TOP 20 bài Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới 2025 SIÊU HAY

2.1 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Ngữ văn 11 Cánh Diều gồm 10 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới. 

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới

TOP 10 bài Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới 2024 SIÊU HAY (ảnh 2)

Đề bài: Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 1

Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình; là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”.

   Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió " có rất nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về... Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang rung lên xao xuyến...

"Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu về.

Cảm nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng "Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ cộng trì thu" mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường:

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".

   Cả một không gian "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như "lệ ngàn hàng". Liễu được nhân hóa "đứng chịu tang", từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: "đìu hiu - chịu", "tang - ngàn - hàng", "buồn - buông - xuống". Đó là một điểm mạnh, khá mới mẻ trong thi pháp mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng trưng Pháp trong thế kỉ XIX.

   Say mê ngắm "rặng liễu đìu hiu...", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ:

"Đây mùa thu tới/mùa thu tới

 Với áo mơ phai/dệt lá vàng".

   Một vần lưng thần tình: "tới - với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành "mơ phai". Đó đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là "dệt lá vàng". Câu thơ "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng.

   Có thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu lòng người.

   Mỗi ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói "đôi ba...”, mà lại viết "hơn một" cách dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, màu đỏ (từng chấm nhỏ) đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"! Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu” thi sĩ Tản Đà viết:

"Sắc đâu nhuộm ố quan hà

Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương".

   Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ:

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.

Những luồng run rẩy, rung rinh lá,

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".

   Các từ láy: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm, “r" (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm "m" (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu.

   Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già" mà lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:

"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ... "

Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh:

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò”

Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác. Rét mướt luồn trong gió thu hiu hắt chứ không phải là gió rét. Rõ ràng là chưa rét đậm, rét tê tái, đúng là cái rét, cái lành lạnh những chiều thu, những đêm tàn thu.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 2

Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân để tạo ra những thi phẩm để đời. Mùa thu trong thơ của Nguyễn Khuyến là một bức tranh thu nơi thôn quê yên bình, tĩnh lặng. Mùa thu trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư lại là những cảm nhận tinh tế của tác giả về một không gian trời thu chân thực và sống động. Nhưng đến với Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, với tâm hồn nhạy cảm và xốn xang của người nghệ sĩ, mùa thu trong thơ Xuân Diệu mang trong mình biết bao sắc thái diệu kì.

Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu của bài thơ là gì. Đó là nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối thu. Mà là đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu tới. Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”.

Đập vào mắt nhà thơ đầu tiên khi mùa thu đến là hình ảnh rặng liễu rũ. Nếu người thường, thấy rặng liễu ấy sẽ mang dáng vẻ dịu dàng ê ấp, thế nhưng, ở đây nhà thơ lại thấy rặng liễu như mang tâm trạng buồn bã như đang chịu tang, như đang trong cảnh biệt li chết chóc. Từng cành lá buông xuống, được nhà thơ ví như những giọt lệ tuôn rơi. Thật là một cảnh sắc thật buồn thê lương. Dường như ẩn đàng sau hình bóng rặng liễu là hình ảnh một thiếu phụ đang khóc lóc trong cảnh đưa tang. Đọc câu thơ lên mà độc giả cảm thấy buồn đến nao lòng. Đến hai câu tiếp, nhà thơ thông báo “mùa thu tới mùa thu tới” với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, lại càng nhán mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh thu mới tới.

Ở khổ thơ này, nhà thơ đã dùng những từ ngữ nhân hóa, khiến cho mùa thu cũng mang dáng vẻ của con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đây, chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng sầu thảm trước cuộc sống của nhà thơ.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế, mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.

“Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc và các nét chấm phá để khắc họa lên bức tranh thu đầy xơ xác và khô héo. Dường như nó ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán chường của tâm trạng con người. Con người trước Cách mạng tháng tám hay chính nhà thơ đang thấy mình thiếu sức sống, không biết bấu víu vào đâu và cảm thấy run rẩy trước dòng chảy của thời gian. Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới và cũng nhằm làm nổi bật nét thu đầy buồn thương.

Nếu như những câu thơ trên, nhà thơ mới phác họa bức tranh thu qua những đổi thay của thiên nhiên, thì tới khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã nói tới sự vần chuyển của cả vũ trụ lẫn con người. Ở đây, nhà thơ không gọi là bóng trăng, hay ánh trăng mà gọi là “nàng trăng”. Cụm từ ấy cho độc giả thấy nàng trăng như cô gái ngẩn ngơ tiếc nuối trước sự đổi thay của đất trời, của thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch như thường mà lại thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió…

Đã vắng người sang những chuyến đò…”

Không chỉ trăng ngẩn ngơ mà núi non cũng trở nên mờ nhạt. Dường như vạn vật đều trở nên hiu quạnh, mờ ảo khi bước chân mùa thu tới. Đã thế, đâu đó còn có những cơn gió lạnh đầu mùa, khiến cho cả đất trời lẫn con người bỗng trở nên buốt giá, là lạnh lẽo. Cũng chính vì thế mà những chuyến đò vốn tập nập hàng ngày giờ trở nên nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều đó chứng tỏ sức sống của con người cũng trở nên khô cằn, con người đều lui về ở ẩn. Điệp từ “đã” ở đây tác giả sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng mùa thu đã tới thực sự. Mùa thu không còn mới tới nữa mà đã bao trùm lên khắp không gian, cảnh vật và hồn người.

Qua quá trình phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu, chúng ta cảm nhận nét đẹp sầu bi của mùa thu. Thu chẳng còn vẻ đẹp lãng mạn mộng mơ mà chất chứa đầy nỗi buồn u uất. Đó cũng chính là tâm trạng của hầu hết các thi sĩ, nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 khi đất nước còn trong cảnh lầm than, khi mọi sự đang còn trong vòng luẩn quẩn và đời sống con người đang bị chà đạp bởi những thế lực tàn bạo nửa thực dân nửa phong kiến.

“Mây vẩn từng không, chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia ly.

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.

Chính bởi tâm trạng đang buồn rầu nên tác giả đã nhuốm màu buồn đó lên cảnh thu. Mặc dù có thể, mùa thu không đến nỗi sầu đau như thế. Nhưng vì quá uất hận, quá bi thương nên nhà thơ Xuân Diệu đã không thể giấu được lòng mình. Ông đã gửi gắm qua những câu thơ về mùa thu đầy xót xa. Đặc biệt ở khổ thơ cuối. Nhà thơ đã cho xuất hiện một loạt hình ảnh thể hiện sự chia ly, sự tử biệt. Rồi giữa khung cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi mông lung về điều gì mà không biết chính xác là điều gì. Dường như đó cũng chính là tâm tư của nhà thơ khi đang khao khát điều gì đó nhưng lại không thể biết chính xác là điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao mà bất an và nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó.

Toàn bộ bài thơ một là một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng những bút pháp nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng những từ láy gợi cảm giác như “run rẩy”, “ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Nhờ những từ đó là bức tranh thu trở nên sinh động hơn, có sức hút hơn với người đọc. Đặc biệt, những cách đảo ngữ thú vị càng giúp bài thơ bộc lộ rõ hơn sự biến chuyển của thời gian và tâm trạng não nề của tác giả. Với thể thơ tự do, nhà thơ cho thấy tâm hồn của mình thật phóng khoáng, không bị gò bó rào cản trong một khuôn mẫu nào cả. Nhờ thế mà bài thơ cũng dễ đi vào lòng người, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ cảm hơn.

Với "Đây mùa thu tới", nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô đơn.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 3

Xuân Diệu là nhà thơ đại diện xuất sắc trong nền thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Thơ Xuân Diệu bộc lộ niềm yêu đời, yêu cuộc sống, con người và khát khao hạnh phúc. Thơ ông luôn thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, với vũ trụ. Ông luôn mở rộng tâm hồn để đón nhận hương sắc muôn màu của cuộc sống. Từ mối giao hòa ấy, Xuân Diệu đã để lại nhiều bài thơ đặc sắc.

