Tài liệu tác giả tác phẩm Nỗi nhớ thương của người chinh phụ Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nỗi nhớ thương của người chinh phụ lớp 9.
Tác giả tác phẩm: Nỗi nhớ thương của người chinh phụ - Ngữ văn 9
I. Tác giả Đặng Trần Côn
- Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh, năm mất), quê làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Ngoài tác phẩm nổi bật là Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ và viết một số bài phú chữ Hán.
- Phan Huy Ích (1750 – 1822), quê làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, Hà Tĩnh. Ông chủ yếu sống ở Sơn Tây, làm quan thời Chúa Trịnh – Vua Lê, là một trong những người dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn.
1. Thể loại
- Tác phẩm Nỗi nhớ thương của người chinh phụ thuộc thể loại: thơ song thất lục bát
2. Xuất xứ
- In trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 13, Nguyễn Quảng Tuân sưu tầm, biên soạn, NXB Khoa học xã hội, 2000.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm
4. Bố cục đoạn trích
- Câu 125 - câu 140: Nỗi thất vọng của người chinh phụ vì sự sai hẹn của người chồng từ buổi ra đi (sai hẹn cả thời gian gặp gỡ và địa điểm gặp gỡ).
- Câu 142 – câu 152: Nỗi nhớ thương, mong ngóng xen lẫn trách hờn của người chinh phụ dành cho chồng.
5. Giá trị nội dung
- Khắc họa hình ảnh người phụ nữ chờ đợi chồng trong chiến tranh, tâm trạng cô đơn, nhớ chồng của người chinh phụ cũng như thể hiện sự khao khát tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ.
- Phê phán chiến tranh phi nghĩa, gây ra sự phân ly, đau khổ cho con người, đặc biệt là người phụ nữ.
6. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc.
- Ngôn ngữ, hình ảnh thơ phong phú, gợi cảm.
1. Lời hẹn của người chinh phu và hoàn cảnh thực tế
- Ngày gặp gỡ: oanh chưa bén liễu, mai chưa dạn gió
=> oanh già, ý nhi gáy trước nhà, đào quyến gió đông, tuyết mai trắng mãi đào đông đỏ bờ.
- Nơi gặp gỡ: Lũng Tây Nham, Hán Dương cầu
=> lá rụng cành trâm, Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
=> Các từ ngữ, hình ảnh chỉ thời gian và địa điểm gặp gỡ có vai trò diễn tả thời gian trôi chậm, khoảng cách chia xa, chưa biết ngày gặp lại.
2. Tâm trạng của người chinh phụ
+ Trước đó: lòng buồn man mác, hi vọng trông ngóng người chồng trở về.
+ Từ dòng 141 đến dòng 152: vẫn mong ngóng một ngày nào đó chồng mình sẽ về nhưng chấp nhận việc người chồng có thể không trở về nữa.
- Nét đặc sắc về nghệ thuật miêu tả tâm trạng:
+ Về thời gian: thời gian mang tính ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh tiêu biểu của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông các tác giả đã gợi lên trong lòng người đọc sự chuyển động tuần hoàn của thời gian cùng với sự ngóng trông, chờ đợi được gặp lại người chinh phu của người chinh phụ như những lời đã hẹn với nhau.
+ Không gian: là không gian mang tính ước lệ, tượng trưng. Không gian này được nhìn qua lăng kính chủ quan của nhân vật, giúp cho nhân vật trữ tình bộc lộ được những nỗi niềm tâm trạng.
+ Điển tích chỉ vị trí mà người chinh phu hẹn đón người chinh phụ: núi Lũng Tây và cầu Hán Dương. Hai nơi cách xa nhau đến hàng ngàn dặm: Lũng Tây nham ở tỉnh Thiểm Tây, cầu Hàm Dương ở tỉnh Hồ Bắc. Nhà thơ đã mượn điển tích để tái hiện người chinh phụ đã sớm, chiều lên núi Lũng Tây hay xuống cầu Hàm Dương đón chàng chinh chiến trở về nhưng đều không gặp. Người chinh phu lại lỗi hẹn về nơi gặp. Lời hẹn của chàng từng gieo hy vọng cho nàng bao nhiêu thì nay đã tan thành hư ảo và trở thành vô vọng bấy nhiêu.
→ Với bút pháp tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ta thấy khối sầu của người chinh phụ dường như không còn là nỗi nhớ thương nữa mà đã tích tụ lại thành một khối oán hận. Hận cho kiếp chàng, hận cho phận thiếp. Và hơn thế nữa là hận những kẻ đã gây nên cảnh đôi lứa bị rơi tình trạng đôi ngả nước mây cách vời.
IV. Đọc tác phẩm: Nỗi nhớ thương của người chinh phụ
NỖI NHỚ THƯƠNG CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
[…]
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió đông,
Tuyết mai trắng bãi, phù dung đỏ bờ.
Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm.
Ngập ngừng lá rụng cành trâm.
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm, nào có tiêu hao.
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Chân đi một bước, trăm tình ngần ngơ.
Thư thường tới người chưa thấy tới,
Bức rèm thưa lần giãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
Tiền sen này đã nảy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.
[...]
V. Văn mẫu