Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo Ngữ văn 11 Kết nối tri thức, gồm 5 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo
Đề bài: Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học Chí phèo
Dàn ý Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo
I. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm “ Chí Phèo” và nhà văn Nam Cao.
II. Thân bài
- Tóm tắt nội dung của tác phẩm: Truyện xoay quanh nhân vật Chí Phèo - đứa trẻ bị bỏ hoang trong một lò gạch cũ và được nhặt về nuôi. Lớn lên hắn đi ở hết nhà này nhà khác. Năm 20 tuổi, hắn làm canh điền cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến vu oan và bắt bỏ tù. Hắn ở tù bảy tám năm rồi trở về với bộ dạng khác hẳn ngày xưa.
- Hoàn cảnh ra đời: Chí Phèo được nhà văn Nam Cao sáng tác năm 1941. Tên đầu tiên là: Cái lò gạch cũ.
- Truyện xoay quanh 3 nhân vật chính: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến. ( Nêu đặc điểm nhân vật và hoàn cảnh của mỗi nhân vật)
- Giá trị nội dung và nghệ thuật qua tác phẩm.
- Liên hệ thực tế và rút ra bài học cho bản thân.
III. Kết bài
- Kết luận vấn đề và nêu cảm nhận của bản thân.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 1
Nam Cao là một nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại. Là nhà văn theo khuynh hướng hiện thực nhân đạo, các tác phẩm của ông thường phẩn một cách sâu sắc và chân thực về đời sống cũng như nội tâm của nhân vật. Trong kho tàng văn chương đồ sộ của mình, tác phẩm Chí Phèo đã được bạn đọc đón nhận như một bằng chứng thép về tội ác của tầng lớp địa chủ, thực dân phong kiến thông qua nhân vật Chí Phèo.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách. Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền. Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa. Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận.
Có thể nói, thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã người đọc hiểu hơn về số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Mặc dù cuộc sống trải qua nhiều bất hạnh nhưng trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 2
Tác giả Nam Cao, tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915 và mất năm 1951. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu của thế hệ thứ hai trong văn học Việt Nam. Tác phẩm "Chí Phèo" được viết vào những năm 1940-1941 và xuất bản lần đầu vào năm 1942.
"Chí Phèo" thuộc thể loại truyện ngắn, gồm 12 câu chuyện xoay quanh cuộc sống của nhân vật chính là Chí Phèo - một người đàn ông bình dị, số phận đau khổ. Bố cục của tác phẩm được xây dựng theo kiểu truyện tự sự, từng câu chuyện liên kết với nhau thông qua nhân vật chính.
Tác phẩm "Chí Phèo" mang lại giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc biệt. Tác giả đã thể hiện sự nhân văn sâu sắc, khắc họa tính cách của nhân vật Chí Phèo một cách chân thực và sâu xa. Từ đó, tác phẩm phân tích chiều sâu tâm lý và bi kịch của nhân vật, gợi lên những suy nghĩ về cuộc sống và con người.
Ngoài ra, "Chí Phèo" còn xây dựng thành công những nhân vật điển hình bất hủ, mang tính biểu tượng cho xã hội. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt trong việc diễn đạt câu chuyện, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ là một trong những yếu tố thành công của tác phẩm. Ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc và cách kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn đã làm nên sức hút của "Chí Phèo".
Tóm lại, tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao đã có đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam. Qua câu chuyện của Chí Phèo, chúng ta được thấu hiểu về những khía cạnh đau thương, bi kịch trong cuộc sống. Tác phẩm đã góp phần làm giàu đời sống văn hóa của đất nước và tạo nên một di sản văn học quý báu cho tác giả Nam Cao.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 3
Được đặt tên theo tên nhân vật chính của truyện ngắn cùng tên, “Chí Phèo” đã không còn là cái tên xa lạ đối với bạn đọc yêu văn chương trên cả nước. Tác phẩm là một bản tuyên án những thế lực độc ác, xấu xa trong xã hội cũ đã đẩy số phận của một người nông dân hiền lành vào bước đường cùng.
Tác giả Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri ( 29/10/1915-30/11/1951) là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo và cũng là một chiến sĩ, liệt sỹ người Việt Nam. Ông là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học nước nhà, góp một phần công lao không nhỏ đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Không chỉ vậy, ông được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu và có sức ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông mang tính hiện thực đời sống cao, qua đó còn là những giá trị nhân đạo sâu sắc khiến độc giả đồng cảm và thấu hiểu cùng các nhân vật qua từng dòng chữ. Những tác phẩm nổi tiếng có thể kể đến như: Sống mòn, Tư cách mõ, Một bữa no,… Thế nhưng, “ Chí Phèo” lại là cái tên gắn liền với sự nghiệp của ông hơn cả.
Truyện ngắn “Chí Phèo” ban đầu có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau này khi được in thành sách năm 1941 đã bị đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập “Luống cày” (do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946) thì lại được tác giả đổi lại tên thành “Chí Phèo'. Có thể nói, “Chí Phèo” là nốt son sáng trong sự nghiệp viết lách của Nam Cao, khi ông đã bắt đầu sáng tác từ những năm 1936 nhưng mãi đến khi “Chí Phèo” ra đời, tên tuổi của ông mới được đông đả độc giả đón nhận và ghi nhớ. Khác với các truyện ngắn cùng đề tài, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Cũng có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ, mô phỏng lại xã hội nông thôn Việt Nam lúc đương thời.
Giữa bối cảnh những năm 1940-1945, các tác phẩm lấy đề tài về nông thôn Việt Nam là vô kể. Thế nhưng hầu hết các câu truyện chỉ xoay quanh các quan hệ trong gia đình, hay là các phong tục, tập quán của các vùng địa phương. Ấy vậy mà “Chí Phèo” nổi lên như một hiện tượng bất ngờ. Giống như các tác phẩm “Tắt đèn”( Ngô Tất Tố) hay “Vợ nhặt”( Kim Lân),… thì “Chí Phèo” cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt".
