TOP 10 bài Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người 2025 SIÊU HAY

327

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người

Đề bài: Thảo luận về một vấn đề đáng quan tâm trong đời sống phù hợp với lứa tuổi (được gợi ra từ tác phẩm văn học) - ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người.

5+ Thảo luận về Vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của tiếng Việt (điểm cao)

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người - Mẫu 1

Thơ ca đã từ lâu trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Với ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp điệu của loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình, có thanh điệu, thơ ca đã góp phần làm phong phú thêm tâm hồn, tạo nên những khoảnh khắc tinh tế và sâu sắc cho con người trong cuộc sống hàng ngày. Qua thơ, người Việt tìm thấy niềm vui, sự an ủi, và cảm hứng để đối mặt với khó khăn, thử thách. Thơ cũng là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống với hiện đại, giúp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Trong từng giai đoạn lịch sử, thơ ca còn thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí bất khuất của người Việt, đồng thời mở ra không gian để mỗi người được bày tinh thần nhân đạo sâu sắc. Như vậy, thơ ca không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tạo mà còn là nguồn sức mạnh tinh thần, giúp con người Việt Nam gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Khi tiếng nói của còn chập chững, những vần thơ ca dao đã cất tiếng hát, vang vọng tâm hồn bình dị, chất phác của người lao động Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, ca dao vẫn giữ vị trí độc tôn trong kho tàng văn học dân gian, là minh chứng cho sức sáng tạo và trí tuệ phi thường của người Việt trong lĩnh vực thơ ca. Ra đời trước cả chữ viết, ca dao là tiếng nói chung của cộng đồng, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, đạo đức, tình cảm của người Việt. Những câu ca dao mộc mạc, giản dị nhưng chứa đựng niềm yêu lao động, yêu quê hương đất nước, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, và cả những ước mơ, khát vọng bình dị của con người. Thể thơ lục bát được sử dụng chủ yếu trong ca dao bởi nó gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Nhịp thơ chẵn với những vần lưng và vần chân liên tục dễ thuộc đã khiến ca dao trở nên gắn bó với đời sống con người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ca dao không chỉ là tiếng lòng của người lao động, mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhà văn. Từ ca dao, những áng thơ văn bất hủ được ra đời, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học nước nhà. Ngày nay, dù xã hội đã phát triển hiện đại, ca dao vẫn giữ nguyên giá trị và vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ca dao là lời nhắc nhở về cội nguồn, về những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp cần được gìn giữ và phát huy.

Thơ ca trung đại Việt Nam là một bức tranh đa sắc, phản ánh nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó nổi bật là lòng yêu nước và tinh thần nhân đạo. Khi đất nước lâm nguy, lòng yêu nước được thể hiện qua những lời thề quyết chiến, quyết thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền non sông. Tiêu biểu là bài thơ "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt với khí phách hào hùng, khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc. Hay trong thơ ca thời Trần, "hào khí Đông A" vang dội thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng quân Nguyên Mông trong bài “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bên cạnh đó, tinh thần nhân đạo cũng là một giá trị nhân văn cao đẹp được thể hiện trong thơ ca trung đại. Khi xã hội phong kiến khủng hoảng, nhiều giá trị đạo đức bị đảo lộn, thơ ca đã lên tiếng đồng cảm với những số phận bất hạnh, là tiếng nói bênh vực cho những người yếu thế. Tiêu biểu là các tác phẩm "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, hay "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du. Thơ ca trung đại đã góp phần khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần nhân đạo trong mỗi người dân Việt Nam. Những vần thơ hào hùng, những tiếng lòng đồng cảm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, là nguồn sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Lịch sử chứng kiến những cuộc giao lưu văn hóa có vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và phong phú thêm quan niệm thơ ca. Những cuộc giao thương, di dân, hội nhập mang đến cho thơ những luồng gió mới, thúc đẩy sự phát triển và biến đổi trong quan niệm sáng tác. Sự giao thoa văn hóa ảnh hưởng đến thơ ca như thế nào? Có thể nói, sự giao thoa đã mang đến những quan niệm mới, góc nhìn mới và thúc đẩy sự sáng tạo về thơ: Khi văn hóa Việt cọ xát với văn hóa Pháp, những quan niệm thẩm mỹ mới được du nhập, tác động đến cách nhìn nhận và sáng tác thơ ca. Ví dụ, sự du nhập của văn hóa phương Tây vào Việt Nam đầu thế kỷ XX đã góp phần thúc đẩy phong trào Thơ mới, với những quan niệm mới về thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, và cả quan niệm về cái đẹp. Giao thoa văn hóa giúp các nhà thơ tiếp cận với những cách nhìn nhận mới về thế giới, về con người, từ đó khơi nguồn cảm hứng sáng tác và tạo nên những tác phẩm độc đáo. Việc tiếp xúc với những nền văn hóa khác nhau khơi gợi sự sáng tạo, giúp các nhà thơ tìm tòi, thử nghiệm những phương thức biểu đạt mới, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ thơ ca. Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) là ví dụ điển hình cho sự ảnh hưởng của giao thoa văn hóa trong thơ ca. Thơ mới chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, thể hiện qua sự đổi mới về thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, và quan niệm về cái đẹp. Các nhà thơ Thơ mới hướng đến thể hiện cái tôi cá nhân, chú trọng đến cảm xúc và những rung động nội tâm. Năm 1921, Phạm Quỳnh trong bài viết “thơ là gì?” sau khi phân tích nguyên tắc nguồn gốc của thơ theo tinh thần tiếp thu văn hóa Phương Tây, đã viết: “Nói tóm lại thời thơ là uyên nguyên ở âm nhạc âm thầm mà cứu cánh ở triết lí sáng sủa” . Câu trên có thể viết lại theo văn phong hiện đại là như thế này: Tóm lại thì, thơ có gốc xuất phát âm thầm từ nhạc tính nhưng mục đích cuối cùng là ở tư tưởng triết lí sáng rõ. Như vậy, mục tiêu triết lí sáng sủa của thơ ca chính là quan niệm mới từ phương Tây, so với tình cảm, âm điệu và ý nghĩa của quan niệm thơ phương Đông. Giao thoa văn hóa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của thơ ca. Nó mang đến những quan niệm mới, khai mở những góc nhìn mới, và thúc đẩy sự sáng tạo, góp phần làm phong phú thêm diện mạo của thơ ca qua từng giai đoạn lịch sử.

