiến ta dễ dàng liên tưởng đến truyền thuyết bà Nữ Oa đội đá vá trời cứu muôn vạn sinh linh, đó là một sự kiện phi thường mà không phải ai cũng có thể làm được. Thì ở đây bản thân Phan Châu Trinh cũng ví công cuộc tìm đường cứu nước, làm cách mạng của mình chính là một công việc "vá trời" khác, bởi lẽ trong thế kỷ XX ấy dường như người ta chẳng thể tin vào việc một con người nhỏ bé có thể lãnh đạo một dân tộc nhỏ bé chống lại bọn đế quốc hung tàn mạnh mẽ được. Điều này càng thể hiện được cái chí lớn và khí phách anh hùng của Phan Châu Trinh trước một thời đại đầy biến động, chính vì thế với công việc mà vốn không ai tưởng tượng nổi ông cũng đã mạnh dạn mưu đồ thì chừ có há chi mấy "việc con con" như cảnh lao tù khổ sai khi lỡ bước. Thể hiện ý chí quyết tâm mạnh mẽ, niềm tin hướng về một ngày tự do không xa của tác giả, đồng thời là sự coi thường những phương cách bỉ ổi của bè lũ thực dân đối với những chí sĩ yêu nước như tác giả.

Đập đá ở Côn Lôn là một bài thơ hay, thể hiện rất rõ vẻ đẹp, tư thế hiên ngang sánh ngang với trời đất của người làm trai trước một thời đại nhiều biến động dữ dội của đất nước. Đồng thời cũng bộc lộ rất rõ những vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả ấy là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước, lý tưởng một lòng làm cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách ngục tù của thực dân, đế quốc đồng thời còn thể hiện ý chí sắt đá, mạnh mẽ, vượt qua được tất cả mọi gian lao vất vả mà vẫn giữ được tấm lòng son sắt với Tổ quốc.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 16

Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, đồng bào cả nước đều ngưỡng mộ ông. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sống mãi với non sông, đất nước và trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng sáng ngời của Cụ:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dụ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Năm 1908 Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã khép tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kì và đày đi Côn Lôn. Côn Lôn! Cái địa danh gợi lên trong trí tưởng tượng của những người Việt Nam một sự chết chóc, rùng rợn. Giữa bốn bề biển cả mênh mông, cái "địa ngục trần gian" này là nơi giam cầm, đọa đày dã man những người yêu nước và đã có biết bao người con ưu tú của dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây.

Bị đày đến địa ngục, Phan Châu Trinh tự xác định: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Trong tư thế "đứng" ấy của nhà chí sĩ cách mạng vừa biểu thị một thái độ ngang tàng bất khuất vừa chủ động tự tin - Giữa trời biển bao la, trước cảnh ngục là tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan Châu Trinh thật vững vàng như một tượng đài hiên ngang.

Ông không còn là một người tù bị đi đày nữa mà là một con người của tự do. Chí "làm trai" của người quân tử có phen được bộc lộ và thử thách. Đúng là một thử thách rất khắc nghiệt, người tù ngày ngày phải lao động khổ sai. Việc đập đá rất cực nhọc đối với Phan Châu Trinh, một nhà nho chân yếu tay mềm chỉ quen với bút nghiên, đèn sách không quen với công việc nặng nhọc.

Bị cực hình về thể xác nhưng tinh thần vẫn vững vàng: Lừng lẫy làm cho lở núi non. Đây không còn là chuyện người tù đập đá nữa mà còn bao hàm một ý nghĩa rộng lớn về chí khí hào hùng lẫm liệt của kẻ "làm trai" có chí lớn quyết xoay chuyển lại thời cuộc, nước non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

"Xách búa", "ra tay" thể hiện tư thế chủ động; "đánh tan", "đập bể" động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà chí sĩ đang hình dung như dồn tất cả nghị lực và lòng căm thù vào cánh tay để "đập bể", "đánh tan" cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát.

