Tài liệu tác giả tác phẩm Văn hóa hoa - cây cảnh Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Văn hóa hoa - cây cảnh lớp 9.
Tác giả tác phẩm: Văn hóa hoa - cây cảnh - Ngữ văn 9
I. Tác giả Trần Quốc Vượng
1. Tiểu sử
- Trần Quốc Vượng (05/02/1953), là nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính trị gia người Việt Nam.
- Quê quán: xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
- Ông lớn lên và theo học phổ thông ở quê nhà, đạt giáo dục phổ thông: 10/10. Sau đó, ông theo học chuyên ngành Kiểm sát tại Trường Cán bộ Kiểm sát – tiền thân của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội ở Thủ đô, nhận bằng Trung cấp rồi Cao đẳng Kiểm sát. Giai đoạn tiếp theo, ông theo học chuyên ngành Luật học tại Trường Đại học Luật Hà Nội, nhận bằng Cử nhân Luật, tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật
- Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 29/08/1979, trở thành đảng viên chức ngày 29/08/1980. Trong quá trình hoạt động Đảng và Nhà nước, ông theo học các khóa tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị.
2. Sự nghiệp
- Là học giả có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một số ngành nghiên cứu về lịch sử, khảo cổ, văn hóa ở Việt Nam, đi đầu trong việc thực hiện lối tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu khoa học.
- Các tác phẩm chính: Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy ở Việt Nam (1960); Theo dòng lịch sử (1996); Cơ sở văn hóa Việt Nam (1996), Việt Nam – cái nhìn địa văn hóa (1996), Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm (2000)…
1. Thể loại
- Tác phẩm Văn hóa hoa – cây cảnh thuộc thể loại: văn bản thuyết minh.
2. Xuất xứ
- Theo Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hóa Dân tộc – tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr 578 – 584.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: thuyết minh.
4. Tóm tắt
Văn bản nói về văn hóa hoa và cây cảnh trong đời sống và văn hóa của người Việt Nam. Thông tin về quan niệm sống hài hoa với thiên nhiên được thể hiện qua ngôn ngữ; thông tin về các công trình nhân tạo được bố trí hài hòa với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp; thông tin về sự tồn tại trải đều trên nhiều vùng đất của các làng, trại, chợ hoa cây cảnh; thông tin về cách người Việt đưa thiên nhiên vào mỗi ngôi nhà, vào từng không gian cư trú riêng tư.
5. Bố cục đoạn trích
- Phần 1 (từ đầu đến tuy gần mà xa...): thiên nhiên như một đối tượng phong phú, kì bí, luôn thách thức mọi nỗ lực tìm hiểu, khám phá của con người.
- Phần 2 (từ Thiên nhiên Đông Nam Á đến tục thờ cây cối...): đặc điểm của thiên nhiên Đông Nam Á và truyền thống sống hài hoà với tự nhiên của người phương Đông (trong đó có Việt Nam).
- Phần 3 (từ Văn minh lớn Trung Hoa đến cơ chế thị trường...): những biểu hiện của cách “tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất” trong các nền văn hoá Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam (qua những chứng tích cụ thể).
- Phần 4 (còn lại): thú chơi hoa – cây cảnh trong nền văn hoá Việt Nam.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản cung cấp những thông tin về văn hoá hoa – cây cảnh, đồng thời thể hiện tình cảm của tác giả đối với thiên nhiên.
7. Giá trị nghệ thuật
- Cung cấp thông tin đầy đủ về thú chơi hoa – cây cảnh cho người đọc.
1. Tính đa dạng của các thông tin trong văn bản
- Tính đa dạng của các thông tin được thể hiện qua việc tác giả đã khám phá và phân tích nhiều khía cạnh khác nhau của văn hóa ứng xử với thiên nhiên của người Việt. Tác giả đã sử dụng một loạt các cứ liệu từ văn học, ngôn ngữ, tục ngữ, ca dao, đến những quan sát thực tế về cách người Việt trồng trọt và chăm sóc cây cảnh. Điều này làm sáng tỏ rằng người Việt không chỉ coi trọng việc sống hài hòa với thiên nhiên mà còn coi đó là một phần không thể tách rời của bản sắc văn hóa và tâm hồn dân tộc.
2. Mạch liên kết giữa các thông tin trong văn bản
- Mạch liên kết giữa các thông tin trong văn bản được tác giả xây dựng một cách chặt chẽ và logic. Từ việc giới thiệu khái niệm “văn hóa hoa - cây cảnh”, tác giả dẫn dắt người đọc qua các ví dụ cụ thể, phân tích sâu sắc, và cuối cùng là kết luận về tầm quan trọng của việc này đối với đời sống văn hóa và tinh thần của người Việt. Sự chuyển tiếp giữa các phần thông tin một cách mượt mà giúp người đọc dễ dàng theo dõi và hiểu rõ ý đồ của tác giả, đồng thời cảm nhận được sự phong phú và đa dạng của văn hóa ứng xử với thiên nhiên trong đời sống của người Việt.