Thơ ca Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã thực hiện một sứ mệnh lịch sử cao đẹp: cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, đồng thời phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ - thi sĩ. Sứ mệnh cổ vũ, động viên trong thơ trước hết là tiếng nói của lòng yêu nước, thể hiện niềm tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm chiến đấu và tinh thần hy sinh anh dũng của quân và dân ta. Những bài thơ như "Sáng tháng năm" (Tố Hữu), "Việt Bắc" (Tố Hữu), "Đất nước" (Nguyễn Khoa Điềm) đã trở thành những khúc ca hùng tráng, khơi dậy lòng yêu nước và ý chí chiến đấu trong mỗi người dân Việt Nam. Ngoài ra, sứ mệnh phản ánh vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ - thi sĩ cũng là một sứ mệnh của thơ ca Cách mạng Việt Nam.  Nhiều tập thơ, bài thơ ra đời trong thời gian 1945-1975 đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ: dũng cảm, kiên cường, lạc quan, yêu nước, yêu thương đồng đội. Đồng thời, nhiều tác phẩm cũng thể hiện những rung động tinh tế của tâm hồn người chiến sĩ: nỗi nhớ quê hương, người thân, tình yêu đôi lứa, và niềm khao khát hòa bình. Có thể khẳng định, thơ ca trong hai cuộc kháng chiến đã góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc. Thơ ca đã cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, đồng thời phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ - thi sĩ.

Thế giới của chúng ta còn nhiều cách biệt giữa các dân tộc, nhưng thơ ca chính là cầu nối, là bàn tay chân thành, là giọng nói ấm áp giúp chúng ta tìm đến nhau, cảm thông và thấu hiểu nhau hơn. Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn, cũng như thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của mỗi dân tộc. Thơ ca là tiếng nói chung của nhân loại, vượt qua mọi rào cản về ngôn ngữ, văn hóa và địa lý. Những vần thơ chứa đựng những cảm xúc chân thành, những rung động tinh tế của con người trước cuộc sống. Thơ ca giúp chúng ta hiểu được những niềm vui, nỗi buồn, những ước mơ và khát vọng của con người ở mọi nơi trên thế giới. Năm 1912, tập “Thơ Dâng” của nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore xuất bản ở Anh và đã tạo nên những mối đồng cảm to lớn từ các nhà thơ Châu Âu khiến họ phải thốt lên những lời có cánh: “Tôi đọc nó trên tàu, trên đỉnh núi, trong các tiệm ăn và tôi thường phải dùng nó để che giấu những người lạ khỏi nhìn tôi kẻo họ sẽ thấy tôi đang xúc động đến mức nào. Những bài thơ trữ tình đó đã chỉ ra một thế giới mà tôi từng mơ thấy từ rất lâu” (William Yeats, thi hào Ireland); “Khi rời Tagore, tôi cảm thấy dường như mình là một tên man rợ mặc da thú và cầm chùy đá vậy” (Ezra Pound- nhà thơ Mỹ); “Không có nhà thơ ở châu Âu nào kể từ cái chết của Goethe vào năm 1832 có thể sánh được với Tagore về nhân cách cao cả, về sự vĩ đại tự nhiên, về sự thanh thoát hài hòa” (thư kí Hội đồng giải Nobel). Ở Việt Nam, năm 1929, nhân sự kiện Tagore ghé thăm Sài Gòn trong ba ngày (từ 21/6) và nghỉ tại khách sạn Continental, nhà thơ Đông Hồ đã dịch bài số 35 và bài số 36 trong tập "Thơ Dâng" của Tagore ra thơ song thất lục bát. Thơ ca cũng là cầu nối để chúng ta chia sẻ những giá trị văn hóa và tinh thần của mỗi dân tộc. Qua những bài thơ, chúng ta có thể khám phá những nét đẹp độc đáo trong văn hóa, phong tục tập quán và lịch sử của mỗi quốc gia. Mỗi đời tổng thống Mỹ khi đến Việt Nam điều mượn một câu thơ trong truyện Kiều để bày tỏ sự chân thành đồng thời cũng khái quát được tình hình quan hệ hai nước. Thơ ca giúp chúng ta xích lại gần nhau hơn, tạo nên sự đồng cảm và thấu hiểu giữa các dân tộc. Trong thế giới ngày nay, khi mà những mâu thuẫn và xung đột vẫn còn xảy ra, thơ ca chính là tiếng nói hòa bình, là lời kêu gọi cho sự đoàn kết và yêu thương giữa con người. Hãy đọc thơ, hãy chia sẻ những vần thơ hay với nhau để thế giới của chúng ta trở nên gần gũi, thân thiện và tràn đầy yêu thương hơn.

Trong nhịp sống hối hả của xã hội hiện đại, thơ ca vẫn giữ một vị trí xứng đáng trong tâm trí độc giả. Những vần thơ hay, ý thơ đẹp giúp chúng ta tìm thấy sự thanh thản, bình yên trong tâm hồn, đồng thời mở rộng tầm nhìn và cách nhìn về cuộc sống. Đối với các em học sinh, thơ ca là nguồn tri thức vô giá, giúp các em trau dồi vốn từ, rèn luyện khả năng cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật. Thơ ca cũng giúp các em hiểu thêm về lịch sử, văn hóa, truyền thống của dân tộc, từ đó nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc. Hãy đến với thơ ca, mở rộng tâm hồn đón nhận những vần thơ hay, ý thơ đẹp để cuộc sống thêm phong phú và thi vị hơn. Thơ ca sẽ là người bạn đồng hành cùng chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc đời.

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người - Mẫu 2

Chào cô và các bạn. Em tên là Nguyễn Văn B, hôm nay em sẽ thảo luận với cả lớp về vai trò của thơ ca trong cuộc sống.

