Tài liệu tác giả tác phẩm Sóng Ngữ văn lớp 11 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Sóng lớp 11.
Tác giả tác phẩm: Sóng - Ngữ văn 11
I. Tác giả Xuân Quỳnh
- Tên: Xuân Quỳnh (1942-1988).
- Quê quán: Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.
- Quá trình hoạt động văn học, kháng chiến.
+ Xuân Quỳnh xuất thân trong một gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, Xuân Quỳnh ở với bà nội.
+ Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa của Đoàn văn công nhân dân Trung ương, là biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III.
+ Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
+ Năm 2007, Xuân Quỳnh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: Tơ tằm – Chồi biếc (in chung), Hoa dọc chiến hào, Gió Lào cát trắng, Lời ru trên mặt đất, Tự hát, Hoa cỏ may, Bầu trời trong quả trứng, truyện thơ Truyện Lưu Nguyễn.
- Phong cách nghệ thuật: Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằn thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ.
II. Tìm hiểu tác phẩm Sóng
1. Thể loại
Sóng thuộc thể loại thơ năm chữ
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tê ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.
- Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản Sóng có phương thức biểu đạt là biểu cảm.
4. Ý nghĩa nhan đề
“Sóng” là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của nhân vật trữ tình. - “Sóng” và “em” là “em” và “sóng”. Hai hình tượng tuy hai mà một, có lúc tách đôi ra để soi chiếu cho nhau, có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo ra sự cộng hưởng.
5. Tóm tắt Sóng
Khổ 1 và 2 là bản chất của “sóng” và “em”, đều có sự đối lập lúc dữ dội lúc dịu êm, đó là trạng thái cảm xúc thất thường của người con gái khi yêu. Khổ 3 và 4 là những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ đâu. Khổ 5 và 6 là nỗi nhớ và lòng thủy chung của người con gái khi yêu. Dù là “Dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” dù thức hay ngủ thì vẫn hướng về người mình yêu. Khổ 7,8 và 9 là khát vọng tình yêu vĩnh cửu, là khát khao mãnh liệt và chính đáng của người phụ nữ mong muốn được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu” và khát khao hòa nhập tình yêu trong tình yêu chung bao la.
6. Bố cục bài Sóng
Sóng có bố cục gồm 4 phần:
- Phần 1 (2 khổ thơ đầu): Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng.
- Phần 2 (2 khổ tiếp theo): Suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu.
- Phần 3 (3 khổ thơ tiếp theo): Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái trong tình yêu.
- Phần 4 (còn lại): Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt.
7. Giá trị nội dung
- Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình tượng sóng với tất cả những sắc thái, cung bậc (nỗi nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm hồn phụ nữ luôn chân thành, khát khao hạnh phúc.
8. Giá trị nghệ thuật
- Hình tượng sóng đôi giúp nhà thơ diễn tả những cảm xúc khó nói trong tình yêu.
- Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt phù hợp trong việc diễn tả các cung bậc, sắc thái cảm xúc khác nhau.
- Ngôn ngữ gần gũi, trong sáng, dung dị, tinh tế.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Sóng
1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng
- Thủ pháp đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ.
→ Các cung bậc, sắc thái khác nhau của sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái đối cực phức tạp, đầy nghịch lí của người phụ nữu khi yêu.
- Hình ảnh ẩn sụ, nhân hóa “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”: khát vọng vươn xa, thoát khỏi những gì chật chội, nhỏ hẹp, tầm thường.
→ Quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa.
- Phép so sánh, liên tưởng “Ôi con sóng ngày xưa ... Bồi hồi trong ngực trẻ”: Lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng, mãnh liệt luôn luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ.
2. Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu
- Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu.
- Câu trả lời “Em cũng không biết nữa”: Lời tự thú chân thành của người phụ nữ, đầy hồn nhiên, nữ tính. Tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải.
3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu
- Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu.
+ Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu... trên mặt nước...”, “ngày đêm không ngủ được”.
→ Nỗi nhớ da diết, sâu đậm.
+ Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”.
→ Cách nói cường điệu nhưng hết sức hợp nhằm tô đậm nỗi nhớ mãnh liệt của tác giả
+ Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình.
- Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:
+ “Em”: phương Bắc phương Nam – “Hướng về anh một phương”.
→ Lời thể thủy chung son sắt tuyệt đối.
+ “sóng”: ngoài đại dương → “Con nào chẳng tới bờ”.
→ quy luật tất yếu.
+ Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc.
⇒ Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn vững tin ở tình yêu.
4. Khát vọng về tình yêu vĩnh cửu, bất diệt
- Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế ... Mây vẫn bay về xa”.
- “Làm sao” gợi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.