Ba năm trời đằng đẵng Phan làm thân tù tội, chịu đựng biết bao đoạ đày "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại" (một ngày ở tù, nghìn năm ở ngoài). Nhưng thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là hoàn cảnh để rèn luyện khí tiết người cách mạng.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

"Lửa thử vàng, gian nan thử sức", nhà tù đế quốc là trường hợp để tôi rèn thử thách. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông "vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu", Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn Tự khuyên mình

Nghĩ mình trong bước gian truân

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

(Nhật kí trong tù)

Những thử thách khốc liệt của lao lù làm cho Phan Châu Trinh thêm rắn rỏi, dạn dày, lòng dạ càng thêm sáng ngời "sắt son" một niềm tin mãnh liệt ở sự nghiệp cứu dấn, cứu nước. Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ đầy tự tin:

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con!

Phan tự ví mình là kẻ "vá trời", lấp biển, mưu đồ sự nghiệp lớn lao. Người anh hùng có chí lớn, tin ở tài năng và nghị lực của mình nhưng chẳng may bị sa cơ, "lỡ bước"! Bị "lỡ bước" trên con đường tranh đấu đầy chông gai hiểm nạn là lẽ tất yếu, thường tình đối với ông. Người cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày, xiềng gông kể cả việc phải hi sinh tính mạng.

Nói chuyện tù tội, chết chóc mà lời thơ cứ tự nhiên, nhẹ nhàng: Gian nan chi kể việc con con! Ông xem đó chỉ là việc "con con", không đáng kể, thái độ tư thế của nhà chí sĩ đĩnh đạc, ung dung lạ thường, ở đây ta lại bắt gặp sự đồng điệu rất lí thú trong tư thế của hai chí sĩ họ Phan:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.

(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác - Phan Bội Châu)

Kẻ thù dùng bạo lực, cực hình đày đọa để tiêu diệt lòng yêu nước, nhưng chúng đã lầm, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô địch.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn có giọng điệu hào hùng, sảng khoái của con người coi thường gian nguy, xem khinh kẻ địch. Đó là tư thế của những người chiến thắng, "đứng trên đầu thù". Phan Châu Trinh nhà yêu nước vĩ đại, người chiến sĩ bất khuất hiên ngang đã đi vào lịch sử của dân tộc.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 17

Phan Châu Trinh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng, mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc. Các tác phẩm của ông thấm đẫm tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu kiên trì, bền bỉ. “Đập đá ở Côn Lôn” là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện tinh thần cứng cỏi, yêu nước của tác giả.

Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh ông bị bắt giam, lưu đày ngoài Côn Đảo với công việc đập đá khổ sai. Nhưng ngay từ những câu thơ đầu đã thể hiện được tinh thần sắt đá, tư thế sừng sững, lớn lao, nổi bật giữa đất trời của người chí sĩ cách mạng:

“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”

Hai câu thơ đầu đã thể hiện chí nam nhi của các bậc trượng phu thời xưa. Văn học dân gian đã từng khẳng định, làm trai thì phải:

“Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”

Sống cùng thời với Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu cũng có quan điểm tương tự:

“Sinh vi nam tử yếu hi kì”

Trong câu thơ của Phan Châu Trinh chí làm trai thật lớn lao, mạnh mẽ. Nhân vật trữ tình hiện lên trong tư thế làm chủ, hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, vô cùng anh dũng, kiêu hùng. Đây cũng là nét mới trong cách thể hiện chí làm trai của ông. Giữa non nước, đất trời Côn Lôn, con người được đặt vào vị trí trung tâm với sức mạnh “làm cho lở núi non”. Từ “lừng lẫy” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh hơn nữa sức mạnh phi thường của nhân vật trữ tình.

Để làm rõ sức mạnh phi thường của kẻ làm trai, hai câu thơ tiếp theo miêu tả trực tiếp sức mạnh đó: “Xách búa đánh tan năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm hòn”. Tác giả sử dụng hàng loạt các động từ mạnh: “xách búa, ra tay, đập bể” cho thấy sức mạnh thần kì của con người. Sử dụng số từ “năm, bảy, mấy trăm” có tính chất ước lệ càng khẳng định hơn nữa vẻ đẹp sức mạnh của con người. Hai câu thơ dùng nhiều thanh trắc với nhịp điệu mạnh mẽ như chính những hành động trong thực tế công việc của tác giả. Đây đồng thời cũng là hình ảnh thực tế của công việc đập đá mà người tù khổ sai phải làm. Tuy nhiên, câu thơ không dừng lại là tái hiện công việc mà nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh của kẻ làm trai - gây ấn tượng mạnh về tầm vóc của đấng nam nhi.

