Tập làm văn: Kết bài trong bài văn kể chuyện trang 122, 123 | Giải Tiếng Việt lớp 4 tập 1

2 K

Tailieumoi.vn giới thiệu Giải bài tập Tiếng Việt lớp 4 Tập làm văn: Kết bài trong bài văn kể chuyện trang 122, 123 chi tiết giúp học sinh xem và so sánh lời giải từ đó biết cách trả lời các câu hỏi trong SGK Tiếng Việt 4 Tập 1. Mời các bạn đón xem:

Tập làm văn: Kết bài trong bài văn kể chuyện trang 122, 123

I. Nhận xét

Câu 1 trang 122 Tiếng Việt lớp 4: Đọc lại truyện ông Trạng thả diều.

Câu 2 trang 122 Tiếng Việt lớp 4: Tìm đoạn kết bài của truyện.

Gợi ý:

Kết bài là đoạn văn cuối cùng trong một bài văn.

Trả lời:

Đoạn kết của truyện này:

Thế rồi vua mở khoa thi. Chú bé thả diều đỗ Trạng nguyên. Ông Trạng khi ấy mới có mười ba tuổi. Đó là ông Trạng nguyên trẻ nhất của nước Nam ta.

Câu 3 trang 122 Tiếng Việt lớp 4: Thêm vào cuối truyện một lời đánh giá, nhận xét làm đoạn kết bài.

Gợi ý:

M : Câu chuyện này giúp em thấm thía hơn lời khuyên của người xưa. "Có chí thì nên". Ai nỗ lực vươn lên, người ấy sẽ đạt được điều mình mong ước.

Trả lời:

Đọc truyện này, em càng thấu hiểu hơn câu tục ngữ: “Người có chí thì nên, nhà có nền thì vững”.

Câu 4 trang 122 Tiếng Việt lớp 4: So sánh 2 cách kết bài nói trên

Gợi ý:

Con suy nghĩ và trả lời.

Trả lời:

Cách kết bài trước: chỉ nêu kết cục của câu chuyện. (Cách kết bài không mở rộng)

Cách kết bài sau: sau khi nêu kết cục của câu chuyện, còn có lời bình luận thêm. (Cách kết bài mở rộng)

II. Luyện tập

Câu 1 trang 122 Tiếng Việt lớp 4: Sau đây là một số kết bài của truyện Rùa và thỏ. Em hãy cho biết được những kết bài theo cách nào.

a) Lúc sực nhớ đến cuộc thi, ngẩng đầu lên, thỏ thấy rùa đã gần tới đích, bèn vắt chân lên cổ mà chạy. Nhưng muộn mất rồi. Rùa đã tới đích trước nó.

b) Câu chuyện Rùa và thỏ là lời nhắc nhở nghiêm khắc đối với những ai hay ỷ vào sức mình mà chủ quan, biếng nhác.

c) Đó là toàn bộ câu chuyện chú thỏ hợm hĩnh phải nếm mùi thất bại trước anh rùa có quyết tâm cao.

d) Nghe xong câu chuyện cô giáo kể, ai cũng tự nhủ : không bao giờ được lơ là trong học tập và rèn luyện bản thân.

e) Cho đến bây giờ, mỗi khi nhớ lại chuyện chạy thi với rùa, tôi vẫn đỏ mặt vì xấu hổ. Mong sao đừng ai mắc bệnh chủ quan, hợm hĩnh như thỏ tôi ngày nào.

Gợi ý:

- Kết bài mở rộng: nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về câu chuyện.

- Kết bài không mở rộng: chỉ cho biết kết cục của câu chuyện, không bình luận gì thêm.

Trả lời:

a. Kết bài không mở rộng

b. Kết bài mở rộng

c. Kết bài mở rộng

d. Kết bài mở rộng

e. Kết bài mở rộng

Câu 2 trang 123 Tiếng Việt lớp 4: Tìm phần kết bài của các truyện sau. Cho biết đó là những kết bài theo cách nào.

a) Một người chính trực

b) Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca

Gợi ý:

- Kết bài mở rộng: nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về câu chuyện.

- Kết bài không mở rộng: chỉ cho biết kết cục của câu chuyện, không bình luận gì thêm.

Trả lời:

Tìm phần kết bài của các truyện

a. Một người chính trực: Tô Hiến Thành tâu: “Nếu Thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá". (Kết bài không mở rộng)

b. Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca: Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt: “Giá mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa (Kết bài không mở rộng).

Câu 3 trang 123 Tiếng Việt lớp 4: Viết kết bài của truyện: Một người chính trực hoặc Nỗi dằn vặt của An- đrây-ca theo cách kết bài mở rộng.

Gợi ý:

Kết bài mở rộng: Nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về câu chuyện.

Trả lời:

Viết kết bài theo cách kết bài mở rộng

a. Một người chính trực:

Tô Hiến Thành tâu: “Nếu Thái hậu hỏi người hầu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước, thần xin cử Trần Trung Tá".

Thêm đoạn sau:

Đủ thấy vị quan đứng đầu triều Lý này đúng là một tấm gương sáng ngời về sự chính trực, thanh liêm hết lòng vì nước vì dân tộc cho hậu thế soi chung.

b. Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca: Nhưng An-đrây-ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này khi đã lớn, em vẫn luôn tự dằn vặt: “Giá mình mua thuốc về kịp thì ông còn sống thêm được ít năm nữa!”

Thêm đoạn sau:

Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca cho thấy em là một chú bé trung thực, giàu tình cảm và nhất là rất nghiêm khắc với lỗi lầm của bản thân.

 

Đánh giá

0

0 đánh giá