IV. Đọc tác phẩm: Văn hóa hoa - cây cảnh
VĂN HÓA HOA – CÂY CẢNH
- Trần Quốc Vượng -
Thiên nhiên, về bản chất là phong phú và đa dạng, mãi mãi còn tiềm ẩn nhiều kì thú và kì vĩ, kì bí,… không hẳn là “bất khả tri” nhưng cho dù con người, qua lịch sử, đã thu thập được một kho tri thức về tự nhiên song chưa bao giờ đã hiểu biết hết tự nhiên. Luôn luôn, tự nhiên, cũng như người đàn bà xinh đẹp, duyên dáng, đằm thắm và sâu sắc, lưu giữ một chất “huyền” nào đó, vẫy gọi, kích thích con người tiếp cận ... nhưng bao giờ cũng là cảnh tình “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa ... ".
Thiên nhiên Đông Nam Á và Việt Nam - xứ sở châu Á gió mùa nhiệt ẩm - lại càng phong phú và đa dạng hơn bất cứ nơi đâu, vừa gắn với đại lục, vừa thông với đại dương, đủ dạng địa hình, hệ thực vật có trên 7 000 loài có hạt, xếp vào 267 họ, xấp xỉ 2 000 chi ... Nhà bác học Lê Quý Đôn của xứ Sơn Nam Hạ nói giản dị: Cây cỏ miền nhiệt đới hương nồng thắm hơn, sắc nhiều màu hơn cây cỏ xứ lạnh ..
Con người - loài người là một sản phầm của tự nhiên trên diễn trình lịch sử vũ trụ và là một thành phần của tự nhiên từ hàng triệu năm về trước đến ngày nay. Thoạt kì thuỷ, con người lệ thuộc gần như hoàn toàn và nặng nề vào môi sinh tự nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; nhưng về bản thể, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức, có mô hình hành động được lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, do vậy mà con người không thích nghi thụ động với hoàn cảnh tự nhiên, mà là ứng biến - thích ứng và biến đổi nó - xây dựng các hệ sinh thái - nhân văn mà nhiều người gọi là thiên nhiên thứ hai, xây dựng các nền văn hoá với những ứng xử khác nhau, với tự nhiên, với xã hội và với bản thân mình ... [ ... ]
Phương Đông - trong đó có Việt Nam - trên đại thể có truyền thống sống hài hoà với tự nhiên. Người Việt Nam dựa vào tự nhiên mà làm ăn và đánh giặc. “Trông trời, trông đất, trông mây/ Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm ... ". Theo thuyết tính linh, vạn vật đều có hồn: Hồ Gươm - Hồ Tây, núi Nùng, sông Nhị, nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” (Nguyễn Đình Thi); “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du); vui “tình cá nước", "hoa cười”, cây “ngả nghiêng chào”; ứng xử tế nhị “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa"; thậm chí tín mê “thần cây đa, ma cây gạo ... ” với tục thờ cây cối ... [ ... ]
Văn minh lớn Trung Hoa, đến thời Hán, vài thế kỉ trước sau Công nguyên thì nghề xây dựng hoa viên, trồng hoa, cây cảnh đã trở thành một ngành nghệ thuật lớn và tinh tế, một nghệ thuật cung đình và quý tộc, tất nhiên: thượng uyển, thượng lâm ...
Bon-sai (nguyên nghĩa: cây trồng trong chậu cạn), với thế kỉ XII, gắn liền với Zen (Thiền) và Sin-tô (Thần đạo), đã trở thành một nghệ thuật tuyệt vời của người Nhật Bản: Như tự nhiên ư? Vậy mà không phải vậy ...
Văn học Trung Hoa Đường - Tống có tư duy duy mĩ với thiên nhiên:
Cổ thi thiên ái thiên nhiên mĩ.
(Thơ xưa nghiêng chuộng thiên nhiên đẹp.)
(Hồ Chí Minh)
Người Việt Nam mang chở “tinh người” phổ quát, biết ngưỡng mộ cái Đẹp của thiên nhiên thứ nhất, [ ... ] biết chọn non nước “sơn thuỷ hữu tình” (Dục Thuý Sơn - Ninh Bình, Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng, Hương Sơn - Hà Tĩnh, Hà Tây, ... ) mà dựng xây đền - chùa - tháp - miếu ...
Từ nơi dân dã: “cây gạo đầu làng”, “cây đa bến nước” ... đến chốn thị thành:
Khen ai khéo vẽ dư đồ
Trước sông Nhị Thuỷ, sau hồ Hoàn Gươm.
(Ca dao Hà Nội cổ)
Mà người Việt Nam cũng biết tạo dựng một thiên nhiên thứ hai hài hoà với thiên nhiên thứ nhất, từ làng quê với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” với “Trúc xinh trúc mọc bờ ao”, với “ngõ trúc quanh co” (Yên Đổ), với “bóng cau với con thuyền một dòng sông” (Văn Cao) ... đến cửa nhà quan:
Hé cửa đêm chờ hương quế lọt
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.
(Nguyễn Trãi)
đến nơi ở của Chủ tịch nước:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa ...