Những câu thơ cuối thể hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhân vật trữ tình:

“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con”

Bốn câu thơ cuối tạo tương quan đối lập giữa hoàn cảnh thực tế với ý chí kiên cường, dẻo dai của người chiến sĩ. Hai câu thực có sự đối lập giữa “tháng ngày”, “mưa nắng” với “thân sành sỏi”, “dạ sắt son” – sự đối lập giữa gian khổ với sức chịu đựng dẻo dai và ý chí bền bỉ phi thường của người chiến sĩ. Hai câu thơ cuối thật đẹp đẽ. Đây không còn là công việc khổ sai mà trở thành trọng trách lớn lao “vá trời”. Ông tự nhận trách nhiệm to lớn, cứu nước cứu dân, bởi vậy những gian nan vất vả này chỉ là thử thách nhỏ bé, tầm thường không đáng quan tâm. Câu thơ đã hoàn chỉnh bức tranh chân dung tinh thần của người chiến sĩ. Bài thơ kết hợp hài hòa giữa giọng điệu hào hùng và bút pháp lãng mạn, người chí sĩ cách mạng được xây dựng bằng bút pháp khoa trương, phóng đại và thủ pháp đối lập. Thể thơ thất ngôn bát cú phù hợp với nội dung tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của bài.

Tác phẩm đã cho thấy ý chí kiên trung, nghị lực phi thường của người chí sĩ cách mạng trong hoàn cảnh khổ sai, tù đày vẫn vững lòng với sự nghiệp cứu nước của mình. Bài thơ còn có ý nghĩa nêu gương và động viên to lớn đối với thế hệ cách mạng sau này.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 18

 Phan Châu Trinh (1872-1926) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Ông còn để lại nhiều thơ văn thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.

     Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:

"Làm trai đứng giữa đất cỏn Lỏn,

Lừng lẫy làm cho lở núi non.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,

Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.

Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

Gian nan chi kể việc con con".

     Nhan đề bài thơ là "Đập đá ở Côn Lôn”, nói về cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo với cái án khổ sai chung thân.

     Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc "đứng giữa đất Côn Lôn", bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vẫn "lừng lẫy làm cho lở núi non". Hai từ "đứng giữa" biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ "làm cho lở núi non" thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.

     Các vị ngữ: "đánh tan" và "đập bể" vừa tả thực sức mạnh đập đá "năm bảy đống" và "mấy trăm hòn", đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:

"Xách búa đánh tan năm bảy đống,

 Ra tay đập bể mấy trăm hòn"

     Hai câu 5, 6 đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (thúng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng) lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. "Thân sành sỏi" và "dạ sắt son" là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên một cách hàm súc và hình tượng phấm chất cách mạng của nhà thơ:

"Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,

 Mưa nắng chi sờn dạ sắt son"

     Các từ ngữ: "bao quản" và "chi sờn" biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức với bạo lực quân thù. Tinh thần ấy, ta bắt gặp nhiều trong "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh hơn 30 năm sau:

"Kiên trì và nhẫn nại,

 Không chịu lùi một phân;

Vật chất tuy đau khổ,

Không nao núng ti-nh thần"

(Bốn tháng rồi)

     Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đổ đại sự (vá trời) mà khổng thành (lỡ bước). Đó là những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, coi chuyện tù đày, gian nan chỉ là "việc con con" không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại, rất ngạo nghễ của nhà chiến sĩ:

"Những kẻ vá trời khi lỡ bước,

 Gian nan chi kể việc con con."

     "Đập đá ở Côn Lôn" tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng.

     Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để dãi bày cái tâm, để nói lên cái chí. Sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" này. Cái tâm, cái chí của nhà cách mạng tiền bối Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 19

Phan Châu Trinh, nhà cách mạng kiệt xuất, đã để lại bài thơ Đập đá ở Côn Lôn trong giai đoạn bị đày đọa tại đảo Côn Lôn. Thơ mang đậm tinh thần chiến đấu, là biểu tượng cho khí phách quật cường và lòng dũng sĩ thần thoại của ông.