Câu chuyện xoay quanh về cuộc đời của nhân vật chính - Chí. Là trẻ mồ côi được nhận nuôi, ban đầu Chí cũng như biết bao chàng trai khác: chân chất, thật thà, hiền lành. Ấy mà ông trời lại trêu đùa với Chí khi anh bị Bá Kiến gán tội ném vào ngục tù vì vợ ba của ông ưng mắt Chí. Sống trong chốn song sắt, Chí từ anh chàng hiền lành ngày nào giờ đây đã trở thành một “con quỷ sống” khiến cả làng Vũ Đại phải khiếp sợ. Trở về sau nhiều năm xa rời quê hương, giờ đây Chí đã trở thành một tay sai đắc lực cho Bá Kiến để ngày ngày kiếm tiền mua rượu uống. Lúc nào hắn cũng trong tình trạng say xỉn và hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi ai đã sinh ra hắn để hắn phải sống kiếp đời khó khăn, khốn khổ tới mức này và hơn hết hắn chửi cả làng Vũ Đại. Tiếng chửi của hắn là phản ứng của bản thân với tất cả cuộc đời đầy bi kịch của hắn. Hắn bị cả làng hắt hủi, loại trừ khỏi xã hội. Kết quả, Chí Phèo đã bị hủy hoại hoàn toàn - cả về thể xác lẫn tâm hồn, dẫn hắn đến kết cục tồi tệ nhất của mình. Sau một đêm ở cùng với Thị Nở, Chí lần đầu tiên tỉnh rượu sau những ngày tháng sống với cơn say. Bát cháo hành của Thị đã đánh thức phần người tưởng như đã chết trong hắn. Giờ đây, hắn muốn có một gia đình nhỏ cho riêng mình, được xã hội công nhận và hơn hết: Hắn muốn trở thành người lương thiện. Hắn tìm tới Bá Kiến- người mà chính là hung thủ của đời hắn, đòi lấy lại sự lương thiện đã mất của mình. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình, kết thúc một cuộc đời đau khổ. Thế nhưng, ở cuối câu truyện khi hình ảnh cái lò gạch cũ lại một lần nữa hiện lên, chúng ta như nhìn thấy được một vòng lặp vô tận sẽ lại bắt đầu.
Khác với những tác giả khác, Nam Cao không đi sâu vào câu chuyện về sưu cao thuế nặng, nạn tham ô, hay nạn đói,… mà ông tiếp cận câu truyện ở một phương diện khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Giá trị con người rẻ mạt, không đáng giá một xu trong mắt bọn quan lại tham nhũng. Với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo, cùng với ngôn ngữ bình dị, đời thường, có lẽ tác giả Nam Cao đã thành công trong việc bóc tách từng lớp suy nghĩ của các nhân vật, khiến cho người đọc càng cảm nhận sâu sắc hơn nữa những khó khăn, những đau đớn tột cùng của người nông dân trong thời kỳ ấy.
Tác phẩm không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Đó còn là tiếng kêu cứu thảm thiết của những con người bất hạnh đang đòi quyền được sống, được tự do, được “làm người lương thiện”. Sống cho đúng nghĩa là sống, chứ không phải sống như những bóng ma vật vờ không được ai nhắc tên. Truyện "Chí Phèo" là một trong những truyện ngắn hay nhất viết về đề tài nông dân trong nền Văn học Việt Nam hiện đại, cũng là đỉnh cao của truyện ngắn Nam Cao.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 4
Truyện ngắn, 'Chí Phèo' là một tác phẩm văn học không thể không kể đến khi nhắc đến văn học Việt Nam. Tác phẩm đã mang lại cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ và những suy tư sâu sắc về cuộc sống.
Tác giả của truyện ngắn này là Nam Cao, một nhà văn với tâm hồn nhân văn sâu sắc và tinh tế. Ông đã sử dụng ngôn ngữ đơn giản nhưng sâu sắc, thấu hiểu tâm trạng và suy tư của nhân vật chính là Chí Phèo để làm cho câu chuyện trở nên sống động và gần gũi với độc giả.
Câu chuyện của 'Chí Phèo' không chỉ là một câu chuyện về cuộc đời bi kịch của một người nông dân, mà còn là một tác phẩm văn học với thông điệp sâu sắc về sự đau đớn và tuyệt vọng trong cuộc sống. Chí Phèo, với số phận bi đau và những đau khổ mà ông phải trải qua, đã trở thành biểu tượng của sự khốn khổ và hy vọng.
Tác phẩm 'Chí Phèo' là một tác phẩm văn học lớn của văn học Việt Nam, là một phần không thể thiếu trong bảo tàng văn hóa của dân tộc. Bằng cách miêu tả chân thực cuộc sống và tâm trạng của nhân vật, Nam Cao đã tạo ra một tác phẩm đặc biệt, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả và trở thành một phần không thể tách rời của văn học dân tộc."
'Chí Phèo' không chỉ là một câu chuyện về một người nông dân, mà còn là một tác phẩm đầy cảm xúc và triết lý về cuộc sống. Những hình ảnh và cảm xúc được Nam Cao tái hiện trong tác phẩm này thực sự đặc biệt và sâu sắc.
Chí Phèo, với tâm trạng bi ai và đau khổ, thực sự là một nhân vật đáng thương và đáng nhớ. Sự tàn ác và bất công trong xã hội đã biến đổi cuộc sống của ông, từ một người đầy hy vọng và hi vọng, thành một người vô cảm và tuyệt vọng.
