Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích Ngữ văn 11 Cánh Diều gồm 9 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích
Đề bài: Hãy giới thiệu (khoảng 12 – 15 dòng) về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn / đồ uống mà em yêu thích, trong đó có trích dẫn các tài liệu mà em tham khảo được.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 1
Bánh mì không chỉ là một loại thực phẩm phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phương Tây mà nó còn rất nổi tiếng ở Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết về lịch sử của món ăn này. Bánh mì được cho là bắt nguồn từ miền Nam Á vào khoảng 15.000 năm trước. Tuy nhiên, bánh mì hiện đại mà chúng ta biết ngày nay bắt đầu xuất hiện ở Pháp vào thế kỷ 18. Bánh mì ở Pháp được làm từ bột mỳ mịn, có vỏ giòn và phần ruột mềm. Từ đó, bánh mì đã được đưa vào các nước khác trên thế giới, và ngày nay đã trở thành một phần không thể thiếu trong ẩm thực của nhiều quốc gia. Bánh mì Việt Nam được cho là không có nguồn gốc từ Pháp bởi sự tranh cãi của nhiều người, tuy nhiên thực tế là bánh mì đã bắt đầu được du nhập vào Việt Nam, đặc biệt là Sài Gòn, từ năm 1859 khi thực dân Pháp chiếm đóng thành Gia Định. Ban đầu, loại thực phẩm này được xem là món ăn vặt, không được xem là món ăn chính. Bánh mì chỉ được sử dụng để no bụng, không đầy đủ như cơm. Tuy nhiên, với thời gian, bánh mì đã trở thành một trong những đặc sản ẩm thực của Việt Nam.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 2
Bánh mì là một món ăn quen thuộc và phổ biến ở Việt Nam. Bánh mì được du nhập vào Việt Nam từ thời Pháp thuộc, nhưng đã được biến tấu để phù hợp với khẩu vị của người Việt. Bánh mì Việt Nam có vỏ giòn, ruột mềm, thường được ăn kèm với pate, thịt nguội, rau, dưa chuột, ớt,... Bánh mì được cho là du nhập vào Việt Nam vào thế kỷ 19, do người Pháp mang đến. Ban đầu, bánh mì chỉ là món ăn dành cho người Pháp và tầng lớp thượng lưu Việt Nam. Tuy nhiên, dần dần, bánh mì trở nên phổ biến với mọi tầng lớp. Bánh mì Việt Nam có nhiều loại, như bánh mì thịt nướng, bánh mì pate, bánh mì chảo,... Mỗi loại bánh mì đều có hương vị và cách chế biến riêng. Bánh mì Việt Nam thường được ăn vào buổi sáng, buổi trưa hoặc buổi tối. Bánh mì là một món ăn ngon, bổ dưỡng và tiện lợi. Bánh mì cung cấp cho cơ thể nhiều năng lượng và vitamin. Bánh mì cũng là một món ăn mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 3
Bánh chưng là những món ăn truyền thống mang đậm nét văn hoá của người Việt. Giải thích về sự ra đời của bánh chưng, chúng ta có truyền thuyết bánh chưng, bánh dày: "Truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày” xuất hiện từ đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua nhất sẽ được nhà vua nhường ngôi. Các vị quan Lang lên rừng, xuống biển tìm châu ngọc và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua. Riêng Lang Liêu là người con nghèo khó nhất trong số các vị quan Lang, chàng không tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha, mà đã dùng ngay những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh tượng trưng cho trời tròn và đất vuông (còn được gọi là bánh chưng và bánh dày) để làm lễ vật dâng vua cha. Lễ vật của Lang Liêu hợp với ý vua Hùng nhất và nhà vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu… Từ đó bánh Chưng, bánh dày đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với tiên tổ, cha, ông." (Nguyễn Quyên (2021), Phong tục gói bánh chưng ngày Tết, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam).Truyền thuyết trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống hiếu kính; lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của bánh chưng, bánh dày là nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 4