- Khát khao của nguời phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống trong “biển lớn tình yêu” với tình yêu trường cửu, bất diệt với thời gian.
IV. Đọc tác phẩm: Sóng
Sóng
Xuân Quỳnh
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngục trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
May vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Biển Diêm Điền, 29 – 12 – 1967
(Hoa dọc chiến hào, NXB Văn học, Hà Nội, 1968)
V. Văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Tình yêu là một đề tài quen thuộc của thi ca nhân loại. Mỗi thi nhân khi cầm bút, có lẽ không thể không viết những vần thơ tình đằm thắm của riêng chính con tim mình. Ta đã từng biết đến những vần thơ tình của Puskin, Xuân Diệu thì không thể không đắm mình trước giọng thơ đầy nữ tính của Xuân Quỳnh với bài thơ “Sóng” một thi phẩm tình yêu rất đặc sắc của thơ ca Việt Nam.
Trong khổ một, hình tượng “Sóng” được diễn tả bởi một loạt những từ ngữ tương phản, đối lập:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Đó là trạng thái thực của “sóng”- một hiện tượng tự nhiên phong phú, phức tạp, chứa đầy bí ẩn: khi biển lặng thì sóng êm đềm, dịu nhẹ; khi biển động thì sóng cuồn cuộn gầm gào. Nhưng quan hệ từ “và” được lặp lại giữa hai vế của hai câu thơ cho ta thấy những trạng thái đối ngược đó luôn tồn tại song hành, thống nhất, hòa hợp của hình tượng sóng.
Hai câu tiếp diễn tả tâm trạng của sóng luôn muốn từ sông tìm ra biển lớn:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận biển”
Dường như sóng tự cảm nhận được những trạng thái phức tạp, những biến động khác thường của mình nên luôn khao khát, chủ động từ bỏ không gian nhỏ hẹp, chật chội của dòng sông để tìm ra biển cả bao la. Và có lẽ chỉ khi nào được hòa mình trong biển lớn, những con sóng mới hiểu rõ mình hơn.
Những trạng thái đó của sóng cũng chính là ẩn dụ về những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp, đầy biến động của nhân vật trữ tình em. Người con gái khi yêu khi thì sôi nổi, nồng nàn, lúc suy tư trầm lắng. Và cũng giống như sóng, trái tim người con gái khi yêu không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp trong khoảng trời của cái tôi cá thể, luôn khao khát tìm đến một miền tình cảm lớn lao hơn, bao dung hơn đó chính là tình yêu. Đó cũng là một thái độ tích cực, thể hiện sự chủ động mạnh mẽ, dứt khoát trong cuộc hành trình dài rộng đi tìm tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Từ những trạng thái cụ thể của sóng và em trong khổ thơ đầu, đến khổ thơ thứ hai, Xuân Quỳnh đã đi tới một nhận xét mang tính khái quát, vừa giàu suy tư, vừa chan chứa cảm xúc về quy luật muôn đời, trước hết là của thiên nhiên:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế”
Ngày xưa là quá khứ, ngày sau là tương lai. Hai từ vẫn thế khẳng định sự lặp lại, sự vĩnh hằng của những con sóng của tự nhiên muôn đời từ sông tìm ra biển lớn. Và đó cũng chính là quy luật muôn thuở của con người, của trái tim tuổi trẻ.
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Tình yêu vốn là tình cảm thiêng liêng, cao đẹp nhất, là khao khát muôn đời của nhân loại “Có ai sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào”. Nhưng trong trái tim tuổi trẻ, tình yêu bao giờ cũng nồng nàn, thiết tha, cháy bỏng.
Suy ngẫm về quy luật muôn thuở của thiên nhiên, của trái tim tuổi trẻ đó cũng chính là cách để Xuân Quỳnh giãi bày những khao khát mãnh liệt của trái tim mình- một trái tim luôn cồn cào, da diết yêu thương. Điều đáng nói, đáng trân trọng hơn cả là niềm khao khát ấy đã được chị bộc bạch một cách chân thành, thẳng thắn, không e dè, giấu diếm.
Hai khổ thơ tiếp là những khao khát trong sóng và em với nhu cầu lí giải tình yêu.
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Sau khi tình yêu đến người ta thường có nhu cầu tìm tòi, lý giải và khám phá. Đó là một tâm lý tự nhiên và tất yếu. Bởi trái tim của con người với tình yêu bí ẩn và không dễ dàng nắm bắt. Sự khám phá đó không chỉ là một nhu cầu của tâm lý mà còn là hành trình tìm đến sự hòa hợp của hai tâm hồn. Đó là biểu hiện của một tình yêu đích thực và chân chính.
