Văn bản Yên Tử, núi thiêng - Thi Sảnh - Nội dung, tác giả, tác phẩm

178

Tài liệu tác giả tác phẩm Yên Tử, núi thiêng Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Yên Tử, núi thiêng lớp 9.

Tác giả tác phẩm: Yên Tử, núi thiêng - Ngữ văn 9

I. Tác giả Thi Sảnh

Văn bản Yên Tử, núi thiêng - Thi Sảnh - Nội dung, tác giả, tác phẩm (ảnh 1)

- Thi Sảnh (1941 – 2020) tên khai sinh là Nguyễn Thanh Sỹ, quê ở Quảng Trị, là nhà thơ, nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa, đã viết nhiều tác phẩm, công trình về lịch sử, thắng cảnh, di tích của vùng đất mỏ Quảng Ninh, nơi ông có quá tình công tác và gắn bó lâu dài.

- Tác phẩm chính: Lịch sử phong trào công nhân Quảng Ninh, Cõi thiêng Yên Tử, Thức với dòng sông,….

II. Tìm hiểu văn bản Yên Tử, núi thiêng

1. Thể loại

- Tác phẩm Yên Tử, núi thiêng thuộc thể loại: văn bản thuyết minh.

2. Xuất xứ

- Theo Cõi thiêng Yên Tử, Sở văn hóa – Thông tin Quảng Ninh, 2002, tr11 -15.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: thuyết minh.

4. Tóm tắt

Yên Tử là một trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất Việt Nam bởi ở đây không chỉ có nói non trùng điệp, thiên địa nhân hòa mà cảnh vật nơi đây còn “ Lối đi có trúc, khe suối có hoa” như chốn linh thiêng lại vừa gần gũi, gắn bó với con người. Nơi đây không chỉ nổi tiếng bởi cảnh vật mà còn thu hút khách thập phương bởi sự linh thiêng, kì vỹ nơi đây, là một ngọn núi linh thiêng chốn tu hành tuyệt đỉnh bởi những người mộ đạo. Đạo Phật ở  Yên Tử phát triển cực thịnh hơn cả trong thời nhà Lý. Đến thời của vua Trần Thái Tông - người đã đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm của Việt Nam mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất  Yên Tử đã trở thành trung tâm náo nhiệt Phật giáo khi ông đến tu hành.

5. Bố cục đoạn trích

- Phần 1 (từ đầu đến thêm quyến rũ du khách bốn phương): Giới thiệu khái quát về Yên Tử.

- Phần 2 (từ Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí đến đến nơi mà mình mơ ước): Miêu tả một hành trình có thể lựa chọn để đến với danh sơn Yên Tử.

- Phần 3 (từ Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi đến chính là Phù Vân quốc sư?): Thuyết minh cụ thể về Yên Tử cùng các sự kiện, di tích có liên quan.

- Phần 4 (đoạn còn lại): Khẳng định những yếu tố cốt lõi làm nên núi thiêng Yên Tử.

6. Giá trị nội dung

- Văn bản giới thiệu về Yên Tử, một vùng đất linh thiêng, vùng núi đẹp quyến rũ khách bốn phương. Qua đó, cung cấp cho người đọc những giá trị truyền thống, nét văn hóa mà nơi đây mang đến.

7. Giá trị nghệ thuật

- Cung cấp thông tin đầy đủ về Yên Tử giúp người đọc nắm bắt được những nội dung quan trọng.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Yên Tử, núi thiêng

1. “Núi thiêng” Yên Tử

- Những lí do chính khiến Yên Tử được nhìn nhận là “núi thiêng”:

+ Nơi đây gắn liền với sự phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do vua Trần Nhân Tông sáng lập.

+ Trải qua nhiều triều đại, Yên Tử là nơi tu hành của nhiều vị thiền sư nổi tiếng, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa Phật giáo.

+ Nơi đây còn là di tích lịch sử gắn liền với cuộc đời của vua Trần Nhân Tông, người đã từ bỏ ngai vàng để tu hành, giác ngộ Phật pháp.

Yên Tử, núi thiêng - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Kết nối tri thức

2. Những chi tiết thể hiện cách giải thích tên gọi của một số vị trí và di tích trong quần thể du lịch tâm linh Yên Tử

- Liệt kê:

+ Ông đã hóa Phật vào ngọn núi và ngọn núi mang hình hài ông được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh.