(Hồ Chí Minh)
Nếu nước Việt phương Nam truyền thống là “tổng” của các làng, thì có làng ruộng, làng vườn, làng nghề, làng buôn ... mà cũng có làng hoa: “đất Ngọc Hà, hoa Hữu Tiệp”, làng đào Nhật Tân, “đồng Bông” làng quất Nghi Tàm của Kẻ Chợ - Thăng Long, Vị Khê, Trình Xuyên, Phụ Long của Nam Định, Kim Long của Huế, làng hoa Đà Lạt của Lâm Đồng ...
Thăng Long Lý - Trần - Lê, ngoài Hoàng thành và Tử Cấm thành, có 36 phố phường buôn bán - thủ công, có thập tam trại rau - hoa - quả, trong đó có trại Hàng Hoa và chợ Hoàng Hoa, được sử biên niên ghi lại từ đầu thế kỉ XVI:
- Con gái ở trại Hàng Hoa
Ăn cơm nửa bữa, ngủ nhà nửa đêm ...
- Đất Ngọc Hà tốt tươi phong cảnh
Gái Ngọc Hà vừa đảm vừa xinh.
[ ... ] Ở xứ Bắc, thời Lý có Hoa Lâm (rừng hoa) bên bờ sông Thiên Đức (Đuống). Ở Thành Nam, quê hương Tức Mặc nhà Trần, với hành cung Thiên Trường rồi với biệt cung Trùng Quang của các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông thì cũng mọc dựng những Hoa Nha, Liễu Nha ... vườn hoa, bến liễu, rặng quất vàng! [ ... ]
Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc, ... ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”. Song nơi đó giờ đây không còn bến liễu, vườn hoa ... và dòng sông xưa nay đã hoa nên đồng. Song văn hoa hoa - cây cảnh vẫn được bảo tồn ở Vị Khê - Nam Điền, ở Trình Xuyên (vốn là Trần Xuyên - dòng sông nhà Trần), ở Phụ Long bên bờ Đại Hoàng giang nay mang tên chung sông Cái - Nhị Hà - Hồng Hà. Đấy là những làng vườn hoa - cây cảnh cổ truyền nay được phục hồi một phần ở đầu xóm thôn Tức Mặc, vừa mang giá trị cổ truyền, vừa mang bản sắc mới văn hóa kinh doanh trong cơ chế thị trường ...
***
Thú chơi hoa - cây cảnh cần có sự thung dung thong dong của con người không vướng bụi trần [ ... ]. Cần ngày càng nhiều lên một tầng lớp trung lưu, với mức sống có “bát ăn bát để”, nếp sống trung lưu và lối sống đan xen lao động căng tràn và thư giãn buông xả ...
Ngày xưa, những nếp nhà ở Kẻ Chợ - Thăng Long, ở phố Hiến Nam, ở Vị Xuyên - Vị Hoàng ... có hình ống: Nhà thị thành là kết quả xoay dọc đầu hồi ra ngoài đường phố của các nếp nhà thôn dã. Lớp nhà trên cách nếp nhà dưới một khoảng sân con. Ở đó, trong ngôi nhà trung lưu nho nhã thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh, một gốc đinh lăng, một khóm sói, khóm hồng hay một gốc chi mai ... Nhà ông nội, ông ngoại tôi - những cụ tú, cụ cử quê gốc xứ Nam - thường là vậy: Một ngôi nhà 3 - 5 gian, hàng hiên có tường hoa đặt vài chậu địa lan, trước cửa giữa nhà là đôi sấu, bên cạnh đó là gốc ngâu, gốc mộc. Sân vây “tường hoa", quanh sân đào các hốc trồng đào, mai, tường vi, lửa lựu ... và xếp nhiều chậu bồn cây cảnh đỗ quyên, quất, hồng, ... vườn hoa nhỏ trước sân là vạn tuế, tùng, bách, mẫu đơn, trạng nguyên, quân tử, ...
Nay thì cây cảnh - cây hoa phả vào bao lơn các nhà tầng và ngự trị cả ở phòng khách cơ quan cùng vài góc phòng văn của nhà văn hoá ...
V. Văn mẫu
Đề: Từ những điều được văn bản Văn hóa hoa – cây cảnh gợi lên, viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) nêu ấn tượng, suy nghĩ của em về hiện tượng “đưa thiên nhiên vào nhà” rất phổ biến trong đời sống hiện nay.
Giữa con người và môi trường sống có mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời. Môi trường tạo ra các điều kiện sống cần thiết để con người tồn tại và phát triển. Con người có vai trò khai thác và cải tạo môi trường phù hợp với các điều kiện sống và hoạt động sản xuất của mình, đồng thời tôn trọng, bảo vệ và gìn giữ lấy môi trường ấy. Hiện tượng “đưa thiên nhiên vào nhà” hiện nay đang được rất nhiều người hưởng ứng. Việc đưa thiên nhiên vào nhà không cần điều gì quá to lớn chỉ cần bạn trồng thêm một cây xanh, một cây hoa ở nhà và chăm sóc chúng đã là đưa thiên nhiên vào nhà rồi đó. Hãy luôn biết trân trọng bảo vệ thiên nhiên vì nếu thiếu đi thiên nhiên con người chúng ta cũng không sống tiếp được.