Tuy nhiên, dù bị đánh bại bởi số phận và xã hội, Chí Phèo vẫn giữ lại một phần nhân tính và tình yêu thương đối với người khác. Điều này làm cho ông trở thành một nhân vật đầy lòng nhân từ và đáng kính trọng.
Từ 'Chí Phèo' của Nam Cao không chỉ là một câu chuyện đầy cảm xúc, mà còn là một tác phẩm văn học với thông điệp sâu sắc về sự sống và hy vọng. Đây là một trong những tác phẩm văn học tuyệt vời nhất của văn học Việt Nam, và xứng đáng được truyền bá và giữ gìn trong thế hệ sau.
Một trong những điểm đáng chú ý nhất của câu chuyện là cách tác giả khéo léo kết hợp giữa việc miêu tả các tình tiết thường ngày và việc phản ánh những vấn đề xã hội sâu sắc. Bằng cách này, ông đã tạo ra một bức tranh sống động về cuộc sống và nhân văn trong xã hội Việt Nam thời kỳ đó.
Ngoài ra, tác giả đã tạo nên những nhân vật sâu sắc và đa chiều trong tác phẩm. Bằng cách miêu tả tâm trạng và hành động của các nhân vật như Chí Phèo, Nam Cao đã khai thác được những khía cạnh phức tạp của con người, từ niềm vui và hy vọng đến sự đau khổ và tuyệt vọng.
Cuối cùng, tác phẩm "Chí Phèo" còn là một lời nhắc nhở đầy lòng nhân ái về tầm quan trọng của việc đối xử công bằng và nhân từ với những người khốn khổ và bị bất công trong xã hội. Từ câu chuyện về Chí Phèo, chúng ta học được rằng ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn nhất, lòng nhân ái và sự khoan dung vẫn là điều cần thiết để xây dựng một xã hội văn minh và công bằng.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 5
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là "nhà văn của nông dân" , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo.
Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 - 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại.
Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 - 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giống như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố.... thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là "bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt". Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng... Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp.
Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát "rất sang" ("bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người"), lối nói ngọt nhạt, và nhất là "cái cười Tào Tháo" ("cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy") - tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào "khôn róc đời" này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của "cụ tiên chỉ": đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ - lão cay đắng nhận ra mình "già yếu quá " mà "bà Tư" thì "cứ trẻ, cứ phây phây", "nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ... khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng". Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng... Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà "cụ Bá" được hoàn chỉnh, còn có "Bà Tư" quỷ cái "thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại "cứ bóp lên trên, trên nữa''... Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, - tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập trung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của "cụ tiên chỉ làng Vũ Đại" về cái "nghề tổng lí"cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: "mềm nắn, rắn buông", "bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu", "thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân", "chỉ bóp đến nửa chừng", "hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn"... Còn đây là chính sách dùng người của lão: "không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò", "thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (...). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn... "... Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng "khích" Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống "cũng có lợi cụ cả"! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, quan tham lại những, thiên tai địch họa.... ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở..., mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ "chửi trời" đến "chửi đời" rồi "chửi ngay tất cả làng Vũ Đại..." .Và hắn bỗng tức tối khi thấy "không ai lên tiếng cả"... Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía "nông nỗi" khốn khổ của thân phận. Đó là "nông nỗi" không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với... hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!...
Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân - chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân - đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ. Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố "liều chết với bố con" lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân - với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân.
Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo - Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lớn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, "đôi lứa xứng đôi", thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất... Chí Phèo. Trong một đêm "rười rượi những trang", có những tàu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rượi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là "hứng tình", Chí Phèo rất say và cảm thấy "bứt rứt", "ngứa ngáy" da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ "dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn". Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì "cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, "vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống"! Trang no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng "bâng khuâng", "mơ hồ buồn". Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá...Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa "rất xa xôi " đã từng "ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Cái hiện tại đáng buồn: "già mà vẫn cô độc", cái tương lai còn đáng buồn hơn: "đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo "bao giờ cũng say", "say tận", "có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời", thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: "hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (...). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say... Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn "rất ngạc nhiên" và hết sức xúc động Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt "như ươn ướt", "ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình". Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thấy bị xúc phạm khi bị cái bà ba "quỷ cái" gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động... "Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi... "
Như vậy là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái "bản tính tốt" ấy của anh "Trần trụi giữa bầy sói", anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, "hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm" - xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao!", Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận - mụ Lợi, Đức - Nhi, Chí Phèo - Thị Nở... Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng? Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở - Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm.
Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay "hắn càng uống càng tỉnh ra". Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tĩnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và "hắn ôm mặt khóc rưng rức". Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nỗi đau, hắn "lại uống... lại uống... đến say mềm người". Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến "trợn mắt, chỉ tay vào mặt" lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tấm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy "đáng yêu" đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường ( Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi..."Ai cho tao lương thiện?". Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là "một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao trước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao - trước hết là Chí Phèo - thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 6
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu với những sáng tác về người nông dân, tác phẩm Chí phèo được coi là kiệt tác, khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông. Nhà văn đã dựng lên bức tranh về cuộc sống của những người nông dân dưới sự áp bức của địa chủ cường hào, đã đẩy họ con đường tha hóa và xuống tận cùng của xã hội.
Truyện Chí Phèo đã tái hiện lại hình ảnh nông thôn Việt Nam, của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Xã hội này được đặc trưng, một bên bởi những bộ mặt như Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo, Bát Tùng và những bè đảng xung quanh chúng, sống phè phỡn, gian ác, bạo ngược, vừa “du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau”; một bên là đông đảo những người dân quê thấp cổ bé miệng, nơm nớp lo sợ, nhẫn nhục, quanh năm đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn. Tầng lớp những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức họp thành một nhóm riêng. Họ là những dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã lưu manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai của bọn cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tai vạ cho những người lương thiện.
Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện ra đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
Thông qua nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã trực tiếp nêu lên vấn đề con người bị tha hóa, bị vong thân, mất nhân tính, nhân cách vì bị áp bức bóc lột, vì đói khổ, cùng cực. Tác giả đã mổ xẻ vấn đề cuộc sống và số phận mỗi con người, ý thức về quyền sống, quyền làm người, ý thức về nhân cách, nhân phẩm ngay ở những con người bị cộng đồng khinh bỉ, hắt hủi, gạt ra bên lề xã hội, ngay ở một “thằng cùng hơn cả dân cùng”, tưởng như đã bị hủy hoại hoàn toàn cả nhân hình và nhân tính.
Bên cạnh đó, truyện Chí Phèo còn giúp người đọc có cơ sở để chia sẻ với những dằn vặt, đau khổ của con người khi không được làm người, chỉ mong ước được sống bình thường, “được làm người lương thiện” như mọi người khác mà không được. Sự kết hợp hai mặt xã hội và nhân bản trong chủ đề mà truyện ngắn Chí Phèo đặt ra càng làm cho tác phẩm này có giá trị văn học sâu hơn, có sức ngân vang lớn hơn.
Các nhân vật trong truyện của Nam cao đều có những nét tính cách đặc sắc, từ Chí Phèo, Thị Nở, cho đến Bá Kiến, Lí Cường, Năm Thọ, Binh Chức, Đội Tảo, Tự Lãng, bà cô Thị Nở v.v… Tất nhiên, trong các nhân vật này, gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở người đọc là Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. Mỗi nhân vật đúng là một cá tính, là “con người này”, không lẫn vào đâu được, với ngoại hình và tính cách riêng, lối sống riêng, ngôn ngữ riêng, số phận riêng, đồng thời lại tiêu biểu cho một loại người nào đó về mặt xã hội, sinh hoạt, tâm lí.
Bá Kiến là điển hình của bọn lí dịch cường hào ở nông thôn. Chúng đều có những nét chung: hống hách, gian ác, dâm ô, đầy thủ đoạn mưu mô để giành giật và củng cố chức quyền cho cá nhân và con cái, đục khoét, ức hiếp dân lành, hãm hại những kẻ không ăn cánh và chống đối. Bá Kiến càng tỏ ra ranh ma quỷ quyệt trong nghề làm tổng lí, đặc biệt khi phải đối phó với những tên vai vế tranh chấp chức quyền với hắn hoặc những kẻ cố cùng liều thân. Tùy người, tùy việc, y biết lúc nào thì quát tháo, dọa nạt, lúc nào thì nhẹ nhàng, dụ dỗ, mua chuộc. Chính nhờ vậy lão mới thực hiện được mọi ý đồ đen tối của mình, khuất phục được bọn đầu bò đầu bướu, hạ được các phe cánh đối nghịch trong làng, quyền thế ngày càng thăng tiến và vững vàng. Con người khôn ngoan lõi đời ấy đã khống chế lừa bịp được Chí Phèo lâu dài, nhưng cuối cùng đã bị Chí Phèo giết chết, vì từ trong thâm tâm, trong tiềm thức, Chí đã nhận ra lão chính là kẻ thù của. mình, kẻ đã tước đoạt quyền làm.người của mình.
Đối với Bá Kiến thì Chí Phèo cũng chỉ là một trong số những tên dân cùng liều lĩnh như Năm Thọ, Binh Chức, cho nên cách xử sự của lão đối với Chí Phèo nói chung cũng giống “sách lược” đối với hạng đầu bò đầu bướu: dọa nạt, trấn áp công khai hoặc ngấm ngầm; hoặc nếu cần thì vô hiệu hóa, mua chuộc, lợi dụng làm tay chân. Và Chí Phèo cũng như Năm Thọ, Binh Chức đều biết rõ bản chất, chỗ mạnh và chỗ yếu của Bá Kiến và hạng người như lão. Nhưng Chí Phèo phục vụ cho Bá Kiến lâu dài hơn, đắc lực hơn, ngay từ lúc là một anh canh điền chất phác, khỏe mạnh, và cả sau khi đi tù về trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo cũng bị lão hành hạ, đày đọa, làm nhục nhiều hơn. Và do vậy, Chí Phèo hiểu rõ lão hơn, nặng oán thù hơn đối với lão. Lúc tỉnh táo, Chí Phèo đã ý thức rõ về cảnh tủi nhục phải hầu hạ mụ vợ ba của Bá Kiến, về chuyện bị Bá Kiến hãm hại đẩy vào tù. Sau khi ở tù ra, hắn đã biến thành một con người khác. Từ một thanh niên hiền lành, rụt rè, hắn đã biến thành một tên lưu manh, liều lĩnh, hung dữ, rượu chè say khướt, chửi bới suốt ngày. Nhưng lúc tỉnh cũng như lúc say, trong ý thức và trong tiềm thức, hắn vẫn không bao giờ quên Bá Kiên. Bá Kiến đúng là nỗi ám ảnh của hắn.
Trong suốt thiên truyện, tác giả chỉ miêu tả ba lần Chí Phèo gặp Bá Kiến, sau khi hắn ở tù ra. Lần thứ nhất, sau khi uống rượu say, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục của lão ra mà chửi. Hắn định đến để gây sự. Gây sự, chửi bới, chống đối một người như Bá Kiến vừa đế thỏa sự căm giận, vừa có dịp để lên mặt với những người xung quanh, vừa có thể vòi tiền uống rượu. Với một người như Chí Phèo, một người mà sự liều lĩnh hung dữ là một cách để tự giới thiệu mình, để tồn tại và cũng là để che đậy sự sợ hãi cố hữu, thì không có gì có thể nói trước được về dự định và hành động. Tất cả tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Gặp Lí Cường, bị Lí Cường quát mắng, tát tai, hắn rạch mặt, la làng, lăn đùng ra ăn vạ. Nhưng khi Bá Kiến “dịu dàng” chào hỏi, mời mọc, tỏ vẻ ân cần săn sóc, cho tiền, thì hắn lại nguôi ngoai, thích chí, hả hê.