Khi nhắc đến ẩm thực Việt Nam, cái tên được nhắc đến nhiều nhất có lẽ là phở. Phở được coi là một trong những món ăn truyền thống của Việt Nam, được cho là đã xuất hiện và phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20 tại Hà Nội và Nam Định. Tại Nam Định, phở được gắn liền với làng Vân Cù, nơi mà dòng họ Cồ đã truyền lại công thức nấu phở gia truyền cho nhiều người, khiến món ăn này lan rộng khắp đất nước. Tại Hà Nội, phở đã trở thành món ăn nổi tiếng từ những năm đầu thế kỷ 20. Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng được nấu từ xương bò hoặc xương lợn, kèm theo thịt bò hoặc gà cắt lát mỏng. Gia vị như tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt cũng được sử dụng để tạo hương vị đậm đà cho món ăn này. Phở thường được ăn vào buổi sáng hoặc là món ăn lót dạ vào buổi tối. Tại các tỉnh phía Nam, rau thơm như hành, giá và những loại lá rau mùi được bày kèm với phở, trong khi tại Hà Nội, phở thông thường không đi kèm với rau sống này mà thường ăn kèm với nộm đu đủ hay quẩy. Ngoài ra, còn có nhiều biến thể khác của phở như phở sốt vang, phở khô, phở xào, phở chua, phở vịt ở Cao Bằng và phở thịt quay ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Không chỉ có các món phở truyền thống, ngày nay còn có nhiều loại phở khác như phở cuốn, phở áp chảo, phở bò viên sa tế và các loại phở trong công nghiệp như phở ăn liền, phở chay và phở công nghiệp.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 5
Văn hóa ẩm thực của Việt Nam luôn là niềm tự hào của nhân dân ta với vô vàn các món ăn ngon, tạo nên sự độc đáo riêng biệt thu hút sự quan tâm của du khác quốc tế, đặc biệt là Phở. Được xem như món ăn quốc hồn quốc túy của Việt Nam nhưng nguồn gốc chính xác của phở lại không rõ ràng và vẫn còn đang gây tranh cãi lớn. Các học giả, các đầu bếp, các chuyên gia ẩm thực cho đến những người sành phở đều nhất trí phở có xuất xứ ở miền Bắc vào những năm đầu của thế kỷ 20. Một số giả thuyết cho rằng phở xuất hiện đầu tiên ở tỉnh Nam Định (nằm ở Tây Nam thủ đô Hà Nội). Do có nhiều người Pháp cư ngụ trong vùng vào thời điểm đó nên người dân địa phương đã chế biến món ăn này để làm thỏa mãn nhu cầu của cả hai. Nguyên liệu địa phương vẫn được dùng chủ yếu, kết hợp thêm một ít thịt bò để tạo nên một món súp mang bản sắc của địa phương nhưng có thêm hương vị nước ngoài. Theo một giả thuyết khác, bát phở đầu tiên có nguồn gốc ở Vân Cừ - một ngôi làng nghèo thuộc tỉnh Nam Định. Sau đó, người dân ở ngôi làng này đã gánh phở bán rong đến tận thủ đô Hà Nội để mưu sinh. Tuy không có cở sở để khẳng định tính xác thực của những phỏng đoán này nhưng có một điều chắc chắn là những người bán hàng rong ở Hà Nội đều đến từ làng Vân Cừ. Nhìn chung, phở phản chiếu rõ nét đời sống của người dân Việt cùng với những di sản phong phú, đặc sắc. Thông qua đó chúng ta thấy được một trong những truyền thống về ẩm thực đặc sắc gắn liền với lịch sử dân tộc của Việt Nam trong suốt thế kỷ qua.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 6
Một trong những món ăn nổi tiếng tại Việt Nam, đặc biệt là những ngày lễ tết không thể không nhắc đến là chả giò hay còn được gọi là nem rán ở miền Bắc và ram ở miền Trung, và chả ở Thanh Hóa. Theo nhiều tài liệu thì chả giò là món ăn ra đời trước tiên ở miền Nam. Cũng do đó nhà văn Tô Hoài đã từng viết trong cuốn Chuyện cũ Hà Nội: “Chả giò ra Hà Nội lúc nào, thời kỳ nào, không biết. Chỉ biết cái chả giò ở Sài Gòn ra Hà Nội đã tân trang”. Nguyên liệu chính cho món ăn này là thịt heo, miến, trứng gà, nấm hương, mộc nhĩ và gia vị như hành lá, tiêu, nước mắm. Sau khi cuốn bằng bánh đa nem, nem rán được chiên ngập dầu. Nem thường được ăn kèm với nước mắm pha, đồ chua và rau xà lách, và các loại rau thơm như rau mùi, húng quế, húng cây, diếp cá. Không chỉ ăn chơi, ăn với cơm mà nem rán còn đặc việt ngon khi kết hợp với bún chả Hà Nội. Ngoài chả giò truyền thống, còn có một số loại nem rán khác như nem rán hải sản và nem rán chay.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 7
