Văn bản Nữ phóng viên đầu tiên - Trần Nhật Vy - Nội dung, tác giả, tác phẩm

6.5 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nữ phóng viên đầu tiên lớp 11.

Tác giả tác phẩm: Nữ phóng viên đầu tiên - Ngữ văn 11

I. Tác giả Trần Nhật Vy

Nữ phóng viên đầu tiên - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

- Trần Nhật Vy tên thật Nguyễn Hữu Vang, sinh năm 1956 tại Đồng Tháp.

- Ông là nhà báo, tác giả của nhiều tác phẩm biên khảo về lịch sử báo chí và văn hóa Sài Gòn.

- Các tác phẩm chính: Báo quốc ngữ ở Sài Gòn cuối thế kỉ 19 – Lịch sử 150 năm báo chí quốc ngữ 1856 – 2015, Sài Gòn chốn chốn rong chơi, Văn chương Sài Gòn 1881 – 1924,…

II. Tìm hiểu tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên

1. Thể loại

Văn bản thuộc thể loại văn bản thông tin

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Nữ phóng viên đầu tiên - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

Tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên là một bài báo được viết dưới dạng ký sự. Tác phẩm được đăng tải trên Báo Tuổi Trẻ vào ngày 18/06/2015 bởi nhà báo Trần Nhật Vy.

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản có phương thức biểu đạt là thuyết minh

4. Tóm tắt

Tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên kể về một người phụ nữ mới, một người phụ nữ mở đầu cho phong trào nữ quyền. Bà chính là Manh Manh nữ sĩ, một nhà báo nữ chân chính và ủng hộ nữ quyền.

Trong hội Tao Đàn, bà là người mạnh mẽ ủng hộ cho nữ quyền và thơ mới, là người đại diện cho hết thảy những người phụ nữ trong xã hội mới. Những lời nói và ý kiến của bà được cả báo chí và người đọc đón nhận. Bà chính là người có đóng góp to lớn cho phong trào thơ mới.

5. Bố cục

- Đoạn 1: Từ đầu đến cổ vũ cho nữ quyền. Giới thiệu tiểu sử của Nữ phóng viên đầu tiên - Manh Manh nữ sĩ.

- Đoạn 2: Tiếp đến thúc đẩy các bà tham gia nhiều hoạt động xã hội ở Hà Nội, Sài Gòn. Những thành công và đóng góp của Manh Manh nữ sĩ cho nữ quyền và nền thơ mới tại Việt Nam lúc bấy giờ.

- Đoạn 3: Còn lại. Sự tiếc nuối của tác giả khi tên của bà hoàn toàn không được nhắc tới trong phong trào thơ mới 1930 - 1945 và bị lãng quên bởi lịch sử.

6. Giá trị nội dung

Tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên khắc họa chân dung người nữ phóng viên, một nhà báo tài giỏi và có tầm ảnh hưởng lớn lúc bấy giờ. Bà là người mở đường cho nữ quyền và thơ mới, có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam.

7. Giá trị nghệ thuật

- Các phương tiện phi ngôn ngữ: hình ảnh, số liệu, mốc thời gian...được dử dụng hiệu quả giúp cho thông tin được trình bày một cách sinh động, hấp dẫn, chân thực.

- Yếu tố miêu tả, tự sự được vận dụng khéo léo tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn tự nhiên

- Các câu hỏi, câu in đậm gây ấn tượng và tạo hứng thú với người đọc.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên

1. Những thông tin cơ bản của văn bản

a. Phong trào xã hội được nhắc tới trong văn bản

- Phong trào xã hội: phong trào nữ quyền.