Thơ ca là sáng tạo đặc biệt của con người. Nó là những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại trang điểm cho cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó. Thơ ca đã có mặt cùng với sự phát triển của nhân loại suốt bao thời kì lịch sử và người ta cũng bắt đầu chú ý đến những vai trò, tác dụng kì diệu của nó đối với cuộc sống, đối với tâm hồn con người. Hiểu được vai trò, tác dụng của thơ ca để con người chúng ta nghiêm túc hơn trong sáng tác, trân trọng hơn trong tiếp nhận, để thơ ca có thể phát huy hết vai trò cao quý của nó: làm cho cuộc sống phong phú hơn, đẹp đẽ hơn, nhân văn hơn.

Bất cứ phong cách ngôn ngữ nào cũng có chức năng riêng của nó. Thơ ca thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ đời sống để đạt được giá trị nghệ thuật, thẩm mĩ cao nhất. Nó không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.

Chức năng thông tin nói cụ thể chính là giá trị tư tưởng, nhận thức và giáo dục của thơ ca. Bằng những ngôn từ đặc sắc có sắp xếp một cách cách khéo léo, thơ ca dễ dàng tác động đến nhận thức, tư tưởng của con người. Chính vì thế nó gửi gắm những giá trị đạo đức nhân sinh một cách khéo léo, tinh tế. Đó không bao giờ là những tri thức khô khan, giáo điều mà là những lời nhắn nhủ chân thành, gần gũi nhất. Những bài học về lối sống, về cách nhìn nhận thế giới, nhận xét con người, cả những kinh nghiệm trong lao động, trong ứng xử đều thể hiện dưới những hình thức ngôn từ tinh tế, uyển chuyển. Chúng ta hãy lắng nghe lời nhắn nhủ của đại thi hào Nguyễn du từ mấy trăm năm trước:

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

Đó là một chiêm nghiệm của người đã từng trải qua bao cuộc bể dâu, là triết lí rút ra từ thực tế đời sống, cô đúc thành bài học nhân sinh sâu sắc nhưng rất dễ cảm thông, dễ tác động vào nhận thức của con người. Truyện Kiều còn hàm chứa bao nhiêu bài học nhân sinh sâu sắc nhưng nó chưa bao giờ là một cuốn sách luận lí khô khan. Thế mới biết rằng thơ ca góp phần nâng cao tri thức đời sống bằng chính cách riêng của nó mà hiệu quả thì không thua bất cứ hình thức truyền đạt nào.

Bên cạnh chức năng nhận thức, giáo dục, thơ ca còn có chức năng giao tiếp, biểu đạt và truyền cảm. Chức năng này vô cùng quan trọng vì kể cả khi thơ ca muốn gửi gắm một bài học, một tri thức thì nó cũng gửi gắm bằng cái giọng tình cảm, thiết tha. Giá trị biểu cảm là giá trị đặc trưng của thơ ca. Nó bắt đầu bằng những cảm động của tâm hồn thi nhân trước cuộc sống, truyền tải qua đường dẫn là ngôn từ nghệ thuật và rồi đến và lay động tình cảm của người đọc. Chính vì thế con người chúng ta không chỉ hiểu biết về cuộc đời, lối sống của cha ông mình thuở trước mà còn có những cảm xúc, những tự hào, những căm phẫn theo dòng diễn tả của thi ca. Chức năng này làm cho thơ ca có sức mạnh và sức sống vượt ra ranh giới không thời gian, tác động mãnh liệt vào trái tim con người. Những tác phẩm của Lí Bạch, Đỗ Phủ đâu chỉ tác động đến tình cảm của người Trung Quốc thời đại nhà Đường mà nó còn lay động con tim của độc giả thế giới nhiều thế kỉ sau. Tác động tình cảm của văn chương giúp mối giao tiếp giữa người và người mở rộng đường biên đến vô cùng, vô tận và còn là những mối giao tiếp chân thành nhất, vô vụ lợi nhất, đẹp đẽ nhất.

Cuối cùng và cũng là một vai trò, chức năng quan trọng nhất của thơ ca đó chính là tính thẩm mĩ. Thơ ca là một loại hình nghệ thuật nên tính thẩm mĩ là đặc trưng của nó. Từ đặc trưng này, thơ ca có tác động mạnh mẽ đến năng lực thẩm mĩ của con người. Nó giúp con người nâng cao khả năng cảm thụ cái đẹp, cái đẹp của ngôn từ và qua ngôn từ sẽ cảm nhận những cái đẹp của thế giới khách quan. Khi ta đọc những câu thơ:

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Trước hết tâm hồn ta rung cảm trước một bức tranh thiên nhiên tươi tắn, tinh khôi. Rồi chúng ta cảm nhận sự khéo léo tinh tế trong cách dùng từ, cách phối thanh, ngắt nhịp của một bậc thầy ngôn ngữ thi ca. Cái đẹp giúp cho con người rung cảm, thanh lọc tâm hồn và hướng về cái chân, thiện, mĩ. Để làm được điều đó, thơ ca phải chú trọng đến hình thức nghệ thuật của nó. Nó cần sự rung động thật sự của thi nhân, cần tài hoa và cả sự nghiêm túc của người cầm bút. Thơ ca không phải là sản phẩm của những người thợ, nó là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.

Thơ ca đã đồng hành cùng cuộc sống con người từ thuở bình minh của những nền văn hóa. Nó mang đến những hiểu biết về nhiều mặt của đời sống, nó tác động và nâng cao những tình cảm nhân văn, nó làm đa dạng thêm khả năng cảm thụ thẩm mĩ của con người. Những tri thức, tình cảm và cái đẹp mà nó mang đến làm cho cuộc sống thêm phong phú, thêm đẹp đẽ và làm cho con người gần gũi nhau hơn. Chính vì thế, dù thế giới không ngừng vận động và đã có nhiều sản phẩm, nhiều giá trị mai một với thời gian nhưng thi ca thì mãi mãi gắn liền với tâm hồn nhân loại.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc, em rất mong nhận được sự góp ý của cô và các bạn để bài nói của em hoàn thiện hơn.

5+ Thảo luận về Ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người (điểm cao)

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người - Mẫu 3

Trong cuốn Đa-ghe-xtan của tôi, Raxun Gamzatốp viết: Thơ ca, nếu không có người, tôi đã mồ côi. Gamzatốp muốn nói đến sự mồ côi trên phương diện tinh thần và chính điều này khiến chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của thơ ca đối với cuộc sống con người.