Lần thứ hai, sau khi uống rượu say, hắn lại ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến nói là để đòi nợ. Gặp Bá Kiến, hắn xin đi ở tù, vì “ở tù còn có cơm ăn, còn ở làng ở nước thì không làm gì nên ăn, không mảnh đất cắm dùi”. Và, tất nhiên, kèm theo yêu cầu kì quặc ấy, là những lời dọa dẫm úp mở mà Bá Kiến rất hiểu rõ. Nhưng lần này lão Bá Kiến khôn ranh lại đẩy Chí Phèo đi đòi nợ Đội Tảo cho lão. Lão nghĩ bất kì kết cục nào cũng đều có lợi cho lão. Ngẫu nhiên, Chí Phèo lại đòi được nợ và được Bá Kiến cho mấy sào vườn ở bãi sông cấm thuê của một người làng trước đó. Và cũng từ đó, Chí Phèo bao giờ cũng say, và khi hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm, gây ra bao nỗi khiếp sợ và tai vạ cho dân làng.
Lần thứ ba, Chí Phèo gặp Bá Kiến sau khi bị Thị Nở từ chối không nhận làm vợ hắn. Cùng quẫn, phẫn chí, Chí Phèo uống rượu say, cầm dao đi định “đâm chết cả nhà nó”. Nhưng Chí Phèo lại quên rẽ vào nhà Thị Nở mà lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, đòi được làm người lương thiện, và Chí đã đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Kết thúc này bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên, thật ra lại rất tất yếu, bộc lộ rõ tính cách của Chí Phèo, ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đây là một kết thúc khiến cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều về thực trạng và mâu thuẫn xã hội, về cuộc sống và bi kịch của đời người.
Câu chuyện đã tạo nên một ngã rẽ cho cuộc đời Chí từ khi gặp thị nở. Sau những ngày hạnh phúc ngắn ngủi với thị, Chí càng cảm thấy thêm cay đắng, khổ sở vì thân phận và điều này càng đẩy nhanh Chí đến một hành động tuyệt vọng. Chí không chỉ say, hung dữ, liều lĩnh, gây tội ác, mà còn biết sợ, tính toán, nhận diện được kẻ thù. Chí suy nghĩ, đau khổ về kiếp sống không bình thường, không ra người, không lương thiện của mình. Trong những ngày được hạnh phúc với Thị Nở, Chí cũng biết vui, biết mơ ước, biết buồn, biết ăn năn. Bị Thị Nở từ chối, đối với Chí, là một đòn đau không chịu đựng nổi. Từ kinh nghiệm sống, từ tiềm thức vô thức, Chí cảm nhận tình trạng bé tắc vô vọng của mình có nguyên nhân sâu xa hơn tội ác của Bá Kiến. Giết Bá Kiến cũng không có được sự giải thoát. Và hắn đã tự sát.
Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo không chỉ là hình ảnh những tên cố cùng liều thân hoặc là điển hình, của những người nông dân lưu manh hóa vì sự áp bức bóc lột của bọn thực dân phong kiến, mà còn thể hiện bi kịch của con người bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người, quyền được hưởng hạnh phúc. Cái điều rất nghiêm trang, rất đau lòng, rất tội nghiệp mà Nam Cao đã ghi lại và muốn nhắn gửi cho người đời thông qua một câu chuyện tưởng như chẳng có gì, một số nhân vật dị dạng và một giọng văn pha nhiều tính chất hài hước, nội dung thông điệp đó nhiều thế hệ độc giả đã hiểu và càng đánh giá cao tác giả.
Xây dựng lên những nhân vật tiêu biểu, nhà văn đã dùng những ngôn ngữ của đời sống, ngôn ngữ được quần chúng nhân dân sử dụng hằng ngày, rất phong phú, sinh động, giàu hình ảnh. Có thể nói hơn bất kì một nhà văn nào khác cùng thời, ngôn ngữ Nam Cao cho đến bây giờ vẫn tỏ ra không cũ với thời gian, cả về mặt từ vựng, ngữ nghĩa, cú pháp.
