Tập đọc: Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân trang 83, 84, 85 | Giải Tiếng Việt lớp 5 tập 2

2.8 K

Tailieumoi.vn giới thiệu Giải bài tập Tiếng Việt lớp 5 Tập đọc: Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân trang 83, 84, 85 chi tiết giúp học sinh xem và so sánh lời giải từ đó biết cách trả lời các câu hỏi trong SGK Tiếng Việt 5 Tập 2. Mời các bạn đón xem:

Tập đọc: Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân trang 83, 84, 85

Câu 1 trang 84 Tiếng Việt lớp 5: Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân bắt nguồn từ đâu ?

Phương pháp giải:

Con đọc đoạn văn thứ nhất trong bài.

Trả lời:

Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên sông Đáy ngày xưa.

Câu 2 trang 84 Tiếng Việt lớp 5: Kể lại việc lấy lửa trước khi nấu cơm.

Phương pháp giải:

Con đọc đoạn văn thứ hai trong bài văn.

Trả lời:

Khi tiếng trống hiệu vừa dứt, bốn thanh niên của bốn đội nhanh như sóc thoăn thoắt leo lên bốn cây chuối bôi mỡ bóng nhẫy để lấy nén hương bám ở trên ngọn. Khi mang được nén hương xuống, người dự thi được phát cho ba que diêm để châm vào hương cho cháy thành ngọn lửa.

Câu 3 trang 85 Tiếng Việt lớp 5: Tìm những chi tiết cho thấy thành viên của mỗi đội thổi cơm thi đều phối hợp nhịp nhàng, ăn ý với nhau?

Phương pháp giải:

Con đọc kĩ đoạn văn thứ 2 và thứ 3 trong bài văn.

Trả lời:

Những chi tiết cho thấy thành viên của mỗi đội thổi cơm thi đều phối hợp nhịp nhàng ăn ý với nhau là:

Trong khi một thành viên của đội tiến hành việc lấy lửa thì những người khác mỗi người một việc: người ngồi vót những thanh tre già thành những chiếc đũa bông; người giã thóc, giần sàng thành gạo; có lửa người ta lấy nước nấu cơm.

Câu 4 trang 85 Tiếng Việt lớp 5: Tại sao nói việc giật giải trong cuộc thi là "niềm tự hào khó có gì sánh nổi đối với dân làng" ?

Phương pháp giải:

Theo con, đội chiến thắng cuộc thi thổi cơm này thể hiện được phẩm chất gì của đội thổi cơm thi đó?

Trả lời:

Nói việc giật giải trong cuộc thi là niềm tự hào khó có gì sánh được của dân làng, vì giải thưởng là một minh chứng, là kết quả của sự nỗ lực, sự khéo léo, nhanh nhẹn, thông minh của cả tập thể.

Bài đọc

HỘI THI THỔI CƠM Ở ĐỒNG VÂN

     Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân bắt nguồn từ các cuộc trẩy quân đánh giặc của người Việt cổ bên bờ sông Đáy xưa.

     Hội thi bắt đầu bằng việc lấy lửa. Khi tiếng trống hiệu vừa dứt, bốn thanh niên của bốn đội nhanh như sóc, thoăn thoắt leo lên bốn cây chuối bôi mỡ bóng nhẫy để lấy nén hương cắm ở trên ngọn. Có người leo lên, tụt xuống, lại leo lên… Khi mang được nén hương xuống, người dự thi được phát ba que diêm để châm vào hương cho cháy thành ngọn lửa. Trong khi đó, những người trong đội, mỗi người một việc. Người thì ngồi vót những thanh tre già thành những chiếc đũa bông. Người thì nhanh tay giã thóc, giần sàng thành gạo, người thì lấy nước và bắt đầu thổi cơm.

      Mỗi người nấu cơm đều mang một cái cần tre được cắm rất khéo vào dây lưng, uốn cong hình cánh cung từ phía sau ra trước mặt, đầu cần treo cái nồi nho nhỏ. Người nấu cơm tay giữ cần, tay cầm đuốc đung đưa cho ánh lửa bập bùng. Các đội vừa thổi cơm vừa đan xen nhau uốn lượn trên sân đình trong sự cổ vũ nồng nhiệt của người xem hội.

       Sau độ một giờ rưỡi, các nồi cơm được lần lượt trình trước cửa đình. Mỗi nồi cơm được đánh một số để giữ bí mật. Ban giám khảo chấm theo ba tiêu chuẩn: cơm trắng, dẻo và không có cháy. Cuộc thi nào cũng hồi hộp và việc giật giải đã trở thành niềm tự hào khó có gì sánh nổi đối với dân làng.

Theo MINH NHƯƠNG

- Làng Đồng Vân: Một làng thuộc xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng, Hà Nội

- Sông Đáy: một nhánh của sông Hồng, chảy qua Hà Nội, Hà Nam và Ninh Bình

- Đình: Ngôi nhà to rộng của làng thời xưa, dùng làm nơi thờ thành hoàng và họp việc làng

- Trình: đưa ra để người trên xem xét và giải quyết

Bố cục Hội thi thổi cơm ở Đồng Vân 

Bài đọc được chia thành 4 đoạn:

Đoạn 1: Từ đầu đến sông Đáy xưa

Đoạn 2: Từ Hội thi bắt đầu đến bắt đầu thổi cơm

Đoạn 3: Từ Mỗi người nấu cơm đến người xem hội

Đoạn 4: Phần còn lại

Nội dung chính Hội thi thổi cơm ở Đồng Vân

Qua việc miêu tả lễ hội thổi cơm thi ở Đồng Vân, tác giả thể hiện tình cảm yêu mến và niềm tự hào đối với một nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt văn hóa của dân tộc.

 

Đánh giá

0

0 đánh giá