Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Lý thuyết Lịch sử 11: Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914) mới nhất, tài liệu bao gồm 7 trang, tóm tắt toàn bộ kiến thức lý thuyết cần nhớ trong sách giáo khoa Lịch sử lớp 11, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Lịch sử sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
LỊCH SỬ LỚP 11
BÀI 23. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM TỪ ĐẦU
THẾ KỈ XX ĐẾN CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT (1914)
Các sách Tân thư, Tân báo do Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu viết được đưa vào Việt
Nam đã cổ vũ các sĩ phu tiên tiến hướng theo lý tưởng cuộc vận động Duy tân của Trung
Quốc, cuộc Duy tân Minh Trị, vào con đường cách mạng tư sản. Đầu thế kỷ XX, một
phong trào yêu nước mới ở nước ta nảy sinh theo khuynh hướng dân chủ tư sản, tiêu
biểu là Phan Bội Châu – người lãnh đạo xu hướng bạo động.
I. PHAN BỘI CHÂU VÀ XU HƯỚNG BẠO ĐỘNG
* Chủ trương: “nợ máu chỉ có thể trả bằng máu”, ông kiên trì dùng bạo lực giành độc lập.
Nguyên nhân: Phan Bội Châu cho rằng Nhật bản cùng màu da, cùng văn hoá Hán học
(đồng chủng, đồng văn), lại đi theo con đường tư bản châu Âu, giàu mạnh lên và đánh
thắng đế quốc Nga (1905)
* Hoạt động:
Tháng 05/1904, lập Duy tân hội ở Quảng Nam
o Mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, thành lập chính thể quân
chủ lập hiến.
o Hội tổ chức phong trào Đông du, đưa gần 200 học sinh sang Nhật học.
o Tháng 09/1908, Nhật bắt tay với Pháp trục xuất tất cả lưu học sinh Việt
Nam và Phan Bội Châu. Phong trào tan rã.
Nguyên nhân thất bại: do các thế lực đế quốc (Nhật-Pháp) cấu kết với nhau để
trục xuất thanh niên yêu nước Việt Nam ở Nhật.
Tháng 6/1912, ông lập Việt Nam Quang phục hội:
o Tôn chỉ “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước
Cộng hòa Dân quốc Việt Nam”.
o Hội tổ chức ám sát những tên thực dân đầu sỏ, tấn công các đồn binh Pháp
ở Vân Nam… nhưng chỉ thu được những kết quả hạn chế trong khi lực
lượng hao tổn khá lớn.
24/12/1913 Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung Quốc bắt giam ở nhà tù
Quảng Đông.
Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt, rồi bị giam lỏng ở Huế cho đến khi qua đời.
* Bài học rút ra từ phong trào
* Chủ trương bạo động là đúng, những tư tưởng cầu viện là sai (không thể dựa đế quốc
đánh đế quốc được).
* Cần xây dựng thực lực trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế chân
chính.
Phan Bội Châu (ngồi), Cường Để (đứng)
Một số lưu học sinh trong phong trào Đông Du (1905-1909)
II. PHAN CHÂU TRINH VÀ XU HƯỚNG CẢI CÁCH
* Chủ trương: đấu tranh ôn hòa, bằng những biện pháp cải cách như nâng cao dân trí
dân quyền , dựa vào Pháp để đánh đổ vua quan phong kiến hủ bại, xem đó là điều kiện
tiên quyết để giành độc lập.
* Hoạt động:
Năm 1906, ông cùng một nhóm sĩ phu đất Quảng như Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quý Cáp, Ngô Đúc Kế mở cuộc vận động Duy tân ở Trung kỳ:
o Kinh tế: chú ý cổ động thực nghiệp, lập hội kinh doanh, phát triển nghề thủ
công, làm vườn, lập “nông hội”…
o Giáo dục: mở trường dạy theo kiểu mới để nâng cao dân trí, dạy chữ Quốc
ngữ, các môn học mới …
o Văn hóa: vận động cải cách trang phục và lối sống: cắt tóc ngắn, ăn mặc
“Âu hóa”, bài trừ mê tín dị đoan và các hủ tục phong kiến….
Năm 1908, sau phong trào chống thuế ở Trung kì, Pháp đàn áp dữ dội: Năm 1908,
Phan Châu Trinh bị án tù 3 năm ở Côn Đảo.
Năm 1911 Chính quyền thực dân đưa Ông sang Pháp
Ông là nhà cách mạng tiêu biểu cho khuynh hướng cải cách ở Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Nguyên nhân dẫn tới phong trào chống thuế ở Trung Kì năm 1908.