- Cách tác giả viết về phong trào ấy: Những bài viết về phong trào xã hội thường ghi chép các mốc thời gian, tường thuật các sự kiện chính, mô tả bối cảnh ra đời, quá trình phát triển, kết quả và ý nghĩa của phong trào… Trong bài viết, tác giả viết về phong trào nữ quyền qua chân dung của một cá nhân, cụ thể là chân dung một người phụ nữ. Bởi vậy, lịch sử thời hiện đại hiện lên một cách rất sống động, giàu cảm xúc. Qua cách tiếp cận đó, tác giả cho thấy sự gắn bó mật thiết giữa cá nhân và lịch sử. Cá nhân làm nên lịch sử, mặt khác, chân dung và số phận của mỗi cá nhân lại cho thấy hơi thở, bầu không khí của thời đại.

b. Chân dung nhân vật trong văn bản

- Nhân vật được tái hiện trên nhiều bình diện ( tiểu sử, dung mạo, các hoạt động xã hội, đời sống cá nhân), với các tư cách khác nhau: một người phụ nữ, một thi sĩ, một nhà báo, một nhà hoạt động xã hội.

- Thông qua những chi tiết được cung cấp trong văn bản, tác giả tái hiện sống động chân dung của nữ sĩ đi ngược lại tất cả những chuẩn mực và định kiến của xã hội: người phụ nữ có ngoại hình nam tính, trời bắt xấu, dám bước ra khỏi chốn phòng the, diễn thuyết ở khắp mọi miền đất nước, dám lên tiếng ủng hộ cái mới, dám khẳng định cá tính và quan điểm riêng, dám làm một công việc thời bấy giờ được coi là công việc của đàn ông và có một đời sống riêng tư khác thường.

→ Tác giả không chỉ trần thuật lại những sự kiện và hoạt động của nhân vật, mà còn trích dẫn trực tiếp lời nói của bà, lời nhận xét, đánh giá của người đương thời về nhân vật. Việc trích dẫn trực tiếp giúp làm nổi bật quan điểm và đặc biệt là cá tính của nhân vật, đồng thời giúp tái hiện lời ăn tiếng nói cũng như không khí tranh luận, đối thoại rất sôi nổi của đời sống xã hội Việt Nam thời kì này.

- Chân dung nhân vật đã được tái hiện một cách khách quan với những thông tin cụ thể, rõ ràng và kèm theo lời nhận xét đánh giá của người đương thời, gần như không đan xen nhận xét, đánh giá chủ quan quá nhiều của người viết.

2. Không khí thời đại được tái hiện trong văn bản

a. Một số chi tiết miêu tả bối cảnh thời đại

- Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông đảo người nghe như thế.

- … cuộc tranh luận dài trên báo chí cả trong Nam lẫn ngoài Bắc.

- … khi ấy vẫn còn quan niệm:… đến chỗ đông mà tranh cãi.

- … công chúng đã ồ ạt kéo đến hội quán phố Hàng Trống như nước chảy, lũ lượt bọn năm bọn ba.

- Trên gác, dưới nhà không một chỗ hở.

b. Hình dung về không khí thời đại trong văn bản

- Văn bản tái hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam buổi giao thời, trong đó có sự xung đột và giao tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa những định kiến về người phụ nữ và những nỗ lực của cá nhân và tổ chức để đấu tranh khẳng định sự tự do, bình đẳng của người phụ nữ. Văn bản cũng mô tả cục diện trăm hoa đua nở của báo chí thời kì đầu, không khí đối thoại, tranh luận, diễn thuyết rất sôi nổi trong lĩnh vực báo chí, ở các không gian công cộng và những thay đổi mạnh mẽ trong ý thức hệ của công chúng.

IV. Đọc tác phẩm Nữ phóng viên đầu tiên

Nói “nữ phóng viên chính hiệu” là bởi “trước đó ở Hà Nội cũng như Sài Gòn người giữ mục phụ nữ hay viết bài về phụ nữ, mặc dù ký tên là “Thị nọ Thị kia” nhưng đều là ký giả có râu” (Ngọa Long - 10 năm làng báo Sài Gòn, Đuốc Nhà Nam số ra ngày 17-10-1969).

Đó là Manh Manh nữ sĩ

Manh Manh nữ sĩ tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (1914 - 2005), con ông huyện Nguyễn Đình Trị quê quán ở Gò Công. Ông Trị từng là chủ huyện Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, nghị viên hội đồng thành phố chung “sổ” (liên danh tranh cử) với giáo sư Nguyễn Văn Bá, chủ bút báo Công Luận thời Diệp Văn Kỳ, Thần Chung. Ông Trị cũng là “bầu” của đội bóng đá Ngôi Sao Xanh và sau đó đội Ngôi Sao Gia Định lừng lẫy một thời.