+ Sau khi An Kỳ Sinh đắc đạo, chư tăng của An Kỳ Sinh gọi ngôi chùa ông đã tu hành và đắc đạo là “chùa ông Yên”…

- Việc giải thích như vậy đáp ứng yêu cầu đưa ra yếu tố lịch sử của văn bản giới thiệu một cảnh quan.

IV. Đọc tác phẩm: Yên Tử, núi thiêng

YÊN TỬ, NÚI THIÊNG

- Thi Sảnh -

Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1 068 m, vút lên chon von tựa một vọng gác. Từ xưa cảnh núi rừng Yên Tử đã nổi tiếng là một nơi ngoạn mục. Các triều đại phong kiến ở nước ta đều liệt Yên Tử vào loại “danh sơn” (núi đẹp). Sau khi Thiền phái Trúc Lâm ra đời và đi liền với nó, hệ thống chùa tháp uy nghi mọc lên chi chít, thì Yên Tử càng thêm quyến rũ du khách bốn phương.

Yên Tử ngày nay thuộc thành phố Uông Bí, cách trung tâm thành phố 14 km về phía tây bắc. Từ Hòn Gai, ngược trục đường 18A 40km, ta sẽ đến Uông Bí. Tại đây ta nghỉ ngơi chốc lát, chuẩn bị thêm lương thực, thực phẩm cho chuyến hành hương tới “Núi vua hóa Phật” và ngắm cảnh vật thành phố.

Từ cổng nhà máy điện Uông Bí, ta theo đường vào mỏ Vàng Danh đến Lán Tháp, đến đây ta rẽ phía tây theo con đường qua xã Thượng Yên Công và đi tiếp 4 km nữa thì đến Yên Tử. Đoạn đường từ Lán Tháp vào Yên Tử dài 9 km, đi giữa lòng thung lũng dài và hẹp, giới hạn bởi dãy núi Cánh Gà ở phía nam, Bảo Đài ở phía bắc, thoạt trông như những thành quách cổ xưa. Những khu vườn xum xuê cây ăn quả: vải, nhãn, mận, đào, mùa nào thức ấy, những mảnh ruộng mía thân tím thẳng tắp, nối tiếp hai bên đường. Suối Giải Oan trong veo, chảy ngoằn ngoèo trong thung lũng, trên nền đá cuội và sỏi trắng, cắt con đường từ Lán Tháp vào Yên Tử 9 đoạn, khiến du khách ngỡ là 9 con suối khác nhau. Hai bên bờ suối, hoa dành và hoa bướm vàng rộm. Đây đó có những khóm hoa hải đường chen với hoa thuỷ tiên đang nở bung những cánh mỏng phớt tím.

Vào mùa xuân, sau Tết âm lịch, khi tiết trời dịu mát, rừng Yên Tử nở lộc đơm hoa. Khách thập phương rộn ràng đổ về Yên Tử trẩy hội. Khách tham quan thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều nghề nghiệp, kể cả trong nước và ngoài nước, hăm hở, nhằm đỉnh núi mờ sương bước vội, mong chóng đến nơi mà mình mơ ước.

Tên xa xưa của Yên Tử là Núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Trong sử sách, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng), bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng. Từ xưa, nhiều tín đồ đạo Phật ở nước ta đã say đắm cảnh vật Yên Tử “Lối đi có trúc, khe suối có hoa” (thơ Phạm Sư Mạnh), cũng là nơi thâm nghiêm, u tịch. Họ đã đến dựng chùa mái tranh vách nứa dưới chân núi Yên Tử, ngày ngày cầu kinh niệm Phật. Theo Hải Dương phong vật chí, từ xưa Yên Tử đã nổi danh là “Phúc địa thứ tư của Giao Châu”, là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo như dân gian truyền tụng:

Nào ai quyết chí tu hành

Có về Yên Tử mới đành lòng tu.

