TOP 20 bài Kể lại một truyền thuyết 2024 SIÊU HAY

617

Tailieumoi.vn biên soạn và giới thiệu bộ câu hỏi ôn tập Kể lại một truyền thuyết giúp học sinh ôn tập và bổ sung kiến thức cũng như hoàn thành tốt các bài kiểm tra môn Ngữ Văn 6. Mời các bạn đón xem:

Kể lại một truyền thuyết

Đề bài: Viết bài văn kể lại một truyền thuyết

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 1

Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con, không biết truyền ngôi cho con nào cho xứng. Không như những đời vua Hùng trước chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng thứ sáu nghĩ rằng, người nối ngôi phải là người có tài, nối được chí vua, biết thương yêu dân chúng, không nhất thiết cứ phải là con trưởng. Nghĩ mãi, nghĩ mãi. Cuối cùng, vua gọi các con đến và nói:

- Giặc vẫn nhiều lần sang xâm lược nước ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Đất nước đã thanh bình. Nay ta đã già rồi, không còn sống bao lâu được nữa. Ta muốn tìm người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.

Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.

Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.

Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:

- Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hãy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên vương.

Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.

Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.

Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 2

Vua Hùng Vương thứ sáu, lúc về già, muốn truyền ngôi cho con. Vua có đến mười hai người con trai, nhưng ngôi báu chỉ có thể truyền lại cho một người. Nên vua bèn nghĩ cách chọn ra một người thật xứng đáng. Người nối ngôi vua phải nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.

Nhân dịp đầu xuân, vua gọi các hoàng tử lại rồi bảo:

- Ai trong số các con tìm đước thức ăn ngon lành, có ý nghĩa bày cỗ dâng lên Trời Đất, tổ tiên, ta sẽ truyền ngôi cho.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, với hy vọng được truyền ngôi báu. Duy chỉ có Lang Liêu, người con thứ mười tám của nhà vua, lại tỏ ra rất băn khoăn. Tuy là người chăm chỉ, hiếu thảo nhưng mẹ chàng mất sớm nên thiếu người chỉ vẽ. Chàng chưa biết làm món gì để tham dự cuộc thi.

Một đêm, Lang Liêu nằm mộng thấy thần đến bảo:

- Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng hạt gạo. Gạo là thức ăn nuôi sống con người, ăn mãi mà không chán. Vậy con hãy lấy thứ gạo nếp để làm ra bánh hình tròn và hình vuông, lấy lá xanh bọc bên ngoài, đặt nhân trong ruột bánh.

Lúc tỉnh dậy, Lang Liêu mừng rỡ. Chàng liền chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vùng gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn.

Ngày lễ Tiên Vương đã đến, các hoàng tử mang biết bao là sơn hào hải vị đến. Vua Hùng xem qua một lượt, rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, liền gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần kể lại, rồi lí giải về nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa từng loại bánh. Nhà vua ngẫm nghĩ rồi chọn hai thứ bánh đem lễ Trời Đất, cùng Tiên vương.

Lễ xong, vua cho đem bánh xuống thưởng thức với quần thần. Ai cũng đều khen ngon.

Nhà vua nói:

- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Còn bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài mĩ vị, ngụ ý cho sự đùm bọc. Lang Liêu dâng lễ vật rất hợp với ý ta. Nên ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu.

Kể từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt. Hằng năm, cứ vào dịp Tết, nhà nào cũng làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng trời đất.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 3

Xưa, Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng vua có tới hai mươi người con trai nên không biết chọn ai cho xứng đáng. Giặc xâm lược đã dẹp yên, nhưng dân ta có ấm no thì ngai vàng mới giữ vững. Vua bèn cho gọi các hoàng tử đến và truyền:

- Ai trong số các con tìm được lễ vật dâng Trời Đất, tổ tiên có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho.

Các hoàng tử nghe vậy, đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên vua cha, mong được truyền ngôi báu.

Trong khi đó, Lang Liêu là con trai thứ mười tám của Vua Hùng tỏ ra băn khoăn, lo lắng. Chàng vốn hiền hậu, hết mực hiếu thảo nhưng vì mẹ mất sớm nên thiếu người chỉ vẽ nên chưa biết làm món gì để tham dự cuộc thi.

Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy thần đến bảo:

- Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Vì gạo nuôi sống con người, ăn mãi không chán. Các thứ khác tuy ngon nhưng hiếm, mà không làm ra được. Con hãy lấy gạo nếp mà làm bánh hình tròn và hình vuông để tượng trưng cho Trời và Đất; lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.

Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng rỡ. Theo lời thần dặn, chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh. Hạt nào hạt nấy tròn mẩy đem vo thật sách. Sau đó, chàng lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, chàng cũng lấy thứ gạo nếp ấy, đồ lên rồi nhã nhuyễn, nặn thành hình tròn.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử mang đủ thứ sơn hào hải vị đến. Vua Hùng xem một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Vua ngạc nhiên, liền gọi Lang Liêu đến hỏi chuyện. Chàng liền đem giấc mộng thấy thần kể lại cho vua nghe. Vua hùng nếm thử, thấy bánh ngon và có ý nghĩa, bèn cho họp mọi người lại, truyền rằng:

- Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất, thịt mỡ cùng với đậu xanh và lá dong tượng cầm thú, cỏ cây muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc bên ngoài ý chỉ đùm bọc, đoàn kết lẫn nhau. Lang Liêu dâng lễ vật rất vừa ý ta, nên sẽ nối ngôi ta.