Đã có rất nhiều định nghĩa về thơ nhưng chung quy lại, có thể hiểu thơ là tiếng lòng của mọi con người, thơ khởi phát từ lòng người. Thế giới vẫn đang vận động theo hướng hiện đại hoá nhưng dù loài người có đạt đến trình độ siêu hiện đại hoặc hơn nữa, con người cũng không thể cạn kiệt nguồn xúc cảm trong mình. Đó là lý do tại sao trong các sáng tác của văn học hậu hiện đại, thơ vẫn chiếm vị trí quan trọng.

Chính vì thơ là tiếng lòng, là sự chín đỏ của cảm xúc (Xuân Diệu) nên thơ có ý nghĩa cực kì quan trọng trong cuộc sống này. Nhà thơ làm thơ để giãi bày tình cảm, để thổ lộ nỗi lòng của chính mình. Khi những xúc động mạnh mẽ, những suy nghĩ thầm kín, những tư tưởng sâu sắc và những tình cảm dâng trào, thơ và tâm hồn nghệ sĩ sẽ gặp nhau. Đó là lý do khiến nhiều người chỉ làm thơ cho chính mình, hoặc cho người hiểu mình đọc. Khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến dường như không muốn viết thơ nữa bởi Viết đưa ai, ai biết mà đưa? Không gửi được những nỗi niềm, tâm sự trong lòng vào thơ, chắc chắn con người sẽ mất đi những rung cảm tinh tế - như Xuân Quỳnh đã viết trong Nếu ngày mai em không làm thơ nữa:

Mưa xuân vẫn ướt áo sương
Lòng em vẫn nhớ vẫn đong đầy cảm xúc
Xuân về phai phôi nỗi nhớ
Không vui khi nắng hè vội đến

Thơ trước hết là phương tiện để con người thể hiện xúc cảm của mình. Nhưng nếu những cảm xúc đó bị kín đáo trên trang giấy, thì vần thơ sẽ không kéo dài được. Trong cuộc sống, con người không chỉ tự trải nghiệm mà còn muốn chia sẻ, tìm sự đồng cảm từ những tâm hồn khác. Thơ là ngôn từ của những trái tim đồng điệu, như Tố Hữu đã viết. Vì thế, Nguyễn Du kết thúc Độc Tiểu Thanh kí với câu hỏi:

Ai biết có lẽ sau này đến bấy giờ còn ai nhớ đến Tố Như?

Khi viết Bên kia sông Đuống, Hoàng cầm không chỉ diễn đạt nỗi xúc động của mình khi nghe tin quê hương bị nước giặc xâm lược. Ông muốn chia sẻ và tìm sự đồng cảm từ mọi người. Trong thơ, nỗi buồn sẽ được giảm nhẹ, và niềm vui sẽ được nhân đôi.

Đối với người nghệ sĩ, làm thơ cũng là cách họ thể hiện tư duy, cảm xúc của mình qua nghệ thuật. Xuân Diệu đã tạo ra những câu thơ mới mẻ như Tháng giêng ngọt như môi gần hay Hỡi xuân hồng, ta muốn ôm ngươi. Nếu thơ không có phong cách riêng (Sóng Hồng), tình cảm của người nghệ sĩ sẽ mất đi dấu ấn và không gây ấn tượng với độc giả.

Nếu thơ có khả năng tái hiện thế giới cho người nghệ sĩ, thì cũng chính là nơi mà độc giả có thể khám phá thế giới. Đọc thơ của Xuân Diệu, độc giả như được đưa vào thiên đường trên đời, hoặc chia sẻ tình yêu qua những câu thơ của Puskin. Tâm hồn và tri thức của con người sẽ được mở rộng khi tiếp xúc với thơ ca.

Thơ không chỉ làm cho tâm hồn, trí tuệ của con người giàu có và phong phú mà còn là nguồn động viên, sức mạnh để người ta đứng dậy và tiến lên. Đọc thơ, người đọc có thể cảm nhận mọi tình cảm, cảm xúc, và tìm thấy sự thanh lọc cho tâm hồn của mình. Thơ giúp ta thấy mình cao thượng hơn, khát khao một cuộc sống đẹp và ý nghĩa hơn. Điều này được thể hiện qua những dòng thơ của Hoàng Trung Thông và sự hiểu biết của chúng ta về thơ của Bác:

Đọc nghìn bài, nghìn tâm hồn đẹp

Ánh sáng soi đầu trần xanh ngát.

Thơ của Bác, sắc thép

Vẫn sâu lắng, tràn đầy tình yêu

Thơ xuất hiện trong cuộc sống từ khi nào, không ai có thể chắc chắn. Nhưng một sự thật không thể phủ nhận là thiếu thơ, cuộc sống sẽ trở nên cằn cỗi, tâm hồn con người sẽ nghèo nàn hơn. Để hiểu rõ hơn vai trò và ý nghĩa của thơ, nhà thơ cần có trách nhiệm cao hơn trong việc sáng tạo. Sứ mệnh của nhà thơ không chỉ là biểu đạt cảm xúc cá nhân mà còn phải thấu hiểu và chia sẻ nỗi đau, nỗi buồn của hàng triệu trái tim. Chỉ khi đó, tác phẩm của họ mới thực sự sống động và mạnh mẽ. Điều này đã được thể hiện qua thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch, và sức sống kéo dài của Puskin. Đối với độc giả, đánh giá cao một tác phẩm nghệ thuật thể hiện sức mạnh của thơ là điều cần thiết nhất. Hơn nữa, mỗi người cũng nên làm giàu tâm hồn bằng thơ và nâng cao khả năng cảm nhận bằng cách đánh giá mỗi bài thơ: một bài thơ hay phải thể hiện cái riêng của tâm hồn và là tiếng đồng cảm của muôn vàn trái tim.

Nhận ra vai trò, tầm quan trọng của thơ đối với cuộc sống con người, ta sẽ hiểu tại sao Raxun Gamzatốp đã nói: Cuộc sống sẽ tối sầm nếu thiếu thơ.