Do chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, nông dân vô cùng khốn khổ về
các thứ thuế.
Ảnh hưởng của cuộc vận động Duy Tân
Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Phong trào thất bại. Phan Châu Trinh và Trần
Quí Cáp bị kết án tử hình.
III. ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC, VỤ ĐẦU ĐỘC BINH SĨ PHÁP Ở HÀ NỘI VÀ
NHỮNG HOẠT ĐỘNG CUỐI CÙNG CỦA KHỞI NGHĨA YÊN THẾ.
1. Đông Kinh nghĩa thục: Đông Kinh là tên gọi cũ của Hà Nội; nghĩa thục là là
trường tư làm việc công ích.
Lãnh đạo: Lương Văn Can và Nguyễn Quyền
Thành lập và hoạt động từ tháng 03/1907, là trường học dạy theo mô hình Nhật
Bản, dạy địa lý, lịch sử, khoa học thường thức…, ngoài ra còn tổ chức diễn
thuyết, bình văn để cổ động học chữ Quốc ngữ, hô hào mở hội kinh doanh công
thương nghiệp …
Những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục đã vươn ra ngoài xã hội, trở thành
một trung tâm của phong trào Duy tân ở Bắc kì.
Tháng 11/1907, trường bị đóng cửa, hầu hết giáo viên bị bắt, sách báo bị cấm
hoặc tịch thu…
Dù chỉ hoạt động được 9 tháng, nhưng Đông Kinh nghĩa thục thực sự là một cuộc
vận động văn hóa lớn.
o Là một tổ chức cách mạng có phân công , phân nhiệm, mục đích rõ ràng, có
cơ sở ở các địa phương.
o Chống nền giáo dục cũ với những giáo điều của Hán Nho mà thực dân Pháp
muốn lợi dụng để ngư dân.
o Cổ vũ cái mới: học chữ Quốc ngữ, các môn khoa học thực dụng, hô hào lập
hội buôn, phát triển công thương nghiệp. Lên án phong tục tập quán lạc hậu.
o Tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
* Đánh giá: Thực chất của các hoạt động này là sự chuẩn bị chống Pháp, trước hết là
thông qua việc dạy chữ dạy người, tuyên truyền tư tưởng dân chủ tư sản, đả phá nền
giáo dục lỗi thời, cổ vũ cái mới.
Biểu tựơng sách của ĐKNT
2. Vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội năm 1908.
Ngày 27/6/1908, tổ chức đầu độc lính pháp tại Hà Nội, thực dân Pháp cho tước
khí giới và giam binh lính người Việt trong trại.
Đánh dấu cuộc nổi dậy đầu tiên của binh lính người Việt trong quân đội Pháp,
chứng tỏ họ là một lực lượng cần được tập hợp trong cuộc đấu tranh chống đế quốc.
Những người bị bắt trong vụ án Hà thành đầu độc
Mô tả hình:
“Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Dương
Bê) cầm đầu vụ Hà thành đầu độc, bị hành quyết ngày 8/7/1908 và người Pháp đã bêu
đầu các ông ở Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy và Chợ Mơ”.
Bức ảnh ám ảnh nhất là ảnh chụp ba đầu đặt trong ba cái rọ tre đan loằng ngoằng quặn
thớ. Quặn đau tê tái! Thủ cấp được bêu trên vài “cửa ô”, tuyến phố đông đúc nhất của
Hà Nội lúc bấy giờ.
Hai thủ cấp nhắm mắt, đầy máu me, một thủ cấp mở mắt, thanh thản, không hề vương
sợ hãi. Dưới mỗi cái rọ bêu đầu là những tấm giấy bản chi chít chữ Nho, chắc là giặc nó
kể tội người yêu nước Việt Nam rằng họ dám “làm loạn”...
3. Những hoạt động cuối cùng của nghĩa quân Yên Thế
Năm 1908, xảy ra vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội của binh lính Việt và nghĩa
quân Yên Thế. Kế hoạch bị bại lộ và thất bại.
Tháng 01/1909, Pháp huy động 1500 lính Âu – Phi tấn công Phồn Xương. Dù
giành được một số thắng lợi, nhưng những cuộc chiến đấu quyết liệt và kéo dài đã
làm suy kiệt lực lượng nghĩa quân, nhiều chỉ huy giỏi tử trận, một số ra hàng.
Tháng 02/1913, Pháp mua chuộc tay sai, sát hại Đề Thám một cách đê hèn tại
Chợ Gồ (Yên Thế).