Nhà tù Côn Đảo, một địa ngục trần gian, nơi những người yêu nước bị thực dân đày đọa. Trong khó khăn đó, việc đập đá trở thành thách thức khổ sai. Tuy nhiên, giữa bất công và gian khổ, Phan Châu Trinh, người tù vĩ đại, đã xây dựng nên một tượng đài bằng những câu thơ, thể hiện vẻ đẹp hùng vĩ và tinh thần cứng cỏi. Những dòng thơ đầu tiên mô tả cảnh đập đá, đồng thời gợi lên hình ảnh anh hùng đứng giữa đất Côn Lôn.

Câu mở đầu táo bạo khám phá không gian, với tư thế kiêu hãnh của 'làm trai' đối mặt với trời, đạp đất kiêu hùng. Dân gian có câu 'Làm trai cho đáng nên trai', Phan Chu Trinh nâng niu tinh thần làm trai trong bối cảnh đặc biệt: '... đứng giữa đất Côn Lôn', vững vàng như là chủ nhân giang sơn. Hình ảnh khai thác đá trở nên biểu tượng cho sức mạnh vươn lên vượt bậc, những hành động mạnh mẽ như 'xách búa', 'ra tay', 'lừng lẫy' tạo nên bức tranh anh hùng dời non lấp bể. Những từ ngữ mạnh mẽ như 'đánh tan năm bảy đống', 'đập bể mấy trăm hòn' càng làm nổi bật vẻ ngạo nghễ, tầm vóc lớn lao trong không gian biển trời.

Những bài phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ấn tượng

Bốn câu cuối thể hiện trực tiếp cảm xúc và tư duy của người anh hùng:

Tháng ngày bao quản thông sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chỉ kể việc con con!

'Thân sành sỏi', 'dạ sắt son' sẽ vững vàng qua thời gian, cùng 'tháng ngày', mưa nắng'. Tính đối lập ở câu 5-6 thể hiện lòng kiên trì, tinh thần mạnh mẽ dù trong mọi khó khăn. Tấm lòng thủy chung, dạ sắt son 'mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen' như là sự kế thừa truyền thống anh hùng bất khuất của Việt Nam. Bối cảnh đầy gian nan khiến người chiến sĩ dám hy sinh vì giang sơn xã tắc, Phan Chu Trinh từ ngữ như nhà nho nhưng vẫn toát lên tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng. Cảm hứng lãng mạn hào hùng được thể hiện ở hai câu thơ cuối với hình ảnh thần thoại 'vá trời', làm nổi bật sức mạnh khác thường của người anh hùng. Đối lập giữa 'vá trời' và thực tế khó khăn chỉ là 'việc con con' nhưng là kết quả của ý chí quật cường, niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa.

Đập đá ở Côn Lôn và Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là những tác phẩm xuất sắc đại diện cho lòng yêu nước, anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Điều này thể hiện rõ trong văn học kháng chiến chống Mỹ, chống Pháp.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 20

Những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, tên tuổi Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước. Hình ảnh Phan Tây Hồ, nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, khảng khái sông núi trong tâm tưởng của nhân dân Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn ta càng hiểu thêm phẩm chất cách mạng của Cụ:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dụ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!

Năm 1908, Phan Châu Trinh bị bắt và đày đi Côn Lôn, 'địa ngục trần gian' nơi giam cầm và đoạ đày những người yêu nước. Địa danh Côn Lôn gợi lên sự chết chóc, rùng rợn. Giữa biển cả mênh mông, đây là nơi đã man những con người ưu tú của dân tộc. Bị đày đến địa ngục, Phan tự xác định:

Đứng giữa đất Côn Lôn

Tư thế 'đứng' của nhà chí sĩ cách mạng không chỉ là biểu hiện của sự ngang tàng và bất khuất mà còn là sự chủ động tự tin. Trước cảnh ngục tù tàn bạo của kẻ thù, dáng đứng của Phan trở nên vững vàng như một tượng đài hiên ngang. Ông không còn là người tù bị đày nữa mà là biểu tượng của tự do. Chí 'làm trai' của người quân tử hiện lên rõ nét và kiêu hãnh.