Phải có sự cảm thông sâu sắc với thân phận những người nông dân Nam Cao mới có mới có một tác phẩm giá trị như vậy. Ông đã khắc họa lên bức tranh xã hội với những bọn địa chủ cường hào gian ác, những con người nông dân tội nghiệp, bị chèn ép, bóc lột, không để cho họ một con đường sống.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 7
Chí Phèo là tác phẩm có nhân vật chính cùng tên, đã trở nên rất gần gũi với văn chương trên cả nước. Tác phẩm chính là bản tuyên án thế lực độc ác của xã hội cũ đẩy người nông dân đến bước đường cùng.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí (29/10/1915 – 30/11/1951), đây là nhà văn, nhà thơ, nhà báo và đồng thời là chiến sĩ của Việt Nam. Ông chính là nhà văn hiện thực lớn của văn học nước ta, góp công lao không nhỏ vào quá trình hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Ông còn được xem là nhà văn tiêu biểu, có sức ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20. Những sáng tác của Nam Cao mang tính hiện thực cao, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Ngoài ra, tác giả này còn có nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Sống mòn, Tư cách mõ, Một bữa no,…
Ban đầu, Chí Phèo có tên là Cái lò gạch cũ, sau khi in thành sách năm 1941 mới đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại tập “Luống cày” của Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội 1946 mới đổi thành Chí Phèo. Tác phẩm này là điểm nhấn sáng chói cho sự nghiệp của Văn Cao. Ông bắt đầu sự nghiệp từ 1936, nhưng đến khi Chí Phèo ra đời, tên tuổi của ông mới được các độc giả đón nhận một cách nồng nhiệt và ghi nhớ. Khác với nhiều truyện ngắn cùng để tài, Chí Phèo phản ánh hiện thực trải ra theo bề rộng không gian và thời gian. Làng Vũ Đại khi đó chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Giữa bối cảnh năm 1940 – 1945, khi có rất nhiều tác phẩm hay về nông thôn Việt Nam, Chí Phèo vẫn có sức hút riêng, khiến cho người ham mê văn chương thời ấy đến hiện tại vẫn không thể bỏ qua. Câu chuyện chủ yếu xoay quanh nhân vật Chí, mồ côi từ bé và được nhận nuôi. Ban đầu, Chí cũng là một chàng trai thật thà, chất phác và hiền lành. Tuy nhiên, số phận của hắn lại bị trêu đùa, bị Bá Kiến gán tội ném vào tù vì vợ ba ưng mắt Chí. Sống sau song sắt, hắn từ hiền lành lại trở thành con quỷ sống làm cả làng Vũ Đại khiếp sợ. Sau nhiều năm rời xa quê hương, hắn đã trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, hàng ngày kiếm tiền để mua rượu uống, lúc nào cũng say xỉn và chửi rủa. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi đấng sinh thành, cho hắn đến với cuộc đời để chịu bao nhiêu tủi hờn, đau khổ. Tiếng chửi rủa của nhân vật chính là phản ứng của người nông dân cùng cực đối với cuộc đời đầy bất công. Hắn đã bị cả làng hắt hủi, loại trừ khỏi xã hội, bị hủy hoại hoàn toàn cả thể xác lẫn tâm hồn. Từ đó, Chí phải đi đến kết cực tồi tệ nhất của mình.
Sau một đêm ở cùng Thị Nở, hắn đã được tỉnh rượu, bát cháo của người con gái đó đã khiến cho hắn thèm khát được thiện lương. Tuy nhiên, khi hắn đang hy vọng nhất thì bà cô của Thị Nở đã nói những lời cay nghiệt, thậm chí nghe xong, Chí càng uống lại càng tỉnh. Sau đó, cái quay lưng của Thị cũng là dấu chấm hết cho sự hy vọng và mong ước được thay đổi của Chí. Cũng từ đó, hắn bắt đầu nhận ra kẻ thủ và quyết định chấm dứt cuộc đời Bá Kiến, cũng như của chính mình. Tuy nhiên, hình ảnh cuối truyện, với cái lò gạch cũ đã hiện lên, khiến cho người đọc lo lắng về vòng lặp vô tận lại bắt đầu.
Nam Cao tạo nét riêng cho tác phẩm của mình, không đi sâu truyện sưu cao thuế nặng, tham ô hay đói khát. Thay vào đó, ông kể chuyện về người nông dân bị xã hội tàn phá và hủy diệt về tâm hồn, nhân tính, bị phủ nhận giá trị làm người. Con người giờ đây bị coi thường, rẻ mạt, không đáng một xu trong mắt bọn quan tham. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tả tâm lý tinh tế và sắc sảo, ngôn ngữ bình dị đã giúp ông thành công hơn khi khắc họa nỗi khó khăn của nông dân dưới đáy xã hội thời kỳ trước.
Chí Phèo không chỉ mang đến giá trị hiện thực, mà còn mang đến giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Đây chính là tác phẩm thể hiện lòng yêu thương sâu sắc của Nam Cao đối với những người dân phải sống trong cảnh khốn khổ đến tột cùng. Thực ra, đây cũng chính là tiếng kêu cứu thảm thiết của con người bất hạnh đang khát khao quyền được sống, tự do, trở thành người lương thiện. Tác phẩm này chính là lòng khao khát được sống đúng nghĩa, không phải là bóng ma vật vờ không ai nhớ đến. Chí Phèo chính là truyện ngắn hay nhất về đề tài nông dân của Văn học Việt Nam hiện đại, đây cũng là đỉnh cao sáng tác của Nam Cao.
Thuyết minh về tác phẩm Chí phèo - Mẫu 8
Là truyện ngắn được nằm trong nhóm những tác phẩm được sáng tác từ sớm của Nam Cao, Chí Phèo chính là kết tinh tuyệt vời viết về chủ đề nông dân. Nếu tác giả được xem là “nhà văn của nông dân”, Chí Phèo chính là tác phẩm dành cho nông dân thời kỳ xưa, nói lên khát khao về cuộc đời bình dị của họ.
Không giống với những tác phẩm truyện ngắn cùng đề tài, Chí Phèo phản ánh hiện thực mở rộng cả về không gian lẫn thời gian. Làng Vũ Đại xuất hiện trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời. Đây chính là đề tài lớn trong văn xuôi Việt Nam, thể hiện đúng phong tục tập quán dân quê, sự lục đục của vợ cả, vợ lẽ, mẹ chồng, nàng dâu, dì ghẻ và con chồng. Thậm chí, mối quan hệ giữa chú bác, cô dì và những đứa cháu bên nội, bên ngoại cũng không hề hòa thuận.
Trong bối cảnh ấy, Chí Phèo chính là hiện tượng ngẫu nhiên trên mặt trận dân chủ, là “bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt”. Tác phẩm này đã thể hiện sự ấn tượng, tính đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sống nông thôn. Khi dựng lên bức tranh của riêng mình, Nam Cao đã tập trung vào mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị, người nông dân bị áp bức bóc lột. Có thể thấy, tương tự như Tắt đèn và Bước cùng, Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Mối quan hệ giữa địa chủ cường hào thống trị, người dân áp bức bóc lột đã bị đẩy đến xung đột cao nhất.