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người - Mẫu 4

Trong rất nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, văn chương là một phần không thể thiếu đối với mỗi con người. Trong mỗi chúng ta, hẳn ai cũng nhận ra văn chương là sự sáng tạo. Đặc biệt với thơ ca, đó là một yêu cầu không thể bỏ qua. Thơ ca là sự sáng tạo mới, được tạo ra từ hiện thực của cuộc sống. Đó là mảnh đất màu mỡ để các nhà thơ gieo mầm tư tưởng, để tác phẩm của họ trở thành của nhân loại mãi mãi.

Tuy nhiên, làm được điều đó không hề dễ dàng, đã có không ít thế hệ nhà văn phải đối mặt với những khó khăn, thử thách do sự lựa chọn khắt khe của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng. Như Nguyễn Bính đã từng than thở:

“Ai nói dấu vết bút mực
Duyên thơ theo đuổi suốt đời”

Và từ đó, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn vai trò to lớn của các nhà thơ trong sự nghiệp sáng tác của mình. Nhà văn R. Gamzatốp đã từng nói về vai trò của thơ ca, cho rằng:

“Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc xây dựng thế giới thì thế giới sẽ không trở nên tươi đẹp như thế này... Thiếu thơ ca, thế giới không thể tồn tại.”

Dựa trên kinh nghiệm của mình, nhà văn đã đưa ra một nhận định thuyết phục về vai trò của các nhà thơ trong cuộc sống này. Một lần nữa, vị thế của các nhà thơ được nâng cao lên một tầm nhìn mới, rộng lớn hơn.

Đúng vậy, như câu “Thơ là bức tranh cuộc sống cao đẹp”(Sóng Hồng) đã nói. Vì thế mới có câu “Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc xây dựng thế giới thì thế giới sẽ không trở nên tươi đẹp như thế này.”

Cuộc sống hàng ngày vẫn diễn ra với những điều quen thuộc của nó nhưng chỉ thông qua thơ ca, con người mới có thể khám phá ra những vẻ đẹp tinh tế mà trước đây chưa từng được phát hiện. Như Hoàng Đức Lương đã nói: “Thơ là vẻ đẹp bên ngoài vẻ đẹp, hương vị bên ngoài hương vị, không thể nhìn thấy bằng đôi mắt thông thường, nếm bằng miệng thông thường, chỉ có thi nhân mới có thể nhìn thấy đẹp, nếm thấy ngon”. Và thơ là như vậy, các nhà thơ xây dựng thế giới này bằng những khám phá mới của họ.

Thơ ước lượng giá trị cao quý của sự thuần túy, không phải là sự cao xa của một thế giới tưởng tượng, mà chính là sự tinh khiết ở giữa cuộc sống mà con người phải chiến đấu để bảo vệ. Chính vì vậy, thơ có khả năng làm xao lãng lòng người.

Từ trong những câu ca dao dân gian, thơ đã làm phong phú thêm tâm hồn người lao động. Họ không chỉ có cuộc sống hàng ngày nhàm chán mà còn ẩn chứa những tưởng tượng về tình yêu đôi lứa đầy hấp dẫn:

“Đêm qua tát nước bên nhà
Bỏ quên chiếc áo trên cành đào đào
Anh rơi mất, em cứu đây
Hay là em giữ lại cho chờ anh”

Với thơ ca hiện đại, thế giới trở nên sáng sủa hơn rất nhiều với những bài thơ xuất sắc được truyền bá qua nhiều thế hệ. Thơ ca dẫn dắt con người đến cái : chân - thiện - mỹ. Và nếu không có các nhà thơ, liệu thế giới kỳ bí này có được khám phá đến sâu đến như vậy không? Chắc chắn không ai không biết đến điều đó.

Đọc những câu thơ, tâm hồn ta như được mở rộng trước thế giới thực và ảo. Chính thế giới ấy mới là mục tiêu chúng ta nên hướng đến, từ đó con người có thể có những hướng đi chính xác trên con đường của mình.

Chính là Chính Xuân Diệu, một nhà thơ mới nổi trong làng văn chương, để lại trong lòng độc giả những dấu ấn khó phai, qua những khám phá về cuộc sống đời thường - một bữa tiệc của trần thế mà không phải ai cũng nhận ra:

“Đây là tổ ấm của ong bướm tuần tháng mật
Đây là những chiếc lá xanh tốt của đồng rừng
Đây là hạnh phúc của yến anh, khúc tình si”

Chính là những món quà tuyệt vời mà thiên nhiên tặng cho chúng ta ngay trước mắt, nhưng chỉ khi đi vào thế giới của ông, độc giả mới thấy được vẻ đẹp của cuộc sống và nhận thức được triết lý mới của nhà thơ: cần phải biết trân trọng từng khoảnh khắc, để tận hưởng cuộc sống và cống hiến vì thời gian, vì tuổi trẻ không bao giờ trở lại. Nhờ đó, nhà thơ đã tạo ra một thế giới mới, nơi con người có thể hiểu rõ hơn về giá trị của cuộc sống này. Và từ đó, con người mới thực sự biết sống để cống hiến cho cuộc sống.

Mỗi nhà thơ đều góp phần làm phong phú thêm di sản văn chương dân tộc, mỗi người đều mang đến những khám phá và quan điểm riêng biệt, mới lạ về cuộc sống này. Có thể là việc thoát khỏi những điều bình thường, từ bỏ những quy tắc để mở rộng tâm hồn theo hướng tiên nhân, giống như trong bài thơ của Nguyễn Trãi:

Một mình tôi lặng lẽ, kín phòng thơ
Không ai gần kề, không ai làm phiền
Trong tiếng vang của tổ quốc, xuân đã muộn
Trên sân đầy mưa, bụi, hoa xoan nở rộ”

Hóa ra những nhà thơ đóng cửa phòng văn không phải để cô lập tâm hồn mà là để hòa mình vào thiên nhiên, khám phá ra vẻ đẹp tinh khôi, trong trẻo của cuộc sống. Hoặc có thể là hướng đi khác, quay về với quê hương như trong thơ của Nguyễn Bính. Ông đã khám phá những nét đẹp chân thật, mộc mạc của cuộc sống ở làng quê:

“Hoa chanh nở rộ giữa vườn chanh
Thầy u mình cùng chúng mình bên làng quê”

Thật sự, Nguyễn Bính đã dẫn dắt chúng ta đến với vẻ đẹp của làng quê mà ít ai chú ý. Và ở đây, chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp của mùa thu qua những tác phẩm của Nguyễn Khuyến, từ nhiều góc độ và trải nghiệm khác nhau:

“Trời thu xanh biếc bao la cao nguyên
Cành tre rung nhẹ dưới làn gió mát
Dòng nước xanh trong như tầng mây trôi
Cành cây rải bóng trăng vào trong cõi lòng.”