Bài văn Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn được tuyển chọn

Thách thức rất lớn khi người tù hàng ngày phải đối mặt với công việc đập đá khổ sai. Đối với Phan, một nhà nho chân yếu tay mềm, công việc nặng nhọc này là thử thách. Mặc dù bị cảnh đối với thể xác, tinh thần ông vẫn giữ vững:

Làm cho lở núi non lung linh ánh sáng.

Không chỉ là câu chuyện về người tù đập đá, đây là biểu tượng của chí khí hùng tráng, quyết tâm xoay chuyển thời cuộc và đất nước.

Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mây trăm hòn.

'Xách búa', 'ra tay' thể hiện tư thế chủ động; 'đánh tan', 'đập bể' động từ chỉ hành động dứt khoát, mạnh mẽ, khoẻ mạnh. Nhà chí sĩ đang hình dung như đẩy mạnh mọi nỗ lực và lòng căm thù vào cánh tay để 'đập bể', 'đánh tan' cái dinh luỹ của chế độ thực dân phong kiến thối nát.

Ba năm dài đằng đẵng, Phan gắn bó với cuộc sống tù tội, chịu đựng hàng loạt đoạ đày, nhưng thời gian (tháng ngày) và gian nan (mưa nắng) cũng là bài kiểm tra để làm cho tâm hồn của người cách mạng trở nên mạnh mẽ.

Tháng ngày bảo quản thân sành sỏi,
Mưa nắng làm cho linh hồn sắt son.

'Lửa thử vàng, gian nan thử sức', nhà tù của đế quốc trở thành trường quay để tôi trải qua những thách thức rèn luyện. Phan Bội Châu trong nhà ngục Quảng Đông vẫn giữ vững hào kiệt, Hồ Chí Minh trong nhà tù Tưởng Giới Thạch vẫn tự mình động viên:

Nghĩ về mình trong những bước đi đầy gian truân,
Tai ương là cơ hội rèn luyện tinh thần, thêm sức mạnh.

Những thách thức gay go của lao lực đã làm cho Phan Châu Trinh trở nên mạnh mẽ, kiên cường, và tâm hồn ông càng sáng lạn như 'sắt son' với niềm tin mạnh mẽ trong sứ mệnh cứu dấn và cứu nước.

Bài thơ kết thúc bằng một tuyên bố mạnh mẽ, đầy tự tin:

Những người 'vá trời' khi gặp trục trặc,
Gian nan chỉ là câu chuyện con con!

Phan tự so sánh chính mình với những người 'vá trời', người làm nên công trình lớn lao, mơ ước về sứ mệnh cứu nước. Anh hùng, mặc dù có tâm hồn lớn, tin vào khả năng và quyết tâm của bản thân, nhưng đôi khi lại trượt chân! Sự 'trượt chân' trên con đường đầy thách thức là điều không tránh khỏi, điều mà ông chấp nhận như là một phần không thể tránh khỏi trong cuộc chiến đấu đầy hiểm nguy. Thậm chí, khi nói về tù đày và sự chết chóc, lời thơ vẫn nhẹ nhàng, tự nhiên:

Khó khăn chỉ là câu chuyện con con!

Phan Châu Trinh coi đó chỉ là một trở ngại nhỏ, thái độ bản lĩnh và thanh thản của nhà cách mạng là điều rất thú vị, và tại đây, chúng ta có cơ hội nhìn thấy sự đồng điệu đặc biệt giữa hai anh hùng mang họ Phan:

Thân thể vẫn còn, sứ mệnh vẫn tiếp tục,
Mọi nguy hiểm đều trở nên vô nghĩa.
(Cảm tác khi vào tù Quảng Đông - Phan Bội Châu)

Kẻ thù có thể sử dụng bạo lực và đau đớn để áp đặt ý chí, nhưng họ đã đánh giá sai, sức mạnh tinh thần của những người yêu nước vô song.

Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn phản ánh giọng điệu hùng tráng, hân hoan của con người khinh thường khó khăn, coi thường đối thủ. Đây là tư thế của những chiến thắng, người 'đứng trên đầu thù'. Phan Châu Trinh, nhà yêu nước lớn lao, chiến sĩ bất khuất, đã ghi dấu trong trang sử dân tộc.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 21

Phan Châu Trinh (1872-1926) - anh hùng cách mạng của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Ông để lại những tác phẩm văn xuôi và thơ ca đậm chất dân chủ, tình yêu nước. Bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' thể hiện tư thế mạnh mẽ, bất khuất của chiến sĩ cách mạng bị giam cầm.

Bài thơ sử dụng thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính triết học sâu sắc:

'Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con'.

Bài thơ mang tựa đề 'Đập đá ở Côn Lôn' mô tả khung cảnh lao động gian khổ của nhà thơ và những chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp giam giữ tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau cuộc đối đầu với chính quyền thuế ở Trung Kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giữ và đày ra Côn Đảo với án tù khổ sai chung thân.

1. Bốn câu đầu không chỉ miêu tả cảnh đập đá mà còn thể hiện tâm trạng, ý chí. Tinh thần nam nhi, tinh thần làm trai hiện rõ khi đối mặt với thách thức 'đứng giữa đất Côn Lôn', bị giam cầm không khiến họ nao núng, ngược lại, họ tỏ ra 'lừng lẫy làm cho lở núi non'. Câu thứ hai, đặc biệt là 'làm cho lở núi non', thể hiện chí khí mạnh mẽ đối diện với khó khăn, thử thách của kẻ địch.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh

Các ngữ từ như 'đánh tan' và 'đập bể' không chỉ phản ánh sức mạnh đập đá 'năm bảy đống' và 'mấy trăm hòn', mà còn thể hiện quyết tâm và ý chí phá vỡ ngục tù, lật đổ ách thống trị của thực dân tàn ác. Cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật như phép đối, số từ, hàm súc, và đa nghĩa làm nổi bật giá trị nghệ thuật trong bài thơ:

'Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn'

2. Câu 5 và 6 tương quan mạnh mẽ, sử dụng thời gian bị giam giữ (thúng ngày) so sánh với khó khăn thử thách (mưa nắng); thân thể chắc nịch và kiên cường (thân sành sỏi) so với tinh thần mạnh mẽ và bền bỉ (dạ sắt son). Hình ảnh 'thân sành sỏi' và 'dạ sắt son' là biểu tượng cho phẩm chất cách mạng của nhà thơ:

'Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son'

Những từ như 'bao quản' và 'chi sờn' đại diện cho tinh thần sẵn sàng đối mặt và thách thức bạo lực của kẻ thù. Tinh thần này xuất hiện rõ trong 'Nhật kí trong tù' của Hồ Chí Minh hơn 30 năm sau:

'Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân;
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng ti-nh thần'
(Bốn tháng rồi)

3. Hai câu cuối thể hiện lòng dũng cảm phi thường của những người có chí lớn, có thể đối diện với mọi thử thách (vá trời) mà không bị khốn cùng (lỡ bước). Họ coi thường những khó khăn như 'việc con con' không đáng kể, không đáng chú ý. Câu cuối phát triển một phong cách ung dung tự tại, đầy kiêu hãnh của những chiến sĩ:

'Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con.'

'Đập đá ở Côn Lôn' là minh chứng cho sự sáng tạo trong thơ tù của các anh hùng cách mạng thế kỉ XX. Bài thơ phát triển giọng điệu đĩnh đạc, hùng vĩ.

Ngôn ngữ hàm súc, vừa giản dị vừa trang trọng. Thơ là ngôn ngữ của tâm hồn, là lời nói của chí tưởng. Sẵn sàng hi sinh vì quê hương, sắt son tận tụy với dân tộc, không khuất phục trước tình thế tù đày, đó là tâm hồn, chí tưởng của Phan Châu Trinh trong bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn'. Tâm tư, lý tưởng của nhà cách mạng lớn Phan Châu Trinh là bài học quý báu cho chúng ta ngưỡng mộ và theo đuổi.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 22

Nhan đề bài thơ đề cập đến hình ảnh lao động khổ sai của tác giả và những chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp giam giữ và đày đọa tại Côn Đảo. Sau sự kiện chống thuế ở Trung Kì, năm 1908, Phan Châu Trinh và đồng đội bị thực dân Pháp bắt giữ và đày ra Côn Đảo với án chung thân khổ sai.