Chí Phèo đã được xây dựng bài bản, tỉ mỉ, tạo hình tượng hoàn chỉnh về giai cấp thống trị, tiêu biểu chính là Bá Kiến. Hắn hiện lên rõ nét với cách thể hiện sinh động, ấn tượng: “bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người”, “cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy”. Những chi tiết này cho thấy hắn có bản chất gian hùng “khôn róc đời”. Nam Cao cũng cho thấy tư cách nhem nhuốc, đó là thói ghen tuông của lão, háo sắc mà sợ vợ, cay đắng nhận ra mình đã già yếu mà bà Tư thì “cứ trẻ, cứ phây phây”, “nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ… khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng”. Đây là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ với người vợ lính vắng chồng. Tăng thêm sự thối nát của “cụ Bá”, Nam Cao đã sử dụng hình ảnh bà Tư “thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại “cứ bóp lên trên, trên nữa”. Mặc dù chỉ kể sơ qua một cách nhẹ nhàng, nhưng cũng đủ thấy được đời tư thối tha của lão cường hào.
Ngòi bút của tác giả tập trung vào soi sáng bản chất xã hội thông qua nhân vật, các mối quan hệ của người dân bị áp bức. Phần độc thoại nội tâm sinh động của “cụ tiên chỉ làng Vũ Đại” về “nghề tổng lí” cho thấy ông thấu tim đen của nhân vật, cũng rất hiểu về các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến lặng lẽ suy ngẫm về nghề thống trị, rút từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”…
Tên Bá Kiến còn có những chính sách dùng người: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò”, “thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (…). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn”. Tất cả những chi tiết này cho thấy hắn làm mọi cách để giữ được nghề thống trị. Tâm địa của Bá Kiến quả thực rất đáng sợ, thể hiện qua hành động nhẹ nhàng khích Chí đòi nợ đội Tảo, đẩy kẻ sẵn sàng đâm chém vào chỗ chém giết lẫn nhau, để kẻ nào sống “cũng có lợi cho cụ cả”. Bá Kiến lúc này quả thực đúng là một con hổ biết cười, tâm địa gian ác, xảo trá, bóc lột người nông dân đến tận cùng.
Nam Cao không lựa chọn cách thể hiện sự thống khổ của người dân bị bóc lột qua thuế, chiếm đoạt ruộng đất, quan tham, thiên tai,… Tất cả các tác phẩm của ông, không riêng gì Chí Phèo đều thể hiện rõ điều này. Nhà văn đã dùng một cách hoàn toàn khác, cho thấy người nông dân bị xã hội tàn phá về cả tâm hồn lẫn nhân tính, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Chí Phèo đã đại diện cho nỗi đau này, thể hiện điểm tiêu biểu: Không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không có cả tấc đất cắm dùi. Thậm chí, cả đời của Chí cũng chưa từng có bàn tay người phụ nữ chăm sóc. Anh đã bị xã hội rạch nát mặt, cướp linh hồn, bị loại bỏ khỏi xã hội loài người, phải sống trong cảnh tối tăm của thú vật.
Tác phẩm được mở đầu bởi hình ảnh sống động, với Chí Phèo vừa đi vừa chửi. Đằng sau một gã say rượu là nét bút tưởng đâu là ký họa gây cười. Nếu để ý, bạn có thể thấy được một linh hồn đầy đau đớn và tuyệt vọng. Thực ra, tiếng chửi của Chí Phèo không chỉ là lời bâng quơ, hắn “chửi trời” đến “chửi đời” rồi “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…” .Và hắn bỗng tức tối khi thấy “không ai lên tiếng cả”… Trong cơn say, hắn cảm thấy mơ hồ mà thấm thía nỗi khốn khổ của thân phận, không có một ai chửi lại hắn, chửi hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn là giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với mong muốn có một người nào đó chửi lại. Tuy nhiên, đáp trả lại những lời chửi này, chỉ có sự im lặng, một mình hắn với sự cô đơn, cứ “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!…
Cảnh mở đầu của truyện đã tăng tính hấp dẫn, thể hiện số phận bi đát của nhân vật. Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật, phổ biến, sản phẩm của quá trình áp bức bóc lột ở nông thôn Việt Nam trước đây. Hiện tượng những người nông dân lao động hiện lên, với sự khổ cực, sự áp bức bóc lột còn có thể biến cho một người nông dân thiện lành trở thành quỷ dữ. Ngòi bút hiện thực do ông vạch ra đã thể hiện những người khốn khổ đã phải giành lấy sự tồn tại bằng bán cả nhân phẩm, trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ bị bọn thống trị lợi dụng. Chí Phèo hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố “liều chết với bố con” lão. Tuy nhiên, chỉ cần nói vài lời ngọt ngào thì hắn đã ngay lập tức trở thành tay sai cho lão. Việc mỉa mai, đau xót có tính quy luật thể hiện ngòi bút phân tích sâu sắc do Nam Cao đặt ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố cáo mạnh mẽ của hình ảnh nhân vật Chí Phèo là làm nổi bật hiện tượng có tính quy luật hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công. Vấn đề xảy đến với Chí Phèo chính là vấn đề của nông dân, thể hiện khó khăn lớn, không tìm ra lối thoát, bị đẩy đến đường cùng.
Tác phẩm này ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ, hình ảnh lò gạch được xuất hiện ở đầu và cuối truyện. Rõ ràng, đó là nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm này. Lò gạch cũ cũng là biểu tượng tất yếu của hình tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm này.
Câu chuyện tình cảm giữa Chí Phèo và Thị Nở cũng được thể hiện vô cùng đặc biệt. Giọng văn Nam Cao có lúc chế giễu về chuyện tình bờ bụi theo “đôi lứa xứng đôi”, đây chính là truyện có nội dung cực kỳ nghiêm túc, chứa đựng tư tưởng nhân đạo.