Bà học Trường Nữ trung học bản xứ (Collège des Jeune Filles Annamites de Saigon, trường áo tím, Gia Long, nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đến tú tài rồi bước vào nghề báo. Ban đầu bà chỉ là phóng viên thường, viết các mục nhỏ với bút hiệu YM, Nguyễn Văn MYM. Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932) thì tên tuổi bà sáng lên qua bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và cổ vũ cho nữ quyền.

Giữa năm 1931, sau sáu tháng bị đình bản, có lẽ vì loạt bài viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và bài tố cáo ông phủ Lâm Thao Đỗ Kim Ngọc ăn hối lộ, Phụ Nữ Tân Văn tái bản và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh cho nữ quyền, cổ vũ lớp trẻ rèn luyện chữ quốc ngữ.

Bà Kiêm xuất hiện trong thời kỳ này khi mới 17 tuổi. Có lẽ vì còn quá trẻ nên bà chỉ làm phóng viên bình thường, thỉnh thoảng viết một bài về nữ quyền. Sau đó, khi mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới bà bắt đầu nổi tiếng với những cuộc diễn thuyết, những bài viết về bình đẳng giới và thơ mới. Không chỉ ở Sài Gòn, bà còn đi diễn thuyết ở Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... Thậm chí báo Phụ Nữ Tân Văn còn mở hẳn mục Thơ mới bên cạnh mục Văn uyển đăng các loại thơ cũ.

Trong số báo 228 ra ngày 14-12-1933, bà viết bài trả lời ông Hoàng Tâm báo Đuốc Nhà Nam: “Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại việc đăng lên báo. Nay ông có nhắc đến sửa soạn ăn mừng thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ mới của tôi viết cách nay hai tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thời giờ và báo Đuốc Nhà Nam có thiếu bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài Thơ mới cho ông đăng lên báo Đuốc Nhà Nam và phê bình luôn thể”.

Diễn thuyết vì nữ quyền

Còn cuộc diễn thuyết của bà ở Hội Khuyến học Sài Gòn (SAMIPIC, tức Hội Nam kỳ trí đức thể dục, nay là số 606 Trần Hưng Đạo, quận 5), Hoài Thanh - Hoài Chân ghi nhận trong Thi nhân Việt Nam: “Từ hai tháng trước, hôm 26-7-1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bây giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết có đông người nghe như thế” (Hoài Thanh - Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn Học, Hà Nội 1988, trang 25).

Trong buổi diễn thuyết ấy, bà nói: “Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị đẹt mất (không lớn lên nổi) thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối thơ xưa nên gọi là Thơ mới”. Và “chỉ mong lối Thơ mới được nhiều người để ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực, rõ ràng những thi cảm của các nhà thi sĩ”. Thơ mới với sự cổ vũ của Nguyễn Thị Kiêm đã tạo ra một cuộc tranh luận dài trên báo chí cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Không chỉ nói, bà còn sáng tác Thơ mới, những bài Hai cô thiếu nữ, Viếng phòng vắng... để lại ấn tượng mạnh mãi về sau.

Bố cục Nữ phóng viên đầu tiên (Kết nối tri thức) chính xác nhất (ảnh 1)

Về nữ quyền, trong buổi nói chuyện ở Hội chợ phụ nữ ngày 26-5-1932 tổ chức tại vườn Tao Đàn, bà nói: “Đối với những người như chúng tôi đây, ngu mà muốn học cho khôn, dốt mà muốn học cho giỏi, không biết mỹ thuật mà biết yêu mến mỹ thuật, không biết văn chương mà muốn cảm mến văn chương thì Nữ lưu học hội thiệt là cần ích cho chúng tôi lắm”.

Tại Huế, đêm 3-5-1934, trong bài nói chuyện “Dư luận nam giới với phụ nữ tân tiến”, bà nói: “Chủ nghĩa phụ nữ là làm thế nào để giải phóng phụ nữ khỏi những lễ giáo hủ bại, binh vực quyền lợi cho phụ nữ, kiếm những cách sinh hoạt cho chị em để sự sống của mình được hoàn toàn hơn, và nâng cao trình độ trí thức của mình”.