(Tản vịnh thu)

Và,

“Ao thu im lìm, nước trong veo mờ mịt
Một chiếc thuyền nhỏ du dương trên sóng”

(Tản vịnh mùa thu)

Tất cả, mỗi đóng góp của các nhà thơ đã tạo ra một thế giới đầy màu sắc và huyền bí như thế này. Thế giới thơ ca là nơi tràn đầy sức sống và sự bất ngờ, nơi vẻ đẹp tuyệt diệu được khám phá và phô diễn nhờ vào sự kết nối ấy.

Vì vậy, như R. Gamzatốp đã nói: “Thiếu thơ ca, không gì có thể trở thành chính nó”. Các nhà thơ là những người ghi chép trung thành của thời đại, và thơ ca là gương phản chiếu sâu sắc của tâm hồn con người.

Chạy theo ảo mộng, trốn tránh, lạc lõng, thơ ca không thực hiện đúng vai trò của mình là phản ánh cuộc sống. Do đó, những nhà thơ tìm kiếm nguồn cảm hứng cho thơ trong những chủ đề vĩnh cửu như sự sống, tình yêu, ... Nhưng không mô tả quá cụ thể về cuộc sống hàng ngày. Theo họ, thơ không thể mô tả được cuộc sống bình thường, vụn vặt, vì điều đó sẽ làm mất đi phẩm chất thơ, không thể bay cao, bay xa được. Do đó, hiện thực được phản ánh trong thơ dưới góc nhìn chủ quan của người viết. Nhà thơ phản ánh hiện thực và luôn mở ra một lối thoát khi nó là sự thật khắc nghiệt.

Có thể nói, vai trò của thơ là để làm sáng tỏ sự thật, phơi bày sự thật, vì vậy thiếu thơ, không gì có thể tự trở thành chính nó. Chúng ta - những người sống trong thế kỷ XXI, có thể hiểu được nỗi lòng, tâm trạng của nhiều thế hệ trước đó cách đây hàng ngàn năm. Câu chuyện bi thương của người phụ nữ trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du vẫn làm rung động lòng người đến ngày nay.

Đọc Truyện Kiều, chúng ta hiểu hơn về xã hội thời kỳ đó, sự hỗn loạn khiến cuộc sống đầy biến động, bất ổn. Đặc biệt là đối với phụ nữ, họ phải chịu nhiều khó khăn, đau thương, và họ kêu gọi:

“Phận phụ nữ đau khổ
Mọi lời than trách đều là chung”

Như vậy, từ thơ dân gian, thời Trung đại đến những bài thơ hiện đại, thơ vẫn là phản ánh của cuộc sống hiện thực. Mọi thứ đều là “chính nó”. Sự khốc liệt của chiến tranh, cuộc sống khó khăn, gian khổ của những người lính trên chiến trường được tái hiện trong từng dòng thơ.

Chỉ khi đọc thơ, ta mới hiểu được cuộc đời của lính với muôn vàn khó khăn, gian nan như thế nào. Họ phải trải qua nhiều thử thách, hiểm nguy:

“Năm mươi sáu ngày đêm
Đào hang, ngủ trong hầm, mưa dầm ướt cơm
Máu trộn với bùn, gan không run, chí không phai
Lòng vẫn tươi cười, kiên định kháng chiến”

(Nhớ - Hồng Nguyên)

Cái chết luôn đe dọa, luôn sát cánh với họ:

“Ta cùng nhau chịu đựng những cơn rét buốt
Run lạnh, trán đẫm mồ hôi”

(Đồng chí - Chính Hữu)

Trong môi trường núi rừng mờ sương, cuộc chiến tranh gay gắt đã làm cho tâm hồn nhà thơ rùng mình, dồn dập tình cảm trong lòng họ để hướng nguồn cảm hứng sáng tác về chủ đề đó. Nhờ đó, chúng ta có thêm hiểu biết về sự thật cuộc sống và có định hướng cho tương lai.

Khám phá bản chất của cuộc sống mà không làm mất đi sự lãng mạn và thú vị của thơ. R. Gamzatốp đã đúng khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của thơ trong cuộc sống. Thơ ca ca ngợi vẻ đẹp, khám phá sự tuyệt vời tồn tại trong thế giới xung quanh, nhưng nhà thơ không trang trí cuộc sống mà họ gắn bó với, mà thay vào đó, họ dựa vào hiện thực để phản ánh. Mặc dù có vẻ như mâu thuẫn, nhưng các ý tưởng này lại hài hòa và thống nhất với nhau. Chúng gợi cho người đọc những suy tư sâu sắc để thơ thực sự trở thành chính nó, là người dẫn dắt chúng ta đến với cái đẹp và giúp chúng ta nhận ra bản thân, xã hội mà chúng ta sống.

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người - Mẫu 5

Thơ ca là một sáng tạo đặc biệt của con người. Nó là những sợi tơ rút từ cuộc sống và trở lại để tô điểm cuộc sống bằng vẻ đẹp đa dạng của nó. Thơ ca đã hiện diện cùng với sự phát triển của nhân loại qua nhiều thời kỳ lịch sử, và người ta đã chú ý đến vai trò, tác dụng kỳ diệu của nó đối với cuộc sống và tâm hồn con người. Hiểu được vai trò và tác dụng của thơ ca, chúng ta cần đối xử với nó một cách nghiêm túc hơn khi sáng tác và trân trọng hơn khi tiếp nhận, để thơ ca có thể thực hiện vai trò cao quý của mình: làm cho cuộc sống phong phú hơn, đẹp đẽ hơn, và nhân văn hơn.

Mọi phong cách ngôn ngữ đều có chức năng riêng của nó. Thơ ca thuộc về phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Nó là ngôn ngữ được sắp xếp, tổ chức, và lựa chọn từ ngôn ngữ hàng ngày để đạt được giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao nhất. Nó không chỉ có chức năng truyền đạt thông tin mà còn đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người.