Một trong số đó là bài Đây mùa thu tới viết trước Cách mạng (1938). Cả bài thơ gợi tả phong cảnh khi mới chớm vào thu, mang nỗi buồn của mùa thu và gieo vào lòng người đọc nỗi buồn thấm thía nhưng thật đẹp. Đoạn thơ đầu rất tiêu biểu in đậm nét thu riêng của hồn thơ Xuân Diệu:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng

Bài thơ mở đầu bằng cảnh thật buồn. Cái buồn của lòng người thấm vào cảnh vật: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Trong thơ ca truyền thống, nói đến mùa thu là nói đến sen tàn, là ngô đồng rụng, cúc nở hoa:

Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu.

Chỉ cần một chiếc lá ngô đồng rụng là biết đất trời đã vào thu, nào cần phải nói gì nhiều. Chiếc lá ngô đồng lìa cành trong thơ xưa trở thành biểu tượng của mùa thu. Xuân Diệu không cần đến chiếc lá ngô đồng rụng mà vẫn cứ là mùa thu. Mùa thu của ông không hẳn đã là sự tàn tạ, chết chóc mặc dù nỗi buồn cũng là đến độ vô cùng:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Mùa thu được Xuân Diệu cảm nhận trước hết bằng hình ảnh rặng liễu. Đây là hình ảnh ước lệ xuất hiện nhiều trong thơ trung đại: “Khi về hỏi liễu Chương Đài”, “Lơ thơ tơ liễu buông mành” – (Nguyễn Du), “Dặm liễu sương sa khách bước dồn” (Bà Huyện Thanh Quan). Đối với Xuân Diệu, liệu lại được nhân hóa như con người: lá mướt dài rủ xuống, thướt tha như người thiếu nữ đứng cúi đầu cho những làn tóc mây đổ xuống, đồng thời cũng gợi ngàn dòng lệ tuôn rơi hàng nối hàng.

Quả thật khi mùa thu vừa tới mà cảnh đã buồn thê lương, không phải là nỗi buồn man mác, hắt hiu như Nguyễn Khuyến, Tản Đà… mà là một nỗi buồn vợ ra bằng nước mắt, bằng ngàn dòng lệ tang tóc. Nỗi buồn ấy thật mênh mang.

Nó mở ra cả không gian ba chiều dày đặc bởi đâu có phải một cây liễu mà là một “rặng liễu”, một hàng người… Những từ “đìu hiu”, “chịu tang”, “tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” … cách sử dụng thanh điệu và láy âm đã tạo ra một âm điệu buồn, gợi rất đạt cái dáng buông xuống, rủ xuống mềm mại của những hàng tơ liễu. Nhưng ngay ở hai câu thơ này, mùa thu tuy buồn mà vẫn đẹp và nhất là vẫn trẻ trung.

Với Xuân Diệu thì ngược lại, ông lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thiên nhiên được nhân hóa một cách nghệ thuật. Do vậy mặc dù cảnh buồn đến thế nhưng với cách nhìn trẻ trung của nhà Thơ mới, luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non, biếc rờn” nên người đọc vẫn thấy cảnh buồn mà lại đẹp:

Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Câu thơ vang lên như một tiếng reo khẽ. Được nhắc lại tới hai lần với từ “đây” ở đầu câu biểu hiện nỗi niềm đầy hứng khởi, xác nhận một sự thực bấy lâu vẫn chờ mong: ấy là sự hiện diện trọn vẹn của mùa thu. Nhịp điệu câu thơ bỗng trở nên gấp gáp, một sự ngỡ ngàng chợt đến nhẹ nhàng, một chút yêu đời, yêu cuộc sống.

Câu thơ cuối là hình ảnh bầu trời thu, không gian mùa thu, cái không gian mùa thu ấy như chiếc áo màu “mơ phai” choàng cho cảnh vật, tạo cho mùa thu một dáng vẻ tươi sáng thanh nhẹ.

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Xuân Diệu cũng nằm bất rất đúng cái sắc vàng của mùa thu ấy nhưng mà vàng nhạt, màu của chiếc áo “mơ phai” dệt bằng sắc lá vàng tươi. Cái đẹp của chiếc áo thu vàng như chứa đựng một sự tàn phai quên lãng, nhưng chính nhờ cái sắc màu tươi sáng thanh nhẹ ấy mà đoạn thơ tuy buồn nhưng không hiu hắt bi thương.

Chỉ với bốn câu thơ/ Xuân Diệu đã làm sống dậy cả một cảnh thu, một sắc thu Việt Nam với những vẻ đẹp vừa thân quen, vừa mới lạ của một hồn thơ nhạy cảm và tinh tế. Nhưng thấm sâu trong cảnh thu vẫn là một nỗi buồn man mác. Đó là nỗi buồn của thời đại, nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái “tôi” bé nhỏ của các nhà thơ lãng mạn bơ vơ trước cuộc đời. Nỗi buồn ấy, vẻ đẹp ấy đã làm nên một nét thu riêng của Xuân Diệu nhưng lại là một nét thu tiêu biểu cho thơ lãng mạn bấy giờ.

Có thể nói đoạn thơ đầu là đoạn hay nhất trong bài thơ mùa thu của Xuân Diệu, được cảm nhận với những hình ảnh! màu sắc, âm thanh rất riêng, rất Xuân Diệu. Đoạn thơ thể hiện cảm xúc tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, tất cả được diễn tả bằng ngôn ngữ mới lạ. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu là nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”.

TOP 10 bài Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới 2024 SIÊU HAY (ảnh 3)

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 4

Nếu ví Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một bức tranh thu thì bốn khổ thơ có thể coi như bộ tứ bình hợp làm nên kiệt tác ấy. Trong đó, khổ thơ thứ hai tuy chỉ là một mảng nhỏ nhưng là mảng màu đậm nhất, sống động nhất, đã thâu tóm bước đi của mùa thu trong một góc vườn:

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rầy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Mùa thu đã đến thật rồi. Từ phút giao mùa đầy ngỡ ngàng “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”, sang khổ hai, mùa thu đã bất đầu hành trình xâm chiếm của nó ở cấp độ vĩ mô, từ những tế bào của sự sống:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Câu thơ mang đậm phong cách Xuân Diệu. Tại sao lại là “Hơn một loài hoa’’ chứ không phải “Đã mấy loài hoa rụng dưới cành” như Thế Lữ đã từng sửa cho Xuân Diệu? “Một là duy nhất nhưng “hơn một” thì cái thế độc tôn ấy đã bị phá vỡ. “Hơn một” chứ không phải “nhiều” vì mùa thu chỉ mới vừa chạm ngõ đất trời, chỉ mới vừa dột những đường chỉ đầu tiên của chiếc “do mơ phai” tuyệt đẹp.

Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh

Thu đến thì lá chuyển màu, điều này Xuân Diệu không phai là người đầu tiên nói đến. Bức tranh dịu dàng với sắc “mơ phai” ở khổ một đã được chấm phá thêm hai mảng màu đậm, làm nổi bật lên hình hài, vết dấu của mùa thu. Chính vì vậy mà tuy không có một chữ “thu”, bước đi của mùa thu trong câu thơ vẫn hiện nên rõ nét.

Và không chỉ cảm nhận mùa thu bằng thị giác, Xuân Diệu còn mở rộng hồn mình để đón nhận “những luồng run rẩy” của cảm xúc, của mùa thu:

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Biện pháp điệp phụ âm ở khô đầu lại một lần nữa tỏ ra vô cùng đắc địa. Bốn âm rung liên tiếp không chỉ khắc họa tinh tế chuyển động run rẩy của lá cây mà còn khiến câu thơ đọc lên cũng nghe rung rinh một điệu nhạc. Có người vè đoán rằng “luồng run rẩy” ở đây là luồng gió nhưng nếu vậy thì câu thơ chỉ dừng lại ở việc tả chứ đâu gợi rét, đâu thể chuyển tải được những cảm nhận tinh vi, bén nhạy ở nhà thơ.