Ở khổ thơ này, nhân vật trữ tình em có điều kiện lên tiếng trực tiếp. Người con gái đang đối diện với đại dương bao la vô tận, trước biển lớn tình yêu. Điệp ngữ em nghĩ được lặp lại hai lần, gợi lên nhiều suy tư, trăn trở của em về sóng, về tình yêu đôi lứa.
Người con gái cất lên băn khoăn, những khao khát kiếm tìm của người con gái về cội nguồn của sóng cũng chính là cội nguồn của tình yêu lứa đôi. Nếu như:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?”
Câu câu hỏi đó vẫn còn để ngỏ. Tình yêu cũng vậy. Nó được bắt đầu từ khi nào, từ nơi đâu. Những câu hỏi đã từng làm tan chảy bao trái tim thi sĩ. Đố ai định nghĩa được tình yêu. Nhưng dường như vẫn chưa có câu trả lời nào thỏa đáng. Xuân Quỳnh cũng vậy. Khi chị đã thú nhận sự bất lực của lòng mình một cách chân thành, đầy ý nhị, duyên dáng và đáng yêu:
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Câu hỏi tình yêu trong trái tim em cũng giống như sóng biển luôn diệu kỳ và bí ẩn. Trái tim tình yêu cũng có những quy luật riêng của nó, nhiều khi không thể điều khiển tại bằng những lí trí thông thường. Nhưng chính điều đó càng chứng tỏ tình yêu trong tâm hồn người con gái rất đẹp và chân thành.
Sóng và em gắn với nỗi nhớ tình yêu thủy chung. Tình yêu được gắn liền với nỗi nhớ. Yêu thương sâu sắc bao nhiêu thì nỗi nhớ càng da diết mãnh liệt bấy nhiêu. Nhất là những người xa nhau thì nỗi nhớ càng nhân lên gấp bội phần. Và đến cả những vần thơ tài hoa trí tuệ của Chế Lan Viên trong văn học hiện đại:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”
Xuân Quỳnh cũng có cách giải bài nỗi nhớ tình yêu của riêng mình mà trước hết là qua hiện tượng sóng:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
Trạng thái của sóng được gợi lên qua bao nhiêu tầng bậc không gian. Con sóng dưới lòng sâu là con sóng âm thầm mãnh liệt. Con sóng trên mặt nước thì luôn sôi nổi ồn ào. Vì thế mà đại dương bao la vô tận không bao giờ bình lặng. Những con sóng luôn cồn cào, trăn trở trong lòng biển cả. Xuân Quỳnh đã phát hiện ra một lí do giản dị đến bất ngờ:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Chính vì nhớ bờ mà mà con sóng đã cồn cào trong mọi thời gian và không gian. Soi chiếu với nhân vật trữ tình em, Xuân Quỳnh đã bộc lộ nỗi nhớ với anh chân thành cảm động
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Cũng cồn cào da diết là nỗi nhớ bờ của sóng nhưng nỗi nhớ anh của em còn mãnh liệt, cháy bỏng hơn nhiều. Bởi sóng chỉ nhớ mà trong cõi thực còn em nhớ anh trong cả cõi mộng. Chứng tỏ hình ảnh của anh luôn khắc sâu trong tâm trí. Nỗi nhớ anh luôn trong cõi lòng cho nên nỗi nhớ ấy không chỉ diễn ra trong khi tỉnh mà còn theo vào trong cả giấc chiêm bao. Và phải chăng chỉ có con tim yêu hết mình, nồng nàn tha thiết thì nỗi nhớ mới ngự trị cả không gian thời gian, cả ý thức lẫn tiềm thức, cả cõi thực và cõi mơ.
Không chỉ giãi bày nỗi nhớ, nhân vật trữ tình em còn khẳng định tình yêu thủy chung, son sắt:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Các cụm từ phương bắc, phương nam cùng với cách kết hợp từ chỉ hướng xuôi, ngược trái với quy luật diễn tả thông thường là xuôi nam ngược bắc đã gợi ra một không gian rộng lớn chứa đầy khó khăn cách trở. Đó còn là ẩn dụ về cuộc đời nhiều phương, nhiều ngã rẽ với những dự cảm về bao điều bất trắc có thể xảy ra. Nhưng với quan hệ từ dẫu được lập lại ở đầu hai câu thơ đã nhấn mạnh về ý nghĩa đối lập. khó khăn trở ngại của cuộc đời dường như trở nên vô nghĩa bởi:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Đó là lời tự bạch chân thành trong tâm hồn người con gái: dù cuộc đời có nhiều phương, nhiều ngã, trở ngại khó khăn nhưng lòng em dù ở bất cứ nơi nào cũng chỉ hướng về một phương duy nhất đó là phương anh. Với lời thơ giản dị, ngôn ngữ mộc mạc, âm điệu thơ mạnh, dứt khoát, Xuân Quỳnh đã khẳng định sự thủy chung vượt lên mọi thử thách khó khăn, dẫu cho bất biến của con người trước vạn biến của đời người.