Theo một số thư tịch cổ, vào đầu Công nguyên, một người Trung Quốc tên là An Kỳ Sinh đã lặn lội tới Yên Tử tu tiên và luyện đan để tìm thuốc trường sinh bất tử. An Kỳ Sinh là bạn thân của Khoái Thông, người từng bày mưu tính kế cho Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ. Đến Yên Tử, An Kỳ Sinh ở hẳn trong núi, vừa tu đạo, vừa luyện thuốc. Ông lập ra Am Dược, Am Hoa, Am Thung. Thuốc trường sinh chắc chắn ông không tìm thấy nhưng tục truyền, khi mất, ông đã hóa thân vào núi. Khối đá có hình người trên đỉnh Yên Tử được người đời sau gọi là tượng An Kỳ Sinh. […]

Đạo Phật phát triển cực thịnh trong thời Lý. Ngôi chùa sớm nhất dựng trong thời kì này ở Yên Tử là chùa Phù Vân. Theo sách Thiền uyền tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Thường Chiếu thuộc thế hệ 13 của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu hành ở chùa này vào cuối thời Lý. Ông mất ở đây năm 1228. Đến thời Trần, vị cao tăng trụ trì ở Yên Tử có uy tín lớn thời bấy giờ, được Trần Thái Tông khi lên ngôi vua, phong tặng là Phù Vân quốc sư.

Năm Bính Thân (tức năm 1236), ngày 3 tháng 4, vào lúc 10 giờ đêm, mang nỗi u uất trong lòng không giãi bày được cùng ai, vua Trần Thái Tông đã vượt thành, trốn khỏi Thăng Long, ruổi ngựa theo hướng núi Yên Tử. Đến 2 giờ chiều ngày 5 tháng 4, Thái Tông đến chân núi. Sáng ngày 6, ông trèo lên núi, gặp nhà sư Phù Vân, một người bạn cũ, để đưa một lời thỉnh cầu. [...] Nhà sư Phù Vân trả lời: “Núi vốn không có Phật. Phật ở trong tâm. Tâm lặng lẽ mà biết, ấy là chân Phật. Nay bệ hạ giác ngộ được cái tâm ấy, thì lập tức thành Phật. Không phải khốn khổ đi tìm ở bên ngoài”.

Câu trả lời của Phù Vân quốc sư thể hiện một quan điểm mới về Thiền. Chính Thái Tông khi nhắc lại câu nói của Phù Vân quốc sư, đã gọi ông là Trúc Lâm đạo sĩ. Phải chăng người đặt nền móng cho phái Thiền Trúc Lâm, một Thiền phái Phật giáo đặc trưng Việt Nam […], mà sau này Trần Nhân Tông là ông tổ thứ nhất, chính là Phù Vân quốc sư?

Nhưng Yên Tử thật sự trở thành nơi trung tâm náo nhiệt của Phật giáo Trúc Lâm chỉ từ khi vua Trần Nhân Tông đến Yên Tử tu hành. Từ đó, cảnh sắc thiên nhiên ngoạn mục hòa quyện với chùa, am, tháp cổ kính của Yên Tử, vừa như chốn thần tiên, vừa lại gần gũi, gắn bó với con người. […]

V. Văn mẫu

Đề: Viết đoạn văn (khoảng 7-9 câu) đánh giá về khả năng gợi lên niềm đam mê khám phá thắng cảnh, di tích Yên Tử của văn bản “Yên Tử, núi thiêng”.

Qua văn bản “Yên Tử, núi thiêng” đã khơi gợi trong lòng mỗi người niềm đam mê khám phá thắng cảnh di tích Yên Tử. Vốn là là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh “đất tổ Phật giáo Việt Nam”. Núi Yên Tử là ngọn núi thuộc dãy cánh cung Đông Triều thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên còn có tên gọi là Bạch Vân sơn, núi rừng Yên Tử nổi tiếng là nơi có khung cảnh ngoạn mục và được mệnh danh là một trong những cảnh quan đẹp nhất đất Việt. Trên đỉnh núi thiêng Yên Tử còn có một khu di tích lịch sử với những ngôi chùa và tháp cổ cùng rừng cây cổ thụ lâu đời. Đỉnh Yên Tử cũng trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, tu hành và lập ra giáo phái Phật giáo có tên là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nếu có thời gian, bạn hãy thử đến nơi này để được ngắm nhìn trực tiếp nhé.

Đánh giá

0

0 đánh giá