Khổ thơ kết thúc ở hình ảnh những nhánh cây khô gầy, gân guốc như chạm khắc lên nền trời. Mùa thu đã hoàn tất giai đoạn của một hành trình đi tới. Nó không chỉ tước hết lá trên cành mà còn tước đi cả sự sống, cả dáng vẻ mạnh mẽ của những thân cây.

Đôi nhánh khô gày xương mỏng manh

Câu thơ bảy chữ mà đã có đến sáu thanh bằng, tạo cảm giác ngưng đọng, ngừng nghĩ như dấu lặng giữa ban nhạc, lẽ dư ba, dư âm của khổ thơ ngân mãi và bắc cầu sang khổ thứ ba.

Tuy chỉ là bốn câu trong bài. Đó mùa thu tới nhưng nếu đứng một mình, khổ thơ trên có thể sánh ngang với một bài tứ tuyệt hoàn mĩ bởi sự dồn nén của cảm xúc, nói ít nhưng gợi nhiều vần lá hoa lá cỏ cây – những thi liệu cổ điển, nhưng đến với Xuân Diệu, dưới lăng kính một tâm hồn “dào dạt sức sống”, chúng bỗng như được thổi một luồng gió mới mang nặng cảm quan của tác giả.

Và đằng sau những dòng chữ run rẩy, xao động kia phải chăng là nỗi ám ảnh khôn nguôi về thời gian của Xuân Diệu, là sự “vội vàng“, cuống quýt trước “độ phai tàn sắp sửa” cua cái đẹp, của thiên nhiên. Bức tranh mùa thu không chỉ đóng khung trong 28 chữ mà như cựa quậy, xôn xao trên mặt giấy, trong lòng người.

Ngòi bút tài hoa của Xuân Diệu như tung hoành trên trang giấy, chấm phá mảng kia mà tạo nên cái hồn của khung cảnh. Khổ thơ đã góp một phần không nhỏ làm nên thành công cho toàn bài cũng như chứng tỏ lời nhận định của tác giả thi nhân Việt Nam: “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới” là hoàn toàn chính xác.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 5

Xuân Diệu ông hoàng của thơ tình yêu, chưa kể những bài thơ của ông đều mang những quan niệm rất mới về cuộc sống, tuổi trẻ và về tình yêu. Ông cũng được xem là thi sĩ của mùa thu, cũng chính vì cái lãng mạn, khoảnh khắc xao xuyến của thu mà những vần thơ của nhà thơ hồn hậu và có hồn biết bao nhiêu. Đây mùa thu tới là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Xuân Diệu. Mùa thu đó hiện ra thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn rung lên những điệu nhạc xao xuyến lòng người.

Rút từ tập “ Thơ Thơ”, sáng tác "Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938. Thu đến, những chiếc lá rụng, gió hắt hiu làm xốn xang lòng người đặc biệt là một tâm hồn của một người thi sĩ, vốn đã có chút nhạy cảm với những thay đổi của đất trời dù là nhỏ nhất.

Nhưng có lẽ hình ảnh mùa thu tới trong tác phẩm khiến cho người đọc cảm nhận một không khí tang thương bi ai,những hình ảnh không phải hoa lá, không phải gió đưa cần trúc, không phải mặt nước xanh biếc mà gắn với hình ảnh những cành liễu

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".

Không gian hiện ra với vẻ "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Sương thu ướt đẫm trên những nhánh liễu khiến tác giả ngâm nga một câu khiến chúng trở nên có hồn. Những cành liễu giống như những cô giá thướt tha, nhưng mắt buồn đẫm lệ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: "đìu hiu – chịu", "tang – ngàn – hàng", "buồn – buông – xuống". Đây tạo nên những nét thú vị của thơ Xuân Diệu những năm đầu thế kỉ 20.

Ngắm nhìn rặng liễu, đột nhiên tác giả chợt nhận ra màu thu đã tới, với cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.

"Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng".

Cách hiệp vần lưng thần tình: "tới – với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu tới cũng chính muôn nơi được nhuộm bởi một màu vàng của cây đổi lá, nó được dệt một cách tỉ mỉ mang tới một vẻ đẹp không phải tự dưng mà có. "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ thi vị biết bao, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng. Tuy nhiên mùa thu đó lại bắt đầu với một nỗi buồn ảm đạm hắt hiu.

Thu về cũng chính là lúc cảnh vật đổi khác, khoác lên mình những màu sắc rực rỡ. Thu đã về và thu dần trôi,thời gian trôi nhanh không tưởng. Cảnh vật một lúc một khác, hoa rơi, màu đỏ lấm chấm dần và rủa màu xanh. Cây cối cảnh vật bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt.

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.

Những luồng run rẩy, rung rinh lá,

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".

ở khổ thơ này, tác giả sử dụng những từ láy như: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Đặc biệt hình ảnh sắc đỏ “ rủa “ màu xanh khiến cho câu thơ mang một nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Màu xanh đó không mướt như ngọc mà từ từ từ lan rộng ra, và mọi thứ như ngấm chất thu vào đó.

Thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo ở khổ thơ thứ 3 được sử dụng một cách triệt để: là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Hình ảnh núi nhấp nhô trong làn sương mờ cành làm nổi bật những hình ảnh của mùa thu. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:

"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò”

Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu với không khí se se lạnh. Chúng ta thấy có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Như chính tác giả dang đứng giữa chiều gió thu, se se lạnh,chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác.

Đâu đẹp bằng hình ảnh thiên nhiên đẹo đẽ ở khổ thơ cuối.Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim, xuất hiện vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp nhưng mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca!

"Mây vẩn từng không chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia li"…

"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"

Bao giờ trong thơ Xuân Diệu luôn xuất hiện hình bóng của giai nhân.Đây mùa thu tới cũng vậy, xuất hiện hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu.

Bài thơ Đây mùa thu tới" lắng đọng trong độc giả những cảm xúc rất riêng, không những vậy cách cảm nhận của tác giả cũng rất mới mẻ. Mọi cảnh vật trong bài thơ mặc dù có thiên nhiên nhưng không thể thiếu được trong thơ Xuân Diệu là hình bóng giai nhân. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp đều hiện ra với nỗi buồn mênh mang không biết từ đâu đến.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 6

Cũng viết về đề tài mùa thu - một đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Nhưng cái thu trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu không giống với cảnh thu, trời thu, sắc thu truyền thống trong chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ này tác giả gửi vào đó những xúc cảm mới, đồng thời có nhiều cách tân táo bạo trong việc xử lý thi liệu, trong diễn đạt,…đã làm nên một mùa thu rất độc đáo trong hồn thơ Xuân Diệu.

Nhạy cảm với những biến đổi của thiên nhiên đất trời trong khoảnh khắc giao mùa giữa hạ sang thu. Nhà thơ cảm thu từ hình ảnh thay đổi của rặng liễu- một hiện tượng rất mới lạ và độc đáo so với thơ trung đại. Hình ảnh rặng liễu ở đây được nhà thơ liên tưởng tới các thiếu nữ đứng xõa tóc chịu tang và tràn lệ. Điều đó làm cho rặng liễu mùa thu bỗng trở nên đẹp hơn, trẻ trung và có hồn hơn.

“ Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”

Qua đó cũng thể hiện rõ cảm quan thẩm mỹ riêng của Xuân Diệu: lấy cái đẹp thanh xuân của người thiếu nữ để làm thước đo, phương tiện để tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng cảnh đẹp này vương vấn chút buồn. thật khiến lòng người man mác. Tếp đó là tiếng reo vang như đang vui mừng trước sự xuất hiện của “Nàng Thu”:

“ Đây mùa thu tới - mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”

Xuân Diệu sử dụng điệp ngữ “ đây mùa thu tới - mùa thu tới” thể hiện sự sôi nổi giống như là tiếng reo thích thú với sự tới của mùa thu. Đó chính là tình cảm, sự ưu ái của nhà thơ dành cho cái đẹp. Thông qua hình ảnh “áo mơ phai dệt lá vàng” cho thấy nhà thơ phát hiện ra nàng thu đang tới chậm rãi, khoan thai bước đến với tấm áo vàng màu mơ phai. Giống như một thiếu nữ đoan trang, e lệ bước đi uyển chuyển, cười duyên nhẹ nhàng như hơi thở say đắm mà dịu ngọt của mùa thu.Đặc biệt, Xuân Diệu có con mắt rất tinh tế, rất độc đáo. Ông miêu tả mùa thu với màu “áo mơ phai”. Mơ phai không phải hẳn vàng, mà cũng chẳng hẳn là xanh. Đó màu vàng pha chút ánh xanh, vàng tươi non, một màu vàng còn vương vấn màu xanh của mùa hạ.

“ Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh”

Tới đây nhà thơ đi vào quan sát rất tỉ mỉ, miêu tả cụ thể cảnh thu đẹp trong vườn thu: có hoa, lá, cành, gió thu. Nghệ thuật liệt kê để kể ra hàng loạt cảnh vật phong phú. Về hoa đã có một số loài hoa đã lìa cảnh, những cánh hoa rơi nhẹ xuống mặt đất. Còn lá trong vườn thì đã tàn úa. Màu xanh là biểu tượng của sự sống tươi trẻ đã bị một màu đỏ màu tàn tạ biểu tượng cho sự chết tróc đã “rũa”, mài mòn, gặm nhấm, dần lấn chiếm thay thế màu xanh. Thêm vào đó là hình ảnh các nhánh cây, chúng không chỉ khô gầy mà được tác giả miêu tả tăng lên tới độ mỏng manh. Hình ảnh những cành cây chụi lá, giường như nó đã khô kiệt mất hết đi sức sống, nhựa sống. Đôi nhánh “run rẩy”, “rung rinh” ớn lạnh. Tác giả sử dụng biện pháp láy phụ âm đầu để thể hiện sự ớn lạnh của các cành cây trước gió.

Cảnh thu được mở rộng ra không gian ba chiều với trăng cao, non xa, đò sâu:

“ Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió..

Đã vắng người sang những chuyến đò..”

Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến hình ảnh nàng trăng hiện ra với khuôn mặt tròn đầy, tươi sáng nhưng lại vương một nỗi sầu ngẩn ngơ. Đó là sự tiếc nuối, vơ vẩn và mơ hồ. Trăng giống như một cô gái đẹp đang tựa cửa suy tư, ánh mắt trong veo nhìn vô định, ngẩn ngơ buồn giữa không gian xa và rộng.

Trong câu thơ:

“Non xa khởi sự nhạt sương mờ…”

Cụm từ “non xa” gợi tả những dãy núi nhấp nhô, trùng điệp, vươn lên trong biển khói sương một cách mạnh mẽ thể hiện thông qua từ “khởi sự” cho thấy phong cảnh rất hùng vĩ, tráng lệ và thơ mộng. Lại tiếp tục là một từ gợi hình “ rét mướt” để nói lên sự rét mướt của mùa đông đang luồn vào những sợi gió của mùa thu. Và ở đây tác giả cảm được sự giao thoa của ba mùa hạ- thu- đông.

“Đã vắng người sang những chuyến đò..”

Những chuyến đò đã vắng khách, ít người qua lại. Hơn nữa, qua khổ thơ cũng cho thấy mùa thu với Xuân Diệu còn là mùa của sự chia li: người chia tay với người, mùa chia tay với mùa, cảnh vật cũng chia ly với nhau. Điều đó được ông thể hiện thông qua các câu thơ:

“ Mây vẩn từng không chim bay đi

Khí trời u uất hận chia li

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”

Màu sắc của sự chia li bắt đầu từ cảnh vật. Những loài chim di cư cũng đã cảm nhận được cái rét của mùa đông sắp tới nên chúng vội vã bay về phương Nam để tránh cái lạnh giá nơi phương Bắc. Bầu trời cũng nhuốm màu u uất của sự chia ly thể hiện ở những đám mây vần vũ, chao đảo. Tất cả đã khiến cho bầu trời trở nên vẩn đục, xám xịt. Và đó cũng chính là bầu trời của tâm trạng, sắc màu tâm lý.

Trong hai câu thơ cuối tác giả thể hiện tình thu:

“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”

Hình ảnh các thiếu nữ tươi trẻ hiện ra trong dáng đứng tựa cửa, yểu điệu duyên dáng nhưng ánh mắt thì nhìn xa xăm và ẩn chứa một nỗi buồn rất mơ hồ, không xác định được nguyên nhân biểu hiện của những thiếu nữ nhạy cảm. Các thiếu nữ là trung tâm, điểm sáng và là linh hồn cho bức tranh khiến cho bức tranh bằng ngôn từ của Xuân Diệu trở nên đẹp và gợi cảm hơn.

Đây mùa thu tới trích trong tập Thơ thơ của Xuân Diệu đã vẽ lên một bức tranh phong cảnh mùa thu trong thời khắc giao mùa và được nhà thơ cảm nhận tinh tế, tái hiện bằng bút pháp hiện đại. Đây cũng là một trong những bài thơ đánh dấu thành công xuất sắc tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu. Một bức tranh thu đẹp, rất đẹp nhưng buồn, khiến ta đọc xong cứ ngẩn ngơ, vương vấn mãi.

Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình,; là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.

Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng: "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió " có rất nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về… Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang rung lên xao xuyến…

"Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu về.

Cảm nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng "Ngô đồng nhất diệp lạc – Thiên hạ cộng trì thu" mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường:

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".

Cả một không gian "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như "lệ ngàn hàng". Liễu được nhân hóa "đứng chịu tang", từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: "đìu hiu – chịu", "tang – ngàn – hàng", "buồn – buông – xuống". Đó là một điểm mạnh, khá mới mẻ trong thi pháp mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng trưng Pháp trong thế kỉ XIX.

Say mê ngắm "rặng liễu đìu hiu… ", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ:

"Đây mùa thu tới/mùa thu tới

Với áo mơ phai/dệt lá vàng".

Một vần lưng thần tình: "tới – với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành "mơ phai". Đó đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là "dệt lá vàng". Câu thơ "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng.

Có thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu lòng người.

Mỗi ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói "đôi ba…”, mà lại viết "hơn một" cách dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, màu đỏ (từng chấm nhỏ) đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"! Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu” thi sĩ Tản Đà viết:

"Sắc đâu nhuộm ố quan hà

Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương".

Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ:

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.

Những luồng run rẩy, rung rinh lá,

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".

Các từ láy: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm, “r" (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm "m" (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu.

Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già" mà lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:

"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "

Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh:

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò”

Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác. Rét mướt luồn trong gió thu hiu hắt chứ không phải là gió rét. Rõ ràng là chưa rét đậm, rét tê tái, đúng là cái rét, cái lành lạnh những chiều thu, những đêm tàn thu.

Khổ cuối là một bức tranh thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim. Có vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca! Thi sĩ đã lấy cái "động" của cánh chim bay, của áng mây chiều trôi để đặc tả cái êm đềm, yên tĩnh của cõi vật và lòng người:

"Mây vẩn từng không chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia li"…

Trong cái êm đềm, xa vắng ấy hiện lên hình ảnh thiếu nữ "ít nhiều" chưa xác định. Buồn tương tư, "buồn không nói". Một dáng điệu "tựa cửa nhìn xa", một tâm hồn "nghĩ ngợi gì" rất mơ hồ, xa xăm:

"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"

Là mùa xuân hay mùa thu, là mùa hè hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?

"Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm

Hây hây thục nữ mắt như thuyền".

("Nụ cười xuân" – Thơ thơ)

Trong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện qua hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu "bé tẻo teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu ngà ngà say trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút đề thơ mà phân vân, lưỡng lự… Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói trạng thái buồn mơ hồ, buồn không rõ nguyên cớ là một nét tâm trạng rất điển hình của hồn thơ Xuân Diệu:

"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói… "

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn…".

Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Điệu. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp mà buồn, bao nên cái hồn thu mênh mang, xao xuyến. Đáng yêu nhất là hình ảnh thiếu nữ, một dáng thu yêu kiều mộng tưởng "Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì". Một trái tim đa tình, một ngòi bút tài hoa. Cách cảm và cách diễn tả rất mới, rất thơ. Đằng sau những sắc thu của đất trời, hoa lá, cây cỏ, của núi xa, của nàng trăng, của làn gió thu se lạnh,… là tiếng thu xôn xao, rung động trong tâm hồn thi sĩ tuổi đôi mươi và trong lòng thiếu nữ tuổi trăng tròn. Bài thơ cho ta nhiều ngẩn ngơ say cái hương sắc mùa thu xưa, mùa thu Hà Nội hơn nửa thế kỉ trước.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 7

Xuân Diệu là một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ mới ở việt nam. Trong các tác phẩm, của ông về đề tài mùa thu, nổi bật nhất là tác phẩm Đây mùa thu tới. Bài thơ viết về đề tài quen thuộc là mùa thu và vẫn dùng nhiều thi liệu truyền thống. nhưng tác giả đã gửi vào đó những cảm xúc mới đồng thời có nhiều cách tân táo bao trong xử lý thi liệu, trong biểu đạt,…. Chính vì vậy bài thơ vẫn được xem là một thành công xuất sắc, tiêu biểu cho hồn thơ mới của nhà thơ.

Trước tiên, trong khổ 1

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Xuân Diệu không mượn hình ảnh tượng trưng là ngô đồng rụng để nói mùa thu mà sử dụng hình ảnh cây liễu, như trong truyện Kiều “Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha” hay trong ca dao truyền thống “Lơ thơ tơ liễu buông mành” là những cây liễu đơn thuần chỉ làm duyên làm dáng cho con người, còn trong bài thơ của xuân diệu, cây liễu là hình ảnh nhân hóa như một nugời phụ nữ duyên dáng yêu kiều buồn tang tóc não nùng. Xuân diệu đã đưa vào bài thơ một nét riêng mới lạ đó chính là đem lại cho rặng liễu một dáng hình cụ thể, một tâm hồn con người, một nỗi sầu muộn rất người. Nỗi buồn được thể hiện qua từ láy “đìu hiu” hình ảnh gợi sự yếu đuối “tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”, sự láy âm giữa các chứ “buồn-buông-xuống” “tang-ngàn-hàng” tạo lên hiệu quả diễn đạt miêu tả cái buồn của mùa thu, đó là dấu hiệu của chia tay tang tóc cây liễu trĩu nặng như không mang nổi mình nó

“Đây mùa thu tới mùa thu tới”

Lặp 2 lần động từ “tới” báo hiệu một mùa thu vội vã, một sự giao cảm tinh tế nhạy bén. Nhịp câu thơ 4/3, sự lặp lại mùa thu tới như một tiếng reo ngỡ ngàng như chợt nhận ra mùa thu vô hình đã trở thành mùa thu hữu hình. Xuân diệu đón mùa thu bằng cả tấm lòng
“Với áo mơ phai dệt lá vàng”

Xuân diệu đã vẽ nên mùa thu bằng chiếc áo mơ phai tạo cho mùa thu một dang vẻ tươi sáng thanh nhẹ quý phái, đây là màu sắc hư ảo. động từ dệt đêm đến cho ta cảm nhận màu vàng nhưng không tĩnh lặng, một màu xanh đậm không chịu úa tàn mà vẫn tiềm ẩn một sức mạnh của thiên nhiên. Câu thơ mất đi một chút rõ ràng nhưng được thêm rất nhiều thơ mộng. Khổ thơ 1 sử dụng biện pháp nhân hóa từ ngữ tinh tế tạo nên một bức tranh thiên nhiên chớm thu lộng lẫy nhưng không buồn

Khổ thơ 2, tác giả viết

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Hơn một có nghĩa là vài là mấy nhưng lại không mang tính cụ thể, từ hơn một là từ ngữ rất tân kì, không dùng từ mấy, vài vì nó xã định giới hạn dùng từ hơn một gợi nhiều giá trị giợi cảm hơn. “Hoa rụng” thay cho từ lá rụng mà các nhà thơ xưa hay dùng đã tăng thêm cảm giác chia lìa tang tóc.

“Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”

Rũa là từ chỉ xung đột giữa sắc đỏ và sắc xanh. Nhà thơ dùng những gam màu đối lập gay gắt đỏ – xanh vừa gây một cảm giác mạnh, vừa biểu hiện một ý tưởng, bước đi tàn nhẫn của thời gian làm phôi phai tất cả trong đó có màu lá.

“Những luồng run rẩy rung rinh lá”

Láy 4 phụ âm “r” gợi cảm giác lạnh lẽo, một sự rung động khẽ khàng của cây lá. Sử dụng một loạt âm tiết có phụ âm rung láy, bốn phụ âm “r” đã làm run rẩy cả câu thơ, cái lạnh như thấm từ đầu lưỡi lan ra đến tận gan ruột con người. Sự rung động khẽ của cây lá hay cũng chính là sự sợ hãi mang tâm trạng con người. Tác giả miêu tả gợi cảm cả bên trong cảnh vật

“Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”

Câu thơ là nét vẽ tranh phương đông chấm phá, chỉ ra linh hồn cảu cảnh vật, sự trơ trọi gầy guộc của cành lá khi thu, nhưng là mùa thu chưa định hình nên chỉ là đôi nhánh. Với cảm quan nhạy bén, với khả năng lựa chọn từ ngữ hình ảnh đoạn thơ đã đem lại cho ta cái sống động của cảnh vật. Đó là sự sợ hãi của những chiếc lá sắp bị lìa cành, cách cảm nhận từ ngữ tinh tế, xuân diệu đã cảm được những biến động tinh vi huyền diệu của thiên nhiên, đó là cảnh phôi pha tan nát khi trời đất chuyển thu.

Sang đến khổ thơ thứ 3:

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

Sự xuất hiện hình ảnh trăng cô lẻ, ngẩn ngơ buồn, hình ảnh non xa nhạt nhòa tạo cảm giác không gian quạnh hiu xa vắng, đặc biệt là chữ “vắng” càng giúp người đọc cảm nhận nỗi buồn vô cùng.

“Đã nghe rét mướt luồn trong gió”

“Nghe” có sự chuyển đổi cảm giác từ xúc giác sang thính giác. Câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa rét mướt – luồn, gió rét đã hòa làm một, nhưng từ luồn đã tách đôi gió rét ra làm 2 vật thể riêng biệt. Đó là một cách vật thể hóa cái lạnh, chỉ mức độ cái lạnh của mùa thu, cái vô hình đã thành cái hữu hình nhờ động từ luồn. tác giả đã mở hết các giác quan để thụ cảm cái nhạt nhòa quạnh hiu buồn. Ta thấy đát trời quạnh quẽ xa mờ hơn, vầng trăng như cùng bơ vơ, ngẩn ngơ, núi không rõ nét, tất cả như đang chia ly như rời bỏ nhau.

Khổ thơ thứ tư cũng là khổ thơ cuối cùng

Mây vẩn từng không chim bay đi

Khí trời u uất hận chia ly

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì

Khổ thơ thứ 4 là cái nhìn lên bầu trời “mây vẩn từng không…” nếu bầu trời trong thơ Nguyễn Khuyến là bầu trời trong nhẹ cao thì trong thơ Xuân Diệu là “mây vẩn từng không chim bay đi” là chim đi khi trời u uất, không gian rộng xa vắng tạo sự chia ly tan tác, cảnh vận động theo mạch từ cái xác định cụ thể đến cái không xác định. Cái tình đậm nét dần, những nỗi buồn, cái buồn của cái tôi cá nhân càng đi sâu càng thấy lạnh càng cô đơn, cái tôi tách khỏi cái ta (đặc trưng của thơ mới). Hai câu thơ cuối là sự xuất hiện của ít nhiều từ ngữ khônng làm cho cảnh vui hơn mà trái lại càng sầu thảm hơn, đây là lối diễn đạt rất tây trong cấu trúc đảo ngữ “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói”đã vẽ lên nỗi sầu buồn lẻ loi cô đơn của thiếu nữa trước không gian mênh mang, hai câu thơ nói lên nỗi buồn xa xăm thương nhớ, sự ngơ ngác của các cô gái chàng trai và cũng chính là tâm trạng nhà thơ, những con người mơ mộng và say đắm yêu thương. Con người đã xuất hiệnt rong tâm trạng u buồn suy tư, tình thu đã đâm sâu vào cảnh vào lòng người.

