Văn bản Cà Mau quê xứ - Trần Tuấn - Nội dung, tác giả, tác phẩm

14.5 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Cà Mau quê xứ Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Cà Mau quê xứ lớp 11.

Tác giả tác phẩm: Cà Mau quê xứ - Ngữ văn 11

I. Tác giả Trần Tuấn

Cà Mau quê xứ - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

- Trần Tuấn sinh năm 1967 tên khai sinh là Trần Ngọc Tuấn, quê ở Hà Nội.

- Trong làng báo cũng như kho tàng văn học Việt Nam, anh là một giọng bút ký có dấu ấn riêng sâu sắc và đầy ý nghĩa, với cách viết nhấn nhá, nhiều liên tưởng.

II. Tìm hiểu tác phẩm Cà Mau quê xứ

1. Thể loại

Văn bản thuộc thể loại tản văn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Tác phẩm Cà Mau quê xứ được trích trong tập Uống cà phê trên đường của Vũ. Đó là những trải nghiệm gần gũi và đáng nhớ của ông khi đến mảnh đất Cà Mau.

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản có phương thức biểu đạt là tự sự

4. Tóm tắt

Cà Mau- mảnh đất được nhà văn Trần Tuấn lựa chọn là mảnh đất sẽ đến thăm quan và khám phá, tất cả như ngoài sức tưởng tượng của ông một khung cảnh tuyệt đẹp và hài hòa giữa thiên nhiên và con người, để rồi sau chuyến đi đó, tác giả đã viết nên tác phẩm Cà Mau quê xứ. Đối với tác giả, đây là vùng đất luôn nằm trong trí tưởng tượng từ lâu của mình, tác giả đã ấp ủ nó chỉ chờ ngày được xách ba lô lên và đi. Để rồi khi thực sự được đến Cà Mau, tác giả yêu và đắm chìm trong cái khung cảnh và con người nơi đây.

5. Bố cục

Phần 1: Từ đầu đến thơ thần với Cà Mau: Lúc tác giả đặt chân đến vùng đất Cà Mau

Phần 2: Tiếp đến những thân ổ mới: Mô tả về khung cảnh và cuộc sống của những con người Cà Mau

Phần 3: Còn lại: Tình cảm của tác giả

6. Giá trị nội dung

Tác phẩm Cà Mau quê xứ được khắc họa chân thực về mảnh đất Cà Mau, phía cuối của hình chữ S Việt Nam, ông chủ yếu kẻ về chuyến đi trải nghiệm thực tế của mình, kể về khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và con người hiền lành nơi đây. Tác giả đã bộc lộ những cảm xúc, niềm mến thương nơi này qua từng nét viết. Khung cảnh ở Cà Mau được tác giả gợi ra qua những trang ký của Nguyễn Tuân, Anh Đức và Xuân Diệu.

7. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ tự do giúp tác giả thể hiện được hết tâm tư vào tác phẩm

- Ngôn ngữ thơ hay và giản dị nhưng ấn tượng

- Khắc họa hiện thực chân thật và mang ý nghĩa to lớn

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Cà Mau quê xứ

1. Vẻ dẹp của đất Mũi Cà Mau

Cà Mau quê xứ - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

a. Tính chất tươi mới, sống động của thực tế đời sống con người vùng Đất Mũi.

- Anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ xúc động của các vị khách khi đến đây “Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây được, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để … khóc vì sướng!”

+ Cảnh mấy anh em nhà báo cởi trần ngôi lai rai tại ngôi nhà số 1 của xã Đất Mũi, qua câu chuyện về những con người cụ thể, thêm thấu hiểu cung cách làm ăn và sinh sống của cư dân nơi đây.

+ Cảnh những người phụ nữ ngồi lột thịt ghẹ tại một cơ sở gia công thực phẩm của vợ chồng nhà anh Phúc, chị Tuyết – một bức tranh sinh động về lao động sản xuất của con người Đất Mũi.

+ Câu chuyện gay cấn một thời về sự lựa chọn giữa con tôm và cây lược, liên quan đến sinh mệnh chính trị của bao nhiêu người, được kể lại trong ngôi nhà của Phó Chủ tịch xã Đất Mũi Lê Hoàng Liêm.