Chức năng truyền đạt thông tin đặc biệt là giá trị tư tưởng, nhận thức, và giáo dục của thơ ca. Bằng cách sử dụng từ ngữ đặc biệt và sắp xếp chúng một cách khéo léo, thơ ca có thể dễ dàng ảnh hưởng đến nhận thức và tư duy của con người. Do đó, nó truyền đạt những giá trị đạo đức nhân sinh một cách khéo léo và tinh tế. Đó không phải là kiến thức khô khan hay lời răn dạy, mà là những lời nhắn nhủ chân thành và gần gũi nhất. Những bài học về cách sống, cách nhìn nhận thế giới, và kinh nghiệm trong cuộc sống đều được thể hiện thông qua ngôn từ tinh tế và uyển chuyển. Hãy lắng nghe những lời khuyên của đại thi hào Nguyễn Du từ hàng trăm năm trước:

Lòng tốt nằm trong tâm hồn
Chữ tài thật sự nằm trong lòng ta

Đó là một trải nghiệm của người đã trải qua nhiều gian nan, là triết lý rút ra từ thực tế cuộc sống, được cô đúc thành bài học nhân sinh sâu sắc nhưng dễ hiểu, dễ cảm thông, dễ ảnh hưởng vào nhận thức của con người. Truyện Kiều mang trong mình nhiều bài học nhân sinh sâu sắc nhưng không bao giờ là một cuốn sách lý luận khô khan. Thế mới biết thơ ca đóng góp vào việc nâng cao tri thức cuộc sống bằng cách riêng của nó mà không kém phần hiệu quả so với bất kỳ hình thức truyền đạt nào khác.

Bên cạnh chức năng giáo dục và nhận thức, thơ ca còn có chức năng giao tiếp, biểu đạt và truyền cảm. Chức năng này rất quan trọng vì thơ ca không chỉ truyền đạt một bài học hay tri thức mà còn truyền đạt qua giọng điệu đầy tình cảm, sâu lắng. Giá trị biểu cảm là đặc trưng của thơ ca. Nó bắt đầu từ cảm xúc của nhà thơ đối với cuộc sống, được truyền đạt qua từ ngữ nghệ thuật và gợi lên cảm xúc của người đọc. Vì vậy, con người không chỉ hiểu biết về cuộc sống và lối sống của đời trước mà còn có cảm xúc, tự hào và căm phẫn theo từng dòng thơ. Chức năng này khiến thơ ca có sức mạnh và sức sống vượt ra khỏi thời gian, tác động mạnh mẽ vào trái tim con người. Những tác phẩm của Lý Bạch, Đỗ Phủ không chỉ tác động đến cảm xúc của người Trung Quốc thời đại nhà Đường mà còn đánh thức trái tim của độc giả trên toàn thế giới sau hàng thế kỷ. Tác động cảm xúc của văn chương mở rộng mối giao tiếp giữa con người và con người đến mức vô hạn và là mối giao tiếp chân thành, không vụ lợi nhất và đẹp nhất.

Cuối cùng và chính là một trong những vai trò, chức năng quan trọng nhất của thơ ca đó chính là tính thẩm mỹ. Thơ ca là một loại hình nghệ thuật nên tính thẩm mỹ là đặc trưng của nó. Từ đặc trưng này, thơ ca có tác động mạnh mẽ đến khả năng thẩm mỹ của con người. Nó giúp con người nâng cao khả năng cảm nhận cái đẹp, cái đẹp của ngôn từ và thông qua ngôn từ, cảm nhận những cái đẹp của thế giới khách quan. Khi chúng ta đọc những câu thơ:

Cỏ non mướt đẹp mênh mông,
Cành hoa lay động từng bông trắng xinh.

Trước hết, tâm hồn chúng ta rung động trước một bức tranh thiên nhiên tươi tắn, trong sáng. Rồi chúng ta cảm nhận sự tinh tế và khéo léo trong cách sử dụng từ ngữ, cách phối hợp âm điệu, nhịp điệu của một thi nhân tài ba. Cái đẹp khiến con người cảm thấy xúc động, tinh tấn tâm hồn và hướng về cái tốt, cái đẹp, cái thiện. Để làm được điều này, thơ ca cần chú trọng đến hình thức nghệ thuật của mình. Nó cần sự tận tụy và nghiêm túc của nhà thơ. Thơ ca không phải là sản phẩm của những người thợ, mà là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.

Thơ ca đã đi theo bước chân của cuộc sống con người từ thời bình minh của các nền văn hóa. Nó mang lại những hiểu biết về đa dạng của cuộc sống, tác động và nâng cao những tình cảm nhân văn, làm giàu thêm khả năng cảm nhận thẩm mỹ của con người. Những tri thức, tình cảm và vẻ đẹp mà thơ ca mang lại làm cho cuộc sống trở nên phong phú hơn, đẹp đẽ hơn và làm cho con người gần gũi hơn. Vì vậy, dù thế giới biến đổi không ngừng và đã xuất hiện nhiều sản phẩm, nhiều giá trị có thể mai mốt nhưng thi ca mãi mãi gắn liền với tâm hồn nhân loại.

Thảo luận về ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống con người - Mẫu 6

Trong mọi thể loại văn học, không có thể loại nào có thể thể hiện được cảm xúc một cách sâu sắc, tập trung và giàu chất nghệ thuật như thơ. Việc viết thơ vẫn luôn là một thách thức khó khăn, không chỉ để tạo ra những bài thơ có vần, có điệu, dễ nhớ, mà còn để chứa đựng tình cảm, tư tưởng của người nghệ sĩ. Trong văn xuôi, người ta cần hàng ngàn từ để thể hiện một ý tưởng, nhưng trong thơ, chỉ cần vài chục, thậm chí vài trăm từ, tất cả tình cảm, tâm trạng của người nghệ sĩ đều được thể hiện. Có thể nói rằng tình cảm là đặc trưng riêng biệt của văn chương, đặc biệt là của thơ. Và một điều chắc chắn, suốt hàng ngàn năm qua, việc viết thơ luôn bắt nguồn từ tình cảm, không phải từ bất kỳ nguồn cảm xúc nào khác, đó được gọi là cảm hứng sáng tác. Do đó, tình cảm đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong thơ.