Bánh mì là một món ăn quen thuộc và phổ biến ở Việt Nam. Bánh mì không chỉ là món ăn sáng, ăn vặt mà còn có thể là món ăn chính trong ngày. Bánh mì Việt Nam có hương vị thơm ngon, độc đáo, được du khách quốc tế yêu thích. Bánh mì có nguồn gốc từ Pháp. Vào thế kỷ 19, khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, họ đã mang bánh mì theo. Ban đầu, bánh mì chỉ dành cho người Pháp, sau đó dần phổ biến đến người dân Việt Nam. Bánh mì Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi để phù hợp với khẩu vị của người Việt. Bánh mì Việt Nam có nhiều loại khác nhau như: bánh mì thịt nướng, bánh mì pate, bánh mì chả lụa, bánh mì xíu mại,... Bánh mì Việt Nam có giá trị văn hóa cao. Bánh mì thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và Pháp. Bánh mì cũng là một phần trong đời sống của người dân Việt Nam. Bánh mì Việt Nam có giá trị dinh dưỡng cao. Bánh mì cung cấp cho cơ thể nhiều năng lượng, protein, vitamin và khoáng chất. Bánh mì cũng là một nguồn cung cấp chất xơ tốt. Bánh mì Việt Nam có giá trị kinh tế cao. Bánh mì là một món ăn được du khách quốc tế yêu thích. Bánh mì cũng góp phần thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam. Bánh mì Việt Nam là một món ăn ngon, bổ, rẻ. Bánh mì là một phần không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam. Chúng ta cần gìn giữ và phát huy giá trị của món ăn này.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 8
Bánh mì là món ăn bình dân lại vô cùng ngon miệng và đủ chất cho buổi sáng, vì vậy không quá lạ khi bánh mì nằm trong top những món ăn đường phố ngon nhất thế giới. Khoảng 30.000 năm trước tại châu Âu, có một bằng chứng khảo cổ học về bột mì được chế biến thành bánh mì không men. Lịch sử ghi nhận là có một lượng tinh bột được tìm thấy trên các hòn đá. Có thể là trong thời gian này, chiết xuất tinh bột từ rễ của các cây như cây dương xỉ đã được đặt trên một tảng đá bằng phẳng, sau đó được nướng trên lửa thành một dạng bánh mì cắt lát. Như vậy, ngũ cốc và bánh mì đã trở thành thực phẩm chủ yếu trong thời kỳ đồ đá mới. Cụ thể, 10.000 năm trước, khi lúa mì và lúa mạch là 2 cây trồng đầu tiên được khai hóa ở Fertile Crescent, vùng Mesopotamia gần sông Nile. Các nơi khác trên thế giới thì khai hóa độc lập các loại ngũ cốc khác như: gạo ở Đông Á, ngô ở châu Mỹ, và chi cao lương ở châu Phi cận Sahara. Các quốc gia này đã làm bánh mì từ chúng và tạo nên cơ sở các hệ thống chuyển dịch nông nghiệp. Cây ngũ cốc đem đến nhiều cơ hội duy trì dân số cho xã hội nông nghiệp lúc bấy giờ. Tuy nhiên, bánh mì lên men còn xuất hiện trong thời tiền sử (trước thời kỳ đồ đá mới). Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên ở Athens, bánh mì được làm trong các tiệm bánh cũng như ở nhà. Thợ làm bánh Hy Lạp xuất hiện ở Rome vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Ở châu Âu thời trung cổ, bánh mì được phục vụ như một loại thực phẩm thiết yếu và có một vai trò đặc biệt trong dịch vụ ăn uống tại bàn. Cụ thể là người Gauls (một nhóm các dân tộc Celtic của lục địa châu Âu trong thời kỳ La Mã) và người Iberes (một tập hợp các tộc người ở khu vực bờ biển phía đông và phía nam của bán đảo Iberia, ít nhất là từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên) đã sử dụng bọt tách kem làm từ bia như một món khai vị. Những người không uống bia thì sử dụng một hỗn hợp gồm nho lên men hoặc cám lúa mì để ngâm trong rượu. Các lò nướng đứng có chức năng làm nóng trước khi nướng, được thiết kế có một cửa lò, lần đầu tiên xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại. Thậm chí, vào thời cổ đại, có rất nhiều loại bánh mì: bánh nướng, bánh mì mật ong, bánh mì hình nấm phủ hạt anh túc, và đặc sản quân sự bánh mì cuộn nướng trên cây sắt.. Chúng ta cần gìn giữ và phát huy giá trị của món ăn này.
Giới thiệu về lịch sử bánh mì hoặc một loại thức ăn/ đồ uống mà em yêu thích - Mẫu 9
Trà là loại thức uống có lịch sử lâu đời, được cho là bắt nguồn từ khu vực phía Bắc và Tây Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, có nhiều lý thuyết và chứng cứ lịch sử khác về trà, nhưng vẫn chưa được xác minh rõ ràng. Dữ liệu lịch sử ghi chép cho thấy trà được phát hiện từ thời nhà Thương (1600 TCN – 1048 TCN) và lịch sử trà bắt nguồn từ đó.
Ở châu Á, truyền thuyết xưa kể về Thần Nông – người đã phát hiện ra Trà và mang nó đến nhân gian. Ông là một trong ba vị Tam Hoàng nổi tiếng Trung Quốc, sở hữu kiến thức về y học và canh tác. Ông luôn hướng dẫn người dân kỹ thuật trồng trọt và canh tác hiệu quả hơn. Thần Nông còn có lòng nhân hậu, luôn khao khát tìm ra phương thuốc thảo dược chữa bệnh cho người dân lúc bấy giờ.