→ Ở thời điểm bài tản văn ra đời, những khung cảnh nhật vật đó chính là câu chuyện của hiện tại, có tình thời sự nóng hổi, mang hơi thở của cuộc sống bề bộn đang chuyển mình, vận động. Quan sát dòng chảy của cuộc sống để ghi lại một cách chân thực, đó là thế mạnh vốn có của thể loại kí.

b. Đến với Mũi Cà Mau, tác giả liên tưởng đến những nhà thơ, nhà văn sau

- Trước Cách mạng có Nguyễn Bính – nhà thơ lãng mạn từng đặt chân đến Mũi Cà Mau trong những chuyến giang hồ như nhà thơ tự nhận; trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ có Nguyễn Tuân với bài kí Khi nào Bắc Nam đã được thồng nhất, anh sẽ vô thăm đầu trước hết?, Anh Đức có tập bút kí Bức thư Cà Mau; Xuân Diệu có bài thơ Mũi Cà Mau. Nhắc đến vùng đất này không thể không nhắc đến nhà văn Sơn Nam – một pho từ điển sống về Nam Bộ; Nguyễn Ngọc Tư – một nhà vă sống và viết ở Cà Mau.

→ Những liên tưởng đó cho thấy, Mũi Cà Mau là miền đất khơi gợi nhiều cảm hứng sáng tạo cho các nhà văn, nhà thơ. Đến với Mũi Cà Mau cũng là đến với một vùng văn chương, vì thế, cầm bút viết về vùng đất này, tác giả không khỏi cảm thấy có những thách thức.

2. Tâm thế của tác giả và nghệ thuật viết tản văn

a. Tâm thế của tác giả khi đến với mũi Cà Mau

- Tác giả đến với Mũi Cà Mau với tâm thế rất nhẹ nhàng: đi chơi. Nhưng ở đây, đi chơi cũng có nghĩa là đến với miền đất lạ, đi tìm niềm hứng khởi mới, để được trải nghiệm bằng tất cả các giác quan và cảm xúc.

- Với tác giả - người viết tản văn – những trải nghiệm thực tế như vậy vô cùng quan trọng. Nó đánh thức khả năng khám phá về vùng đất và con người nơi đây. Nó gợi lên trong lòng người viết những cảm xúc mới mẻ, những quan sát và suy ngẫm có chiều sâu. Bằng liên tưởng bất chợt, nó kết nối hiện tại với quá khứ, chuyện đời và trang văn, hiện thực và ước vọng… Đây là những điều kiện cần thiết cho sự sáng tạo trong tản văn.

b. Chất trữ tình trong bài tản văn

- Chất trữ tình trong bài tản văn được bộc lộ qua cảm xúc của người viết, cùng với cách thể hiện vừa đa dạng, vừa có nhiều nét độc đáo. Chẳng hạn:

+ Người viết đến với Mũi Cà Mau với tâm thế nhẹ nhõm, nhưng kì thực để “thỏa nỗi khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới”. Những rung động mới mẻ, tức thì của tâm hồn khi tiếp xúc với con người và cảnh vật đang thay thế cho sự hiểu biết về một vùng đất qua trang văn của những người đi trước.

+ Mượn lời văn trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư nói hộ nỗi niềm “Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?”.

+ Thấy được sự bồi hồi rất lạ của lòng mình đối với những kiểu bày tỏ niềm xúc động của bao nhiêu người từ mọi miền về đây.

+ Nhìn cảnh quan, sản vật, con người lắng nghe lời ăn tiếng nói của quê xứ Cà Mau với niềm yêu mến, gần gũi, thân tình.

+ Đồng cảm với mọi lo toan, bề bộn trong cuộc mưu sinh của những con người gắn bó với quê hương mũi Cà Mau.

+ Không giấu được niềm xúc động kín đái khi rời Mũi Cà Mau “Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bên hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhòe”.

→ Như vậy, chất trữ tình của bài tản văn khi được thể hiện trực tiếp (người viết tự bộc lộ cảm xúc), khi được thể hiện gián tiếp (những hình ảnh khách quan của cuộc sống có sức lay động tình cảm người đọc nhờ cách tái hiện của tác giả). Chất trữ tình hầu như có mặt từ đầu đến cuối văn bản, trở thành yếu tố nổi trội đúng với đặc trưng của tản văn.

c. Cách sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp tu từ trong tác phẩm

- Là một thể loại văn học có sự phối hợp giữa yêu cầu về tính xác thực, khách quan của sự việc được tái hiện và tính biểu cảm gắn với cảm xúc chủ quan của người viết, kí mở ra một khoảng không gian rộng rãi cho sự sáng tạo về ngôn ngữ. Trong Cà Mau quê xứ, sự sáng tạo về ngôn ngữ và các biện pháp tu từ được thể hiện như sau:

- Sử dụng những từ ngữ mang màu sắc hiện đại “Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lửa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giời, đánh lửa bộ xi đi võng mạc”….