Khổ thơ 7 soi chiếu với người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh và càng thấy được sự tương đồng giữa sóng và em.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Muôn vàn con sóng ngoài đại dương mênh mông luôn vượt qua mọi cách trở của không gian biển cả để tìm đến được với bờ đó là hiện thực và cũng trở thành huyền thoại trong truyền thuyết về tình yêu. Cũng chính là địa phương của niềm tin. Nhân vật trữ tình em càng thêm vững tin vào tình yêu thủy chung của mình, luôn vượt qua mọi trở ngại để đến được bến bờ hạnh phúc.
Hai khổ thơ kết à sóng và em với ước nguyện về tình yêu vĩnh hằng bất tử:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Khao khát mãnh liệt trong tình yêu và hạnh phúc nhưng khi trở về với thực tại, người phụ nữ không thoát khỏi trăn trở, lo âu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua”
Xuân Quỳnh viết bài thơ này thì chị mới vừa tròn hai mươi lăm tuổi. Hạnh phúc và tương lai đang đón chờ ở phía trước. Nhưng là một tâm hồn yêu đời, khao khát tình yêu, chị rất nhạy cảm với thời gian. Cuộc đời con người dài thật nhưng đặt trong dòng chảy vô tận của thời gian thì quả là ngắn ngủi. Và trước không gian vũ trụ bao la vô cùng thì kiếp người trở nên nhỏ bé:
“Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhiều suy tư với sự đổ vỡ của tình yêu đã khiến Xuân Quỳnh luôn lo âu về sự hữu hạn của đời người trước sự vô hạn của thời gian và không gian. Cuộc sống con người không thể tồn tại mãi mãi. Cả anh và em lúc nào đó rồi cũng phải ra đi. Tình yêu hạnh phúc vì thế mà trở nên mong manh khó bền chặt. Vậy làm thế nào để tình yêu vượt qua mọi trở ngại, khó khăn thời gian không gian và hữu hạn của đời người khi người con gái ấy nguyện chân thành tha thiết:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ"
Hai chữ tan ra không có nghĩa là sự mất đi mà chính là sự hóa thân để tồn tại. Người con gái ấy muốn hóa tâm hồn mình vào tình yêu mãnh liệt nồng nàn. Nếu như sóng của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu là sự hưởng thụ thì trăm con sóng nhỏ của Xuân Quỳnh là khát khao được dâng hiến, sống hết mình, yêu trọn vẹn trong tình yêu. Hơn nữa, người con gái ấy còn khao khát hòa nhập tình yêu riêng mình với tình yêu lớn của cuộc đời:
"Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Chỉ có như vậy tình yêu và hạnh phúc của chị sẽ tồn tại vĩnh hằng bất tử. Với kết cấu hình tượng độc đáo, đặc biệt là hình tượng sóng trên cơ sở khám phá tương đồng giữa sóng và em. Giọng điệu sôi nổi, nồng nàn, ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, tinh tế, giàu sắc thái biểu cảm. Bài thơ là lời tự bạch tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu, thể hiện niềm khao khát tình yêu mãnh liệt: một tình yêu thủy chung và luôn hướng tới bến bờ hạnh phúc, một tình yêu vĩnh hằng, bất tử vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại của cuộc đời hữu hạn, của đời người. Cái đáng quý nhất là tình yêu trong thơ của Xuân Quỳnh luôn hướng tới hòa nhập với tình yêu trong cuộc đời và tình yêu lớn của nhân loại.
Khát khao tình yêu luôn là niềm trăn trở trong tim mỗi người. Tình yêu mà người nữ nghệ sĩ ấy gửi tới chúng ta qua bản hòa ca Sóng thật chân thành, giản dị. Mấy ai trong tình yêu có thể đắm say, trọn vẹn và dâng hiến hết mình. Sẽ không ngoa khi nói những vần thơ Xuân Quỳnh ý nghĩa và tha thiết. Mỗi người độc giả hôm nay, bạn và tôi. Tất cả chúng ta đều chiêm nghiệm được cho mình một dòng chảy yêu ngọt ngào trong lời ca Sóng.
Video bài giảng Văn 11 Sóng - Cánh diều