Từ đó, nhân dân chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có Tục ngày Tết gói bánh chưng, bánh giầy.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 4

Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái. Nàng tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua muốn kén cho con một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.

Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Chàng tên là Thủy Tinh. Cả hai người đều ngang sức ngang tài khiến vua vô cùng khó xử, không biết chọn ai. Vua bèn cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc, xong vua gọi hai chàng vào rồi nói:

- Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.

Cả hai cùng nghe xong, liền tâu hỏi đồ sính lễ gồm những gì. Vua Hùng liền nói:

- Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến trước. Nhà vua lấy làm hài lòng, quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Còn Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ đùng đùng nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Nhưng Sơn Tinh chẳng hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngắn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.

Cả hai đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Kể từ đó, oán nặng thù sâu, năm nay, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng lần nào, Thủy Tinh cũng đều nhận phải lấy thất bại nặng nề.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 5

Thuở xưa, vào đời Hùng Vương thứ mười tám, nhà vua có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng vừa xinh đẹp tuyệt trần, lại dịu dàng nết na. Vua Hùng hết mực yêu thương nên muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng.

Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Người đến từ vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Chàng là Sơn Tinh. Người đến từ vùng biển, tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Chàng là Thủy Tinh. Vua Hùng thấy cả hai đều tài giỏi, vô cùng khó xử. Vua cho gọi các lạc hầu vào bàn bạc, rồi phán:

- Hai người đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.

Hai chàng nghe xong, liền hỏi nhà vua sính lễ gồm những gì. Vua Hùng nói:

- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Sơn Tinh và Thủy Tinh trở về để chuẩn bị. Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến. Nhà vua liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận.

Thần Nước hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước dâng cao là ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước khiến dân chúng vô cùng khốn khổ. Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngắn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.

Cuộc chiến diễn ra suốt mấy tháng trời. Đến cuối cùng, đội quân của Thủy Tinh sức cùng lực kiệt. Thần Nước phải cho rút quân về. Nhưng kể từ đó, oán nặng thù sâu. Năm nào, Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng Thần Nước vẫn không thể chiến thắng.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 6

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nọ. Họ sống hiền lành, phúc đức. Tuy tuổi đã cao nhưng vẫn chưa có con.

Một lần, người vợ ra thấy một vết chân to. Bà đặt chân vào ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà thì thụ thai. Đến mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Lạ thay, cậu bé lên ba vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì nằm đấy.

Bấy giờ, giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, bèn cho truyền sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài cứu nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao, liền nói với người mẹ:

- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!

Sứ giả vào, cậu bé nói:

- Ông hãy về tâu với đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.

Sứ giả nghe xong, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vã trở về tâu với vua. Nhà vua cho truyền thợ rèn ngày đêm làm gấp những thứ cậu bé yêu cầu. Kể từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, phải chạy nhờ bà con làng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh giặc cứu nước.

Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước đang lúc lâm nguy. Đúng lúc đó thì sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ. Mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt vô cùng. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ cưỡi ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng nhiên, roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, bỏ chạy. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Trâu. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.

Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 7

Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nổi tiếng là chăm chỉ, phúc đức. Hai ông bà mong ước có một đứa con. Một hôm, người vợ ra đồng trông thấy một vết chân rất to. Bà liền đặt chân vào ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà lại mang thai. Mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Nhưng kì lạ thay, cậu bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì nằm đấy.

Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, sai sứ giả đi tìm người tài giúp nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng cất tiếng nói:

- Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!

Sứ giả vào, cậu liền bảo với sứ giả:

- Ông về tâu với nhà vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.

Kì lạ hơn, từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, phải nhờ đến sự giúp sức của bà con hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp vì mong muốn cậu bé đánh giặc cứu nước.

Giặc đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, rồi phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhỏ bụi tre cạnh đường quật vào quân giặc. Giặc tan vỡ, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc.

Đến đây, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi. Tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Kể lại một truyền thuyết - mẫu 8

Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, phúc đức. Họ đã lớn tuổi mà vẫn chưa có con.

Một hôm, người vợ ra đồng, thất một vết chân rất to. Bà đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà mang thai. Đến tháng mười hai mới sinh ra một cậu bé. Lên ba tuổi cậu vẫn không biết nói, biết cười.

Thuở đó, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Thế giặc mạnh khiến nhà vua rất lo lắng. Vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao của sứ giả, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:

- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!

Sứ giả vào, cậu bé liền nói:

- Ông hãy về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.

Sứ giả nghe xong thì ngạc nhiên lắm, vội vã về kinh. Nhà vua nghe xong liền cho thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con làng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh tan quân giặc.

Lúc này, giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước đã rất nguy. Đúng lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắp, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa.

Ngựa hí dài mấy tiếng, rồi phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng hốt bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Thua trận, đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Lúc này, một mình tráng sĩ cưỡi ngựa lên núi. Đến đây, tráng sĩ c ởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.

Để tưởng nhớ công ơn, nhà vua đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Đánh giá

0

0 đánh giá