- Dùng từ láy hình tượng giàu sức gợi: chon von, cheo leo, lắt lẻo,…

- Dùng từ ngữ địa phương Nam Bộ hù hợp với cách ăn nói của con người nơi đây.

- Cách kết hợp từ độc đáo: Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đợt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận…

- Dùng phép chuyển nghĩa gợi liên tưởng bất ngờ: Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi…

- Sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để thổi hồn vào đối tượng miêu tả: những hạt phù sa sinh nở khơi từ hai chữ “quê nhà” ấy của thi sĩ đất Bắc…

IV. Đọc tác phẩm: Cà mau quê xứ

Cà Mau quê xứ

(trích Uống cà phê trên đường của Vũ)

Trần Tuấn

Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi “Đi làm gì?”. Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu “Đi chơi.”.

Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói “Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nợ”. Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm  đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.

Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hoà bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chống loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than được đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: “Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng Cá thòi lòi dạn di theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?”. Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ “Đạo phát cỏ” dóc tô đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...

Mà cũng thiệt lại Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bùng muốn khổ quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông chúng tôi hì hục lỗi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... dốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây được, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà.

Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đợt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận 2.

Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hoá Mũi Cà Mau bật cười

“Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!”. Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.

– Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! “Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay”.

- Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày - chàng thi sĩ thầm thì – “Giang hồ như... người giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà. Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!

Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ “quê nhà” ấy của thi sĩ đất Bắc Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là “quê xứ. Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang Cần Thơ, Hậu Giang xuống Sóc Trăng Bạc Liêu,.. rồi xuống miệt biển Kiên Giang ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh.., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lỗi tới thổ một một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: “Xứ”? “Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng xứ ấy qua đây mất gần một buổi đờ” – cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai dứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. “Tui từ xứ Bạc Liêu qua” – ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.

“Em đi lấy chồng về nơi xứ xa” – lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. “Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu”. Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long - tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?

…Giờ thì mấy anh ern tới ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng 2 lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây được. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rổn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng loại nhì 23.000 đồng loại vật chỉ 6 000 đồng Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoản thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đồng rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Carn-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn…

- Ngưng tay làm với anh em một li, anh Bal - Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.

Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xể lại “xây chừng” một li rồi đứng dậy:

– Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.

[..] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy.

Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tưng tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nổi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!

Bên cạnh tôi, những cây được đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà “Phó Mũi” Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây được. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn “ôm gốc được”, cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông

tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người.[..] “Phó Mũi”Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: “Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn được thì còn gì nữa đâu”.

Tôi ngồi đó, chợt hình dung về những trái được bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái được đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân được mới.

Về Sài Gòn, tôi lẫn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kỉ Vẫn cái tiếng dội Cà Mau ấy, trong đó vi đất Mũi này như “ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm”. Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: “Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng”. Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khi khà rật chất Cánh đồng hoang: “Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó”.

Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại(4)? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời.

Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ. Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than được của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.

Đất Mũi, tháng 5/2006

(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn – Cộng ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017,tr. 162 – 169)

V. Văn mẫu

Đề bài: Từ ý của câu "Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhòe", hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) nói về cảm xúc đối với Mũi Cà Mau.

Dòng văn cuối của văn bản “Cà Mau quê xứ” đã tổng kết lại những nỗi niềm lưu luyến, những cảm xúc tiếc nuối của tác giả khi phải rời xa Đất Mũi Cà Mau. Đó là nơi ông gắn bó trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng để lại thật nhiều điều mong nhớ. Ở nơi cuối cùng của Tổ quốc với đầy nắng gió và cát biển, nhà văn đã được sống một cuộc đời rất khác, an yên và thú vị. Để khi rời đi, tạm biệt ông là những “cái nhìn lánh đen như than đước” của những người dân hồn hậu, của món quà chân phương và chan chứa tình cảm - than hầm. Lời chia tay có thể thật đẹp với những nụ cười tươi, cái bắt tay ấm nóng và lời hứa hẹn một ngày mai sẽ quay trở lại. Nhưng bước chân lên tàu rời Đất Mũi, nỗi nhung nhớ cùng tiếc nuối mới dâng trào nghẹn ngào. Tình cảm là một điều đặc biệt, lí trí muốn giấu kín thật sâu nhưng cơ thể vốn dĩ chẳng thể nói dối. Hình ảnh “mắt tôi chợt cay nhòe” đó là phản ứng cơ thể tự nhiên của tác giả khi biết mình phải rời xa mảnh đất thân thuộc này. Chẳng phải vậy mà Chế Lan Viên đã từng viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”

Đánh giá

0

0 đánh giá