Qua bài thơ ta thấy nhà thơ có một tâm hồn nhạy cảm một năng lực quan sát tinh tế, một trí tưởng tượng phong phú. Nỗi buồn trong thơ xuân diệu không chỉ là nỗi buồn của những con nugời thời đại không tìm được hướng đi cho mình mà còn do những đặc điểm rất riêng của nhà thơ, khát khao giao cảm với đời mà đời lạnh nhạt, nỗi ám ảnh sâu sắc về thời gian một đi không trở lại. Bài thơ là không gian đẹp chứng tỏ nhà thơ có một tình yêu tha thiết với quê hương đất nước, đó là yếu tố tích cực trong thơ xuân diệu cũng như của các nhà thơ mới.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 8

"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"

Từ lâu, đề tài mùa thu đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các thi nhân. Nếu như ở trên ta có một "Thu điếu" - Nguyễn Khuyến với cảnh thu thân thuộc, bình dị của làng quê đồng bằng Bắc Bộ thì đến với "Đây mùa thu tới", Xuân Diệu lại mang đến bức tranh thu sinh động, ấn tượng đồng thời tác giả bày tỏ cảm xúc u sầu, trầm tư khi mùa thu đến.

"Đây mùa thu tới" được rút từ tập "Thơ thơ" xuất bản 1938, là một đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca trước Cách mạng. Bài thơ chính là khung cảnh đất trời với "hơi thở" man mác buồn cùng với đó là nỗi bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu về.

Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được cái buồn, vắng vẻ của cảnh vật

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng"

Tác giả dẫn dắt độc giả với hình ảnh đầu tiên - "liễu". Xuân Diệu đã chọn hình ảnh này làm tín hiệu của mùa thu nhằm diễn tả một mùa thu buồn man mác nhưng cũng đầy lãng mạn. Tâm trạng mà tác giả xây dựng cho "nhân vật" này là cái "đìu hiu" - tức là sự vắng vẻ, đơn côi. Và sự cô đơn này không chỉ diễn ra trên một mà là "rặng" - với nhiều cây liễu càng làm cho nỗi buồn chồng chất, lây lan. Chính từ láy "đìu hiu" đã miêu tả không khí buồn, lẻ loi của "liễu". Nhà thơ đã dùng thủ pháp nhân hóa để nói lên hành động của "liễu" là "đứng chịu tang". Lúc này, "liễu" không còn là một thực thể vô tri vô giác nữa mà thay vào đó là hình ảnh buồn, lặng lẽ nghiêng mình trước "tang".

Hình ảnh "lệ ngàn hàng" gợi nỗi đau, nỗi buồn khi tác giả sử dụng số đếm "ngàn" để chỉ về nước mắt của cây liễu. Chính điều này làm người ta tự hỏi liệu nguyên nhân nào khiến cho "liễu" khóc, ai đã ra đi để "nàng" phải "chịu tang". Hai câu thơ gợi mở và làm cho người đọc tò mò về những "diễn biến" tiếp theo. Ở khổ thơ đầu này, một biện pháp nghệ thuật nữa mà tác giả sử dụng là láy âm gần nhau. Liên tiếp là ba chữ "Buồn - buông - xuống" là các âm tiết nửa khép nên khẩu hình khi phát âm là hẹp tạo cảm giác nỗi buồn ứ đọng và khi phát âm thì âm thanh trầm. Thanh âm theo thứ tự là bằng thấp, bằng cao, trắc cao nên khi đọc câu thơ gợi cảm giác nỗi buồn đang "buông" từ từ, không vội vã . Cũng tương tự như vậy tác giả sử dụng láy âm cho ba chữ "tang - ngàn - hàng" cũng là âm tiết nửa khép.

Đi từ bằng cao xuống bằng thấp nên các từ này gợi nỗi trĩu nặng, giọng điệu trầm xuống cho sự xót xa, thương tiếc của "liễu".

"Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng."

Niềm vui mừng, phấn khởi của tác giả khi mùa thu đã "chạm ngõ". Điệp cấu trúc "mùa thu tới" càng nói lên sự hồ hởi, chào đón "nàng thu" của thi sĩ. Câu cuối chính với hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm sắc thu với "phông nền" là màu vàng. Cả hai câu thơ đều có cách ngắt nhịp 4/3 diễn tả được sự chuyển động của nàng thu, đồng thời thể hiện thái độ mong chờ thu tới của thi sĩ.

Nếu như ở khổ thơ đầu tiên tác giả đưa chúng ta đến với những cảm xúc thuần túy của mùa thu thì ở khổ tiếp theo Xuân Diệu lại đi vào chi tiết, khắc họa rõ nét hơn bức tranh thiên nhiên

"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh."

Thoạt đọc câu đầu khổ thơ hai, độc giả sẽ cảm thấy khá lạ tai với cụm từ "hơn một". "Hơn một" tức là số nhiều, có thể là hai, ba, bốn.... nhưng thi sĩ lại không dùng một số đếm cụ thể mà lại dùng "hơn một". Chính cụm từ này đã gây ra cho người đọc nhiều hứng thú. Chắc hẳn rằng không chỉ có một loài hoa "đã rụng cành" mà là rất nhiều loài hoa đã như thế. Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình khi ông liên tiếp đưa ra những từ ngữ đặc sắc và đầy chất gợi. Phải tinh tế lắm, nhạy cảm lắm thì ông mới chọn "rũa" để miêu tả cây trong vườn. Động từ này gây ra cho người đọc sự nhuốm màu, pha trộn giữa màu xanh và màu đỏ. "Sắc đỏ" đang dần xâm chiếm trên lá cây, như một tín hiệu cho mùa thu đã về. Câu thơ kế tiếp thi sĩ sử dụng liên tục hai từ láy "run rẩy", "rung rinh" như một sự lay động nhẹ của "nhánh khô gầy" khi có làn gió thoảng qua. Liên tiếp là bốn chữ "r" làm cho người đọc cảm nhận được cái lạnh, sự "run rẩy" cũng theo đó mà được cảm nhận rõ hơn.

Đến với khổ thơ thứ ba, người đọc bắt gặp hồn thơ vừa mang tính hiện thực lại có tính chất tượng trưng đầy sáng tạo. Ấn tượng ngay với độc giả là hình ảnh "nàng trăng". Cũng với ý nghĩa đó tác giả có thể diễn đạt theo cách khác như trăng non hoặc trăng đầu mùa. Nhưng không, thi nhân đã nhân hóa trăng thành hình ảnh một con gái với tuổi xuân xanh mơn mởn như chính cái sắc vàng của trăng non.

"Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ"

Với phép tu từ nhân hóa, nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa tính cách của trăng y hệt như một người con gái đang suy nghĩ điều gì để rồi tự "ngẩn ngơ". Cùng với hình ảnh trăng, tác giả còn khéo léo giới thiệu về núi non quê hương. Từ "xa" cho thấy điểm nhìn của tác giả đã mở rộng ra. Thoạt đầu là từ trên cao khi chiêm ngưỡng "nàng trăng", còn giờ đây là không gian có chiều dài với núi non được bảo vệ bởi một lớp sương "nhạt". Chính từ này làm cho núi non không hiện ra một cách rõ nét cũng không bị bao phủ quá dày mà nó vừa đủ để tạo ra hình ảnh vừa thực vừa ảo.

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò."

Cấu trúc song hành "Đã..." diễn tả một sự việc, hành động đã xảy ra. Thu về mang theo cái rét đặc trưng cùng "hội ngộ". Lúc này tác giả đã chuyển xúc giác sang thính giác để nghe "lời thu nói". Cái rét ở đây không phải là rét đậm cũng không là rét tê tái mà là "rét mướt". Động từ độc đáo "luồn" tạo cảm giác cái rét đang len lỏi vào từng cơn gió cùng về với mùa thu. Câu thơ cuối miêu tả hiện thực những chuyến đò giờ đã vắng người sang gợi cảm giác buồn, vắng vẻ.