Thần Nông đã dành thời gian đi khắp nơi, thử nghiệm và nếm thử bất kỳ loại thảo dược quý hiếm nào để tìm ra công dụng của chúng. Một ngày nọ, gió vô tình thổi lá trà vào bình nước của ông và ông đã uống thử nước trà này. Vào lúc ông thử pha trà với nước nóng, ông đã cảm nhận được hương vị thơm ngon lạ thường. Từ đó, ông tiếp tục nghiên cứu và khám phá ra những công dụng tuyệt vời của Trà.
Nhờ những phát hiện này, lịch sử trà đã được ghi chép và truyền tay nhau. Người dân Trung Quốc thời đó coi trà như một loại thuốc thảo dược để giải độc và chữa bệnh. Tuy nhiên, chỉ đến thời nhà Đường (năm 618 – 907), cây trà mới được sử dụng rộng rãi như một loại nguyên liệu để pha chế đồ uống. Sau đó, trà bắt đầu xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm Anh, Sri Lanka, Mỹ, và nhiều nơi khác.
Trà được lan tỏa đến các quốc gia châu Á khác, đặc biệt nổi bật là Nhật Bản. Văn hóa trà đạo Nhật Bản được hình thành và phát triển qua nhiều thế kỷ, đặc biệt sau khi những sư thầy của phái Thiền Tông sang nước láng giềng tu đạo. Ngày nay, trà đã trở thành một thức uống phổ biến có mặt ở hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Trong suốt mấy trăm năm phát triển ở khu vực châu Á, thế kỷ XVI là thời điểm quan trọng đánh dấu sự mở rộng của trà tới châu Âu. Trà không còn bị “buộc chặt” ở khu vực này mà đã được thương nhân đưa đến vùng đất châu Âu rộng lớn. Nhận được danh xưng độc tôn hiếm có, trà đã nhanh chóng trở thành một món quý phục vụ trong những bữa tiệc của giới quý tộc.
Năm 1660, khi công chúa Catherine de Braganza kết hôn với vua Charles II và trở thành hoàng hậu của nước Anh, bà đã mang văn hóa trà từ khu vực châu Á đến Anh và tổ chức những buổi trà chiều quy mô lớn tại cung điện. Điều này đã khởi nguồn cho sự phát triển của văn hóa trà chiều nổi tiếng tại quốc gia này. Vào thế kỷ XVIII, trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa của châu Âu. Đặc biệt, đế quốc Anh đã đưa trà tới các thuộc địa của họ, đặc biệt là ở Mỹ và Ấn Độ. Nhờ sự lớn mạnh không ngừng của Anh, việc trồng trà đã lan rộng và trở thành một nguồn thu hút lớn đối với đế quốc này.
Với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi, cùng lao động có kinh nghiệm, Việt Nam trở thành vùng chuyên canh trà nổi tiếng. Trà Việt Nam qua nhiều công đoạn chế biến công phu, mang hương vị đặc biệt khiến giới sành trà kính phục. Địa hình đồi núi chiếm ¾ diện tích tạo điều kiện thuận lợi cho việc quy hoạch khu đồn điền trà chất lượng. Điều này giúp tạo cơ cấu trà đa dạng hơn. Trà Shan tuyết, trà thái nguyên, trà xanh, trà Sen, trà Nhài… đại diện cho hương vị tuyệt hảo của trà Việt Nam.
Trà luôn giữ vị trí độc tôn không thể thay thế trong dòng chảy văn hóa nhân loại. Lịch sử trà đa dạng với hàng ngàn chủng loại và hương vị, mang đến sự mới mẻ và không trùng lặp. Mỗi loại trà có dáng vẻ độc đáo, làm say mê người thưởng thức. Ngoài việc làm đồ uống, trà còn có tác dụng tốt cho sức khỏe. Trong văn hóa Việt, trà không chỉ là nguyên liệu pha chế, mà còn là đặc sản tạo nên sự giao tiếp và trao đổi, phản ánh tinh túy văn hóa phương Đông. Tất cả những điều này tạo nên sức hấp dẫn vượt thời gian của trà trong cuộc sống hiện đại.
Nhìn lại lịch sử trà phát triển, từ nguồn gốc tại châu Á cho đến những vùng đất xa xôi khắp thế giới, trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa con người. Qua hàng ngàn năm, trà đã chinh phục lòng tin và yêu mến của hàng triệu người. Quá trình trà đi từ vùng đất nhỏ để lan tỏa trên toàn cầu đã tạo nên một bức tranh đa sắc màu của văn hóa trà. Đồng thời giữ vững những