Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kẻ thù chủ yếu của các nước Mĩ Latinh là
A. chủ nghĩa thực dân cũ
B. chế độ phân biệt chủng tộc
C. địa chủ phong kiến
D. chế độ tay sai, phản động của chủ nghĩa thực dân kiểu mới
Đáp án D
Từ đầu thế kỉ XIX, nhân dân Mĩ Latinh đã giành được độc lập từ tay thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nên không còn kẻ thù là chế độ thực dân cũ. Ở Mĩ Latinh, tình trạng phân biệt chủng tộc không nổi cộm như châu Phi. Ngoài ra, Mĩ Latinh hầu như không trải qua chế độ phong kiến nên không tồn tại kẻ thù là địa chủ phong kiến. Ngay sau khi giành được độc lập từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, Mĩ Latinh lệ thuộc vào Mĩ, trở thành sân sau của Mĩ. Mĩ thực hiện chế độ thực dân kiểu mới ở đây, xây dựng nên các chính quyền độc tài thân Mĩ. Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kẻ thù chủ yếu của các nước Mĩ Latinh là chế độ tay sai, phản động của chủ nghĩa thực dân kiểu mới
Ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói" được Đảng ta đề ra trong
Giai đoạn khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945) của cách mạng nước ta còn được gọi là
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một tâm điểm của sự đối đầu ở châu Âu giữa hai cực Liên Xô và Mĩ là
Quan hệ giữa ASEAN với 3 nước Đông Dương trong giai đoạn từ năm 1967 đến năm 1979 là
Ý nào dưới đây không phải nguyên nhân vào năm 1968, ta chủ trương mở một cuộc "tổng công kích, tổng khởi nghĩa " trên toàn miền Nam?
Hai miền Nam Bắc Triều Tiên được phân đôi bởi vĩ tuyến bao nhiêu?
Thất bại trong chiến lược chiến tranh nào đã buộc Mĩ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Hội nghị Pari?
Yếu tố nào là quan trọng nhất khiến Chiến tranh cục bộ ác liệt hơn so với Chiến tranh đặc biệt?
Nguyên nhân chủ yếu nào dẫn đến sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu?
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân đội các nước Đồng minh nào đã có mặt trên lãnh thổ nước ta?
Ý nào không phải là tác dụng của việc ta ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 với Pháp?