Nói về vai trò quan trọng của tình cảm trong thơ, trước hết phải nói rằng tình cảm trong lòng con người là nguồn cảm hứng của những bài thơ hay và phong phú, như Lê Quý Đôn đã nói: “Thơ bắt nguồn từ tâm hồn con người”, hoặc rõ hơn khi Vũ Duy Thanh viết: “Thơ sinh ra từ tình cảm”. Trong tiếng Hán, thơ có nghĩa là “thi”, theo như Dương Thụ Đạt, thi ở đây là “cái gốc và là cái mầm nảy mầm từ trái tim”. Đó là lý do mà thơ luôn phản ánh những biến đổi trong nội tâm tình cảm của con người. Nếu chỉ diễn tả sự kiện mà không có tình cảm, thì dù có vần có điệu cũng không được xem là thơ mà chỉ là một loại văn xuôi. Thơ cần phải chứa đựng tình cảm, truyền đạt tâm trạng của tác giả, gây xúc động hoặc rung động tâm hồn người đọc.

Thứ hai, tình cảm trong thơ cũng phản ánh sự đa dạng của tâm hồn nghệ sĩ. Không chỉ thể hiện tư tưởng, tình cảm và cách sống, mà còn bộc lộ những tính cách, những góc khuất sâu trong tâm hồn của họ. Ví dụ, khi đọc thơ Hàn Mặc Tử với các tập thơ như Gái Quê, Điên,… người ta có thể cảm nhận được cuộc đời đầy khao khát tình yêu, cuộc sống và cảm xúc đơn độc. Hay với thơ của Hồ Chí Minh như Nhật Ký Trong Tù, Vọng Nguyệt, Tức Cảnh Pác Pó,… thể hiện tình cảm với thiên nhiên, với con người và lòng yêu nước. Những tác phẩm này gợi lên hình ảnh của một tâm hồn lớn lao, một tấm lòng chung thủy với dân tộc và cách mạng, một góc nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống, so với các bài viết thông thường.

Vai trò quan trọng thứ ba của tình cảm trong thơ là khả năng kích thích và đánh thức những cảm xúc mới trong lòng người đọc, khiến họ không chỉ hiểu được tâm trạng của người viết mà còn tạo ra những cảm xúc mới, mở ra những khía cạnh mới trong tâm hồn. Ví dụ, bài thơ Chiều Tối của Hồ Chí Minh khiến người đọc không chỉ cảm nhận được tâm trạng của tác giả mà còn phải tìm hiểu sâu hơn về bản chất của cuộc sống.

Nói về vai trò của tình cảm trong thơ, không thể không nhắc đến sự đa dạng của tâm hồn nghệ sĩ. Thơ không chỉ là nơi tác giả diễn đạt tâm trạng, suy nghĩ mà còn là nơi để họ phản ánh những cảm xúc sâu thẳm nhất của mình. Hồ Chí Minh, trong bài thơ Chiều Tối, đã mô tả một cách chân thực và sâu sắc về một buổi chiều yên bình, tạo ra một không gian tĩnh lặng cho người đọc suy tưởng và cảm nhận.

Trước hết, cần phải khen ngợi rằng đây là một bài thơ xuất sắc, giàu nghệ thuật và nội dung, nơi tình cảm chân thành của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện rõ ràng và thu hút độc giả. Tâm trạng lạc quan, yêu đời và hòa mình với thiên nhiên trong cuộc sống đã làm cho người đọc hiểu thêm về lòng can đảm của những người chiến sĩ cách mạng trong những thời khắc khó khăn nhất. Tác phẩm cũng mở ra một cái nhìn mới về cuộc đời của những người chiến sĩ trong giai đoạn kháng chiến đầy gian khổ và hy vọng.

Tương tự, trong đoạn thơ Việt Bắc của Tố Hữu:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ rực
Ðèo cao nắng gay gắt bám chặt lưng
Ngày xuân trắng rực bằng hoa
Nhớ người đan nón từng sợi chỉ
Ve râm ran, rừng rót vàng
Nhớ em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng chiếu khắp nơi
Nhớ ai ngân nga tình thân”

Xuất phát từ tình cảm sâu lắng và tình thương với đồng bào miền núi, nhà thơ đã tạo ra một bức tranh sinh động, thu hút và đầy màu sắc, không chỉ về mặt văn học mà còn về mặt tinh thần. Thơ đã gợi lên trong người đọc những cảm xúc thân thiết, gần gũi với vùng đất Việt Bắc và con người nơi đây, giúp họ hiểu thêm về tình yêu nước và kháng chiến. Tình cảm trong thơ không chỉ là của tác giả mà còn lan tỏa mạnh mẽ đến độc giả, khiến họ cảm nhận được rõ ràng hơn về một thời kỳ lịch sử đầy biến động của dân tộc.

Nói về sức mạnh của tình cảm trong thơ, không thể không nhắc đến những chủ đề như tình thân, tình yêu và tình cảm với quê hương. Những tình cảm truyền thống này đã làm cho những cảm xúc sẵn có trong tâm hồn mỗi người trở nên sâu sắc hơn, mạnh mẽ hơn. Đọc Đò Lèn, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy, người ta không chỉ cảm thấy thương tiếc và xúc động trước tình cảm của nhà thơ dành cho người mẹ mà còn hiểu sâu hơn về ý nghĩa của tình thân. Tương tự, bài thơ Tôi yêu em của Puskin cũng gợi lên trong người đọc những cảm xúc đầy sâu sắc về tình yêu và lòng cao thượng.

Cần phải nhận rằng thơ vẫn là một loại thức ăn tinh thần quý giá, là một trong những sáng tạo cao quý và cao cả trong văn chương. Tình cảm là nguồn gốc của thơ, là yếu tố quan trọng nhất tạo nên giá trị của một tác phẩm, đồng thời phản ánh tâm hồn của người nghệ sĩ. Không chỉ thế, tình cảm trong thơ còn làm cho những cảm xúc sâu thẳm trong lòng con người tỉnh thức, khiến cho tâm hồn trở nên phong phú và tươi đẹp hơn.

Đánh giá

0

0 đánh giá