Ban đầu, hai người gặp nhau một cách bất ngờ, trong đêm “rười rượi những trang”, có tàu chuối nằm ngửa ưỡn cong lên hứng lấy trăng xanh rười rượi như ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại dãy đành như “hứng tình:, Chí Phèo rất say và cảm thấy “bứt rứt”, “ngứa ngáy” da thịt, xông tới người đàn bà khốn khổ “dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn”. Thị Nở hốt hoảng kêu làng, “cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống”! Tuy nhiên, điều kỳ diệu đã xảy ra, Thị Nở đã dùng sự chăm sóc giản dị đầy ân tình, lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành. Đoạn văn đã viết về lòng thức tỉnh của Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, đó là đoạn tuyệt bút, với đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo, sâu sắc đầy bất ngờ của Nam Cao.
Vào buổi sáng hôm sau, Chí tỉnh dậy muộn, lòng bâng khuâng, mơ hồ buồn. Lần đầu tiên, hắn cảm nhận được tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng gõ thuyền chài đuổi cá. Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống bỗng trở thành tiếng vang vọng, làm tâm hồn hắn xao động. Đây cũng là tiếng làm Chí tỉnh táo, mơ ước về quyền được làm người thiện lương. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như tia chớp trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo, hắn thấy cuộc đời mình như có ánh sáng mới, với “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Bây giờ, Chí Phèo đã nhận ra sự hiện hữu của bản thân, đối mặt với chính mình, đồng thời cùng nhận ra sự bế tắc trong thân phận của chính bản thân. Thấy Thị bưng bát cháo hành, hắn “rất ngạc nhiên: và hết sức xúc động bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Nhận bát cháo từ tay Thị Nở, bỗng nhận thấy cháo hành ngon, cảm nhận được hương vị tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị. Lần đầu tiên, Chí mắt “như ươn ướt:, “”ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình”.
Lòng yêu thương, tình người chân thành đã khiến cho bản chất đẹp đẽ bên trong Chí Phèo được sống lại. Bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động bấy lâu nay bị vùi lấp nhưng không tắt hẳn. Bọn cường hào và nhà tù thực dân trong xã hội tàn bạo đã giết chết chết bản tính tốt đẹp của Chí, khiến hắn không thể mãi hiền lành và trong trắng, phải lâm vào cướp giật, ăn vạ và đâm chém. Muốn làm những điều này, hắn và những người cùng cảnh phải tìm đến rượu, để lúc tỉnh lúc say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Suy cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm cho hành động của mình, linh hồn của anh đã bị cướp đi.
Hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh Chí, linh hồn anh cũng đã được trở về. Anh cảm thấy “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Chí đã như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn. Tình cảm của Thị Nở đã mở cho anh con đường trở lại làm người, với nhiều sự hy vọng.
Không dưới một lần, Nam Cao viết về mối tình của những kẻ bị xã hội miệt thị, lăng nhục: Lang Rận – mụ Lợi, Đức – Nhi, Chí Phèo – Thị Nở… Giọng văn vẫn đảm bảo tính khách quan, nhưng cũng không kém phần dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những người bất hạnh. Mặc dù sống trong hoàn cảnh xã hội bị mọi người hắt hủi, bị rơi vào thế nhục nhã, thành cái đích cho mũi tên chế giễu của người đời, Nam Cao vẫn bênh quyền được yêu, khẳng định tính chính đáng của những mối tình như vậy. Tình yêu thương tuy đơn giản, thô lỗ của Thị Nở đã khơi gợi tâm hồn lương thiện ẩn sâu bên trong Chí Phèo. Đó là tình yêu đích thực của con người, rất lành mạnh và trong sáng, tràn đầy tình yêu thương. Nghệ thuật này đã được xử lý bởi tư tưởng nhân đạo, đó là bút lực phi thường của Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và sức hút của tác phẩm thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn. Người ta coi Chí Phèo như bi kịch số phận, hắn vốn muốn trở lại làm người nhưng lại bị cự tuyệt. Hắn thấy thái độ của mọi người xung quanh đối với mình đã vô cùng đau đớn. Hắn lại uống, thật lạ là sau khi nghe bà cô của Thị Nở, hắn “càng uống càng tỉnh ra”. Tâm thức của Chí lúc này vẫn điềm tĩnh, hắn đau cho thân phận của mình, “hắn ôm mặt khóc rưng rức”.
Sau cùng, Chí Phèo nhận ra được kẻ thù đích thực của mình là sai chỉ sau cái quay lưng của Thị Nở, có lẽ hắn biết được mình đã không thể thành người được nữa. Lão Hạc bề ngoài lẩm cẩm, nhưng lặng im tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường. Lang rận cũng tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường vì không chịu được điều nhục nhã đang chờ mình. Vậy còn Chí Phèo thì sao?
Chí Phèo đã kết liễu Bá Kiến, sau đó chọn cách tự sát. Hắn chết quằn quại trên vũng máu, trong niềm đau thương vô hạn. Hắn khao khát được làm người lương thiện, nhưng cuối cùng lại không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo vừa đanh thép, vừa chất chứa biết bao điều phẫn uất “Ai cho tao lương thiện?”. Đó quả thực là một câu hỏi mở, Bá Kiến không thể hiểu, thậm chí xã hội lúc bấy giờ cũng không thể trả lời cho điều này. Câu hỏi này day dứt trong hầu hết các tác phẩm của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, đưa Chí Phèo trở thành tác phẩm hay nhất của văn xuôi Việt Nam.
Nghị luận về tác phẩm truyện Chí Phèo
Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại.
Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao.
Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.
Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc hoạ bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến doạ nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc hoạ đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sớng động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng tám.
Về nhân vật chính diện nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuát than đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.
Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai hoạ.
Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hoà với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại.
Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng mọt lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ýnghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.
Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật.
Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫn điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.