Đến với khổ thơ cuối cùng:

"Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì."

Nếu như ở "Thu điếu" Nguyễn Khuyến đưa đến cho chúng ta một bầu trời nhẹ nhàng, trong xanh - "tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt" thì "Đây mùa thu tới" bầu trời của Xuân Diệu lại đượm buồn. Thi sĩ dùng những hình ảnh chuyển động để nói tới cái tĩnh lặng của con người. "Chim bay đi" trong sự chia ly của khí trời làm cho không gian như chia đôi, tạo cảm giác buồn đơn chiếc. Tác giả đã miêu tả từ cái xác định đến cái không xác định làm cho câu thơ có nét mới lạ. Hình ảnh "thiếu nữ buồn không nói" cùng với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa nỗi sầu thảm, lẻ loi, cô đơn của cô gái trước không gian mênh mông rộng lớn. "Nhìn xa", "nghĩ ngợi" càng làm rõ hơn sự suy tư, trầm ngâm của nhân vật trước cảnh sắc mùa thu hay chính xác là bước "chuyển mình" của "nàng thu". Mượn hình ảnh "thiếu nữ", tác giả đã nói lên suy nghĩ, tâm sự của mình về bức tranh thu. Đó chính là cảm xúc buồn, suy tư khi mùa thu dần "tàn".

Với "Đây mùa thu tới", nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô đơn.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 9

Xuân Diệu được xem là một trong những nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thơ ông luôn mang màu sắc khác biệt, với cách dùng từ ngữ độc đáo, sáng tạo và khác lạ khiến người đọc bị lôi cuốn và hấp dẫn. Những ai đã từng ngẫm qua thơ ông một lần ắt hẳn sẽ không bao giờ quên được niềm khao khát sống được hòa mình vào thiên nhiên của tác giả. Bài thơ Đây mùa thu tới được nhà thơ Xuân Diệu in trong tập Thơ thơ. Đây là một trong những bài ông viết trước Cách mạng nên vẫn còn mang tâm trạng buồn thương.

Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu của bài thơ là gì. Đó là nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối thu. Mà là đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu tới.  Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”.

Đập vào mắt nhà thơ đầu tiên khi mùa thu đến là hình ảnh rặng liễu rũ. Nếu người thường, thấy rặng liễu ấy sẽ mang dáng vẻ dịu dàng ê ấp, thế nhưng, ở đây nhà thơ lại thấy rặng liễu như mang tâm trạng buồn bã như đang chịu tang, như đang trong cảnh biệt li chết chóc. Từng cành lá buông xuống, được nhà thơ ví như những giọt lệ tuôn rơi. Thật là một cảnh sắc thật buồn thê lương. Dường như ẩn đàng sau hình bóng rặng liễu là hình ảnh một thiếu phụ đang khóc lóc trong cảnh đưa tang. Đọc câu thơ lên mà độc giả cảm thấy buồn đến nao lòng. Đến hai câu tiếp, nhà thơ thông báo “mùa thu tới mùa thu tới” với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, lại càng nhán mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh thu mới tới.

Ở khổ thơ này, nhà thơ đã dùng những từ ngữ nhân hóa, khiến cho mùa thu cũng mang dáng vẻ của con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đây, chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng sầu thảm trước cuộc sống của nhà thơ.

Đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế, mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.

“Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc và các nét chấm phá để khắc họa lên bức tranh thu đầy xơ xác và khô héo. Dường như nó ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán chường của tâm trạng con người. Con người trước Cách mạng tháng tám hay chính nhà thơ đang thấy mình thiếu sức sống, không biết bấu víu vào đâu và cảm thấy run rẩy trước dòng chảy của thời gian. Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới và cũng nhằm làm nổi bật nét thu đầy buồn thương.

Nếu như những câu thơ trên, nhà thơ mới phác họa bức tranh thu qua những đổi thay của thiên nhiên, thì tới khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã nói tới sự vần chuyển của cả vũ trụ lẫn con người. Ở đây, nhà thơ không gọi là bóng trăng, hay ánh trăng mà gọi là “nàng trăng”. Cụm từ ấy cho độc giả thấy nàng trăng như cô gái ngẩn ngơ tiếc nuối trước sự đổi thay của đất trời, của thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch như thường mà lại thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió…

Đã vắng người sang những chuyến đò…”

Không chỉ trăng ngẩn ngơ mà núi non cũng trở nên mờ nhạt. Dường như vạn vật đều trở nên hiu quạnh, mờ ảo khi bước chân mùa thu tới. Đã thế, đâu đó còn có những cơn gió lạnh đầu mùa, khiến cho cả đất trời lẫn con người bỗng trở nên buốt giá, là lạnh lẽo. Cũng chính vì thế mà những chuyến đò vốn tập nập hàng ngày giờ trở nên nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều đó chứng tỏ sức sống của con người cũng trở nên khô cằn, con người đều lui về ở ẩn. Điệp từ “đã” ở đây tác giả sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng mùa thu đã tới thực sự. Mùa thu không còn mới tới nữa mà đã bao trùm lên khắp không gian, cảnh vật và hồn người.

Qua quá trình phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu, chúng ta cảm nhận nét đẹp sầu bi của mùa thu. Thu chẳng còn vẻ đẹp lãng mạn mộng mơ mà chất chứa đầy nỗi buồn u uất. Đó cũng chính là tâm trạng của hầu hết các thi sĩ, nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 khi đất nước còn trong cảnh lầm than, khi mọi sự đang còn trong vòng luẩn quẩn và đời sống con người đang bị chà đạp bởi những thế lực tàn bạo nửa thực dân nửa phong kiến.

“Mây vẩn từng không, chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia ly.

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.

Chính bởi tâm trạng đang buồn rầu nên tác giả đã nhuốm màu buồn đó lên cảnh thu. Mặc dù có thể, mùa thu không đến nỗi sầu đau như thế. Nhưng vì quá uất hận, quá bi thương nên nhà thơ Xuân Diệu đã không thể giấu được lòng mình. Ông đã gửi gắm qua những câu thơ về mùa thu đầy xót xa. Đặc biệt ở khổ thơ cuối. Nhà thơ đã cho xuất hiện một loạt hình ảnh thể hiện sự chia ly, sự tử biệt. Rồi giữa khung cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi mông lung về điều gì mà không biết chính xác là điều gì. Dường như đó cũng chính là tâm tư của nhà thơ khi đang khao khát điều gì đó nhưng lại không thể biết chính xác là điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao mà bất an và nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó.

Toàn bộ bài thơ một là một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng những bút pháp nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng những từ láy gợi cảm giác như “run rẩy”, “ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Nhờ những từ đó là bức tranh thu trở nên sinh động hơn, có sức hút hơn với người đọc. Đặc biệt, những cách đảo ngữ thú vị càng giúp bài thơ bộc lộ rõ hơn sự biến chuyển của thời gian và tâm trạng não nề của tác giả. Với thể thơ tự do, nhà thơ cho thấy tâm hồn của mình thật phóng khoáng, không bị gò bó rào cản trong một khuôn mẫu nào cả. Nhờ thế mà bài thơ cũng dễ đi vào lòng người, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ cảm hơn.

Đã có rất nhiều nhà thơ lấy mùa thu làm chủ đề trong tác phẩm của mình. Nếu Nguyễn Khuyến là chùm thơ thu với nỗi buồn hoang vắng hiu quạnh thì ở đây, Xuân Diệu là nỗi buồn chia li đầy tang thương sầu muộn. Đó cũng chính là tâm trạng chung của hầu hết các thi sĩ, nhà văn của Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Nhưng thật may, sau Cách mạng, cái nhìn của họ đã trở nên tươi đẹp hơn và căng tràn sức sống hơn. Qua bài thơ Đây mùa thu tới, chúng ta thêm thấm thía hơn vẻ đẹp buồn mênh mang của một mùa trong bốn mùa thiên nhiên thú vị.

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới - Mẫu 10

Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân, làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm," tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, hòa mình vào không khí yên bình của thôn quê. Lưu Trọng Lư, qua "Tiếng thu," mang lại cảm nhận tinh tế về một trời thu sống động, đầy ắp âm thanh của mùa lá rụng. Còn Xuân Diệu, với "Đây mùa thu tới," đưa người đọc đến với một mùa thu mới bắt đầu, nét đẹp đặc sắc và diệu kỳ mà ông nhìn nhận. Ngay từ tiêu đề "Đây mùa thu tới," độc giả đã cảm nhận được sự chấp nhận của tác giả đối với bức tranh mùa thu mới bắt đầu. Xuân Diệu không tập trung vào giữa mùa hay cuối mùa thu, mà là khoảnh khắc đất trời vừa chia tay mùa hè và bắt đầu hòa mình trong mùa thu mới. Từ đó, ông khám phá ra những diễn biến độc đáo của thiên nhiên và đưa chúng vào tác phẩm của mình.

Điều đặc biệt là cách Xuân Diệu nắm bắt sự chuyển đổi của đất trời. Ông không chỉ đơn thuần mô tả mùa thu qua hình ảnh lá rụng, mà còn lồng ghép sự kỳ diệu và phức tạp của sự sống. Từ những thay đổi nhỏ nhưng đầy ý nghĩa này, tác giả làm cho mùa thu trở nên huyền bí và phong cách hơn, khơi gợi sự tò mò và sự ngạc nhiên của độc giả.

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Đây mùa thu tới - mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”.

Bài thơ của Xuân Diệu mở đầu bằng hình ảnh buồn bã của rặng liễu rũ. Thông qua từ ngữ tình cảm và tưởng tượng phong phú, nhà thơ tạo ra một bức tranh mùa thu đậm chất u sầu. Rặng liễu không còn hình ảnh êm đềm, mà thay vào đó, chúng được nhìn nhận như những giọt lệ buồn rơi xuống, tưởng chừng như đang kể lể về một cảm xúc bi thương, mất mát, hay một sự chia lìa đau đớn. Từ việc biểu hiện tâm trạng của rặng liễu, Xuân Diệu giữ nguyên tinh thần của mùa thu và chuyển đổi nó thành một thế giới của những cảm xúc đắng cay và uất ức. Ông làm cho mùa thu trở nên linh động, như một hình ảnh phản ánh của con người, với khả năng cảm nhận, buồn bã, và khóc lóc. Tiếp theo, nhà thơ thông báo sự đến của mùa thu một cách mờ nhạt, với lá vàng mờ nhạt và không khí chung quanh trở nên ảm đạm. Các từ ngữ và hình ảnh này không chỉ mô tả cảnh sắc mùa thu mà còn làm nổi bật tâm trạng bi lụy và đau buồn mà nhà thơ đang trải qua. Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng những từ ngữ nhân hóa để tạo hình mùa thu như một người có tâm trạng, có khả năng khóc, và có khả năng dệt lá. Điều này tạo nên một hiện thực khác biệt, khiến mùa thu không chỉ là một phần của tự nhiên mà còn là một người bạn, một người đồng cảm với những tâm trạng của con người.

“Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Khổ thơ mở đầu của tác phẩm đầy màu sắc và nét chấm phá, như là những nét vẽ tinh tế trên bức tranh thu, đậm chất biểu cảm về sự khô héo và u sầu. Tác giả sử dụng màu sắc để nền tảng cho tâm trạng thất vọng và chán chường của con người, đồng thời làm tôn lên vẻ buồn bã của mùa thu. Nét chấm phá, như những điểm xé bỏ trên bức tranh, thể hiện sự nát bại, xơ xác của mùa thu và tâm trạng u tối của nhân vật chính. Những dòng thơ dưới bàn tay tài năng của nhà thơ, tạo nên hình ảnh thu đầy buồn thương, với những đảo ngữ tinh tế, làm nổi bật sự biến đổi của mùa thu và tôn lên nét u ám, đau thương của tâm hồn con người.

Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả sử dụng hình ảnh "nàng trăng" để tạo ra một vẻ đẹp huyền bí và đồng thời thể hiện sự tiếc nuối, ngẩn ngơ trước sự thay đổi của thời gian và vũ trụ. Từ "nàng trăng" không chỉ là một biểu tượng của trăng mà còn là hình ảnh của một cô gái ngây thơ, mơ mộng, đứng đối diện với sự biến đổi đau thương của thế giới xung quanh. Như vậy, cả hai khổ thơ đã cùng nhau tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp mắt và đầy tư duy, nơi tâm trạng con người hòa mình vào sự biến đổi của thiên nhiên và vũ trụ, thể hiện sự nhạy bén và tài năng sáng tác của nhà thơ.

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió…

Đã vắng người sang những chuyến đò…”

Không chỉ trăng ngẩn ngơ, mà núi non cũng trở nên mờ nhạt, như một bức tranh mùa thu với sắc màu u tối và ảm đạm. Sự hiu quạnh, mờ ảo lan tỏa khắp vạn vật, tạo nên một không khí buồn bã và lạnh lẽo khi mùa thu bắt đầu. Cơn gió lạnh đầu mùa, gió thu, như những bàn tay lạnh giá, len lỏi vào từng khoảng trống của đất trời và tâm hồn con người, làm cho cảnh vật và tâm trạng trở nên buốt giá và cô đơn. Nhà thơ sử dụng từ ngữ sống động để miêu tả cảnh vật và tâm trạng trong mùa thu. Chuyến đò hàng ngày, một hình ảnh quen thuộc, giờ trở nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều này không chỉ là một hiện thực về cuộc sống hàng ngày mà còn là biểu tượng cho sự khô cằn và lạnh lẽo trong tâm hồn con người khi mùa thu đến. Từ "đã" như một phủ định, đánh dấu sự chắc chắn và thực tế của mùa thu, không còn là sự chờ đợi mà đã trở nên hiện hữu và đậm chất u uất. Tác giả thông qua bài thơ "Đây mùa thu tới" của mình đã tạo nên một bức tranh mùa thu đặc sắc, với một tâm trạng đầy nỗi buồn và đau khổ. Mùa thu không chỉ là thời điểm của sự khép kín và u ám mà còn là thời điểm của niềm đau và hoài niệm về những thời kỳ khó khăn trong lịch sử đất nước.

“Mây vẩn từng không, chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia ly.

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.

Nhà thơ Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới" đã thành công trong việc kết hợp tâm trạng cá nhân với hình ảnh của mùa thu, tạo nên một bức tranh cảm xúc độc đáo và sâu sắc. Dưới bàn tay tài năng của ông, mùa thu không chỉ là một khung cảnh tự nhiên mà còn là bản năng cảm xúc, tương tác với tâm hồn thi sĩ. Tâm trạng buồn rầu của tác giả được chuyển tải mạnh mẽ qua mô tả mùa thu. Những hình ảnh về rặng liễu rũ như giọt lệ, lá vàng mờ nhạt đều làm nổi bật sự u buồn, chất chứa nỗi đau lòng trong tâm trạng của nhà thơ. Sự nhạt nhòa và ảm đạm của mùa thu trở nên phản ánh cho tâm hồn uất hận và bi thương của người sáng tác.

Trong khổ thơ cuối, một loạt hình ảnh về sự chia lìa và tử biệt xuất hiện, nhấn mạnh sự đau thương và tuyệt vọng trong cuộc sống. Hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói, nhìn xa xăm tạo ra một không gian cảm xúc u tối, nơi nỗi đau vô hình trở nên rõ ràng. "Tự cửa" như một biểu tượng của sự mất mát và sự không biết bấu víu vào điều gì, đồng thời thể hiện tâm tư mơ hồ và mơ mộng của nhà thơ. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ phong phú, những từ ngữ nhân hóa, và cấu trúc câu thơ đặc sắc, tất cả kết hợp để tạo nên một bức tranh mùa thu không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn sâu sắc về tâm trạng và cảm xúc. Sự linh hoạt trong thể thơ tự do càng làm cho bức tranh thu trở nên tự nhiên và chân thực, chạm đến trái tim của người đọc.

Đánh giá

0

0 đánh giá