Làm vậy là bởi khi ấy vẫn còn quan niệm: “Đến thế kỷ thứ 20 đàn bà An Nam lại có nảy sanh một số người quái gở! Họ vượt ra khỏi buồng the, chẳng theo lễ giáo cũ: họ cũng đi học đi làm như đàn ông. Họ tự do đi, đứng, nói cười, ra giữa công chúng vợt banh, đá cầu, lập hội hè, đến chỗ đông mà tranh cãi”. Tại hội quán Khai Trí Tiến Đức Hà Nội tối 8-9-1934 bà nói: “Đàn bà tân tiến là đàn bà mới, biết đi theo trào lưu xã hội, theo thời đại văn minh hiện chừ” và người đàn bà ấy chỉ “xin ngang hàng với đàn ông, xin được đồng một phẩm giá làm người trong xã hội”.

Buổi nói chuyện tại Hà Nội của bà được báo chí Hà Nội ghi nhận: “Tối hôm thứ bảy vừa rồi, cái lối cô Kiêm lên diễn đàn, công chúng đã ồ ạt kéo đến hội quán phố Hàng Trống như nước chảy, lũ lượt bọn năm bọn ba, ông có, bà có, trai có, gái có, đến nỗi mấy bác nhà quê đi đường ngơ ngác hỏi nhau: họ đi xem hội gì đông thế?” (báo Đông Pháp). Tờ Ngọ Báo viết: “Trong nơi diễn đàn, ngày thường lỏng chỏng mấy bàn tổ tôm điếm, coi rộng thênh thang, hôm nay đà gấp đôi thế cũng chẳng đủ chỗ cho công chúng đứng, ngồi. Trên gác, dưới nhà, không một chỗ hở...”(Phụ Nữ Tân Văn số 259 ngày 20-9-1934).

Sự thành công của bà Nguyễn Thị Kiêm đã tạo ra một phong trào phụ nữ mới hết sức sôi nổi, thúc đẩy các bà tham gia nhiều hoạt động xã hội ở Sài Gòn, Hà Nội.

Đáng tiếc, cuối năm 1934, tờ Phụ Nữ Tân Văn đình bản, bà Kiêm mất chỗ dựa, phong trào cổ vũ Thơ mới và đấu tranh cho nữ quyền của bà bị xẹp xuống. Và bà trở thành một nhà báo bình thường cộng tác với một số báo đương thời. Sở trường của bà là phỏng vấn. Tuy vậy, bà cũng viết nhiều bài phê bình, ghi chép...

Người thấp lùn, bộ tướng núc ních, mặt má miếng bầu, môi nhọn như mỏ chim... đôi mắt sáng ngời, thông minh, ăn nói mau lẹ, gọn gàng, duyên dáng. Đó là nhận xét của nhà báo Ngọa Long. Với bộ tướng ấy, có thể nói bà Kiêm là “phụ nữ trời bắt xấu”. Tại buổi nói chuyện ở Hội Khuyến học Sài Gòn, để cử tọa trong phòng nhìn thấy diễn giả, bà phải... đứng trên bàn để nói! Vì vậy, trong làng báo Sài Gòn thập niên 1930, ai cũng coi bà như một đồng nghiệp nam.

Chỉ có một người nhìn bà là “phụ nữ” đó là nhà báo Lư Khê Trương Văn Em, người sau này gá nghĩa với bà năm 1937. Nhưng họ sống với nhau không lâu. Sau khi đứa con đầu lòng mất và bà không thể có con được nữa, hai người thỏa thuận chia tay. Năm 1950, bà lấy chồng người Pháp và qua Pháp ở cho đến ngày mất.

Đối với văn học Việt Nam bà cũng có những đóng góp đáng kể, ít ra trong thể Thơ mới ở thập niên 1930. Thế nhưng hầu hết những ghi nhận về văn thơ 1930 - 1945 đều lãng quên bà!

Đánh giá

0

0 đánh giá