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lấp lánh làm cho núi non hiên ngang. Nâng búa đánh vụt năm bảy đống, Tay đầy quyết tâm, đập bể hàng trăm hòn.

Bốn câu thơ đầu không chỉ tả thực cảnh đập đá, mà còn biểu lộ tâm thế, ý chí kiên cường. Chí nam nhi, chí làm trai đối diện với đất Côn Lôn, bị tù đày nhưng không phải là điều thấp hèn, mà là lấp lánh, không những thế còn khiến cho núi non trở nên rạng rỡ.

Tư thế 'đứng giữa' là biểu hiện của sự kiêu hãnh, bất khuất trước thách thức của quân thù. Câu thứ hai thể hiện sức mạnh tinh thần trước những ngày đau đớn trong tù. Các động từ như đánh tan, đập bể vừa tả sức mạnh vật chất, vừa thể hiện quyết tâm, ý chí phá bỏ mọi gò bó. Câu thứ ba và thứ tư tạo nên sức mạnh, số liệu làm tăng vẻ hùng mạnh cho bài thơ:

Nâng búa đánh vụt năm bảy đống, Tay đầy quyết tâm, đập bể hàng trăm hòn.

Đánh giá bài thơ Đập đá ở Côn Lôn

Câu thứ năm và sáu tương đồng, tác giả sử dụng thời gian bị giam giữ (tháng ngày) kết hợp với những thử thách của cuộc sống (mưa nắng) để tạo ra hình ảnh vững vàng (thân sành sỏi) đối với tinh thần mạnh mẽ (dạ sắt son). Thân sành sỏi và dạ sắt son là những biểu tượng cho phẩm chất cao quý của tác giả:

Vững như thân sành sỏi,
Chắc bền như dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!

Tác giả với sự chấp nhận bền bỉ như thân sành sỏi và tinh thần kiên cường như dạ sắt son, coi cuộc sống là những thử thách nhỏ bé và không ngần ngại khi phải đối mặt với khó khăn.

Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn – mẫu 23

Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh thực sự là một tượng đài tôn vinh tinh thần anh hùng, ý chí mạnh mẽ và lòng yêu nước sâu sắc trong bối cảnh khắc nghiệt của nhà tù Côn Đảo. Bài thơ này không chỉ kể về sự bất khuất của những người tù cách mạng mà còn tạo ra một biểu tượng cho tất cả những ai đang đấu tranh vì tự do, quyền lý và tình yêu đối với quê hương. Chủ đề của bài thơ xoay quanh việc làm trai trong bóng tối của nhà tù Côn Lôn, nơi có hàng loạt anh hùng cách mạng đang chịu đựng sự giam giữ và tra tấn dã man. Phan Châu Trinh mở đầu bài thơ bằng hai câu thơ mạnh mẽ:

"Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn

Lừng lẫy làm cho lở núi non"

Những dòng này thể hiện lòng dũng cảm và kiên định của người tù cách mạng, họ không chấp nhận bị bóp nghẹt bởi tình thế khó khăn. Thay vào đó, họ đứng cao đầu, tự hào về sự đoàn kết và tinh thần chiến đấu. Bài thơ tiếp tục miêu tả cuộc đấu tranh tại nhà tù Côn Đảo, nơi những người tù đối diện với những thử thách tàn khốc. Tuy nhiên, họ không bao giờ đánh mất tinh thần, vẫn giữ lửa đam mê và tình yêu đối với quê hương:

"Tháng ngày bao quản thân sành sỏi

Mưa nắng càng bền dạ sắt son"

Những câu thơ này thể hiện tinh thần kiên trì và bất khuất của những người tù cách mạng. Dù bị giam cầm và tra tấn, họ vẫn giữ vững niềm tin vào lý tưởng và mục tiêu của họ. Cuối cùng, bài thơ kết thúc với một thông điệp mạnh mẽ về lòng quyết tâm và tầm vóc của những người tù:

"Những kẻ vá trời khi lỡ bước

Gian nan chi kể việc con con"

Những người tù cách mạng xem những khó khăn và khổ sai như những thử thách cần vượt qua trong cuộc đấu tranh lớn hơn cho quyền tự do và quyền dân tộc. Họ không ngừng đấu tranh và làm việc "con con" để bảo vệ lý tưởng và tình yêu đối với quê hương. Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh là một tác phẩm vĩ đại tôn vinh tinh thần anh hùng và lòng yêu nước trong bối cảnh khó khăn. Nó thể hiện tư duy chiến đấu và kiên nhẫn của những người tù cách mạng và là một nguồn cảm hứng cho mọi người về ý chí và quyết tâm trong cuộc đời. Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh thể hiện một sự thấu hiểu và tôn vinh tinh thần anh hùng của những người tù cách mạng trong môi trường đầy khó khăn và gian khổ. Hành động đập đá, mặc dù có vẻ bình thường và hàng ngày, được tác giả tái diễn một cách rất chân thực, tạo nên một hình ảnh đầy sức mạnh và ý nghĩa sâu sắc.

Dòng thơ "Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn" thể hiện sự mạnh mẽ, quyết tâm và kiên định của những người tù. Động từ "đánh tan" và "đập bể" tạo ra một cảm giác về sự xác định và định hướng, họ không chỉ đập đá mà còn đập tan nỗi khó khăn và khổ cực. Số lượng "năm bảy đống" và "mấy trăm hòn" được phóng đại để thể hiện sức mạnh phi thường của họ, làm cho công việc khó khăn trở nên bá đạo và ấn tượng.

Tác giả cũng truyền đạt cái tính cách mạnh mẽ và kiên định của những người tù thông qua những câu thơ về thời tiết khắc nghiệt tại Côn Đảo. "Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng càng bền dạ sắt son" cho thấy họ không ngừng đối mặt với những khó khăn và tra tấn dã man. Tuy nhiên, họ không bao giờ đánh mất tinh thần và sức mạnh tinh thần. Mưa nắng chỉ khiến cho họ trở nên "bền dạ sắt son," thể hiện sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm vượt qua mọi thách thức. Bài thơ "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh kết thúc bằng một hình ảnh hùng hồn và kiên cường hơn nữa, tạo ra một cú kết mạnh mẽ và sâu sắc về tinh thần của những người tù cách mạng tại nhà tù Côn Đảo:

"Gian nan chi kể việc con con"

Những dòng này là một lời tuyên bố mạnh mẽ về sự quyết tâm và tinh thần kiên nhẫn của những người tù cách mạng. Họ tự nhận mình như những "kẻ vá trời," người sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn và khổ sai để bảo vệ lý tưởng của họ. Dù bị giam cầm và gặp nhiều khó khăn, họ vẫn không chấp nhận bị đánh bại và vẫn đặt mục tiêu cao cả. Hình ảnh "vá trời" mang ý nghĩa biểu tượng cho việc làm những công việc phi thường và khó khăn. Bài thơ nhấn mạnh rằng việc đấu tranh cho tự do và quyền lý không bao giờ dừng lại, và những khó khăn trước mắt chỉ là những "việc con con" trong cuộc đấu tranh lớn hơn.

Tác giả Phan Châu Trinh sử dụng ngòi bút phóng khoáng và giọng điệu thơ hùng hào để khắc họa thành công hình ảnh những người chiến sỹ cách mạng, những người không chịu sự khủng bố của tù đày, những người vẫn luôn hiên ngang, và ý chí của họ vẫn luôn quật cường. Đó là hình tượng của những người chiến sỹ cách mạng đang giữ vững lý tưởng của họ và chiến đấu để bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược ngoại xâm. Tóm lại, bài thơ này tôn vinh tinh thần anh hùng và ý chí kiên cường của những người tù cách mạng và thể hiện thông điệp về quyết tâm và lòng yêu nước trong cuộc đấu tranh cho tự do và quyền lý.

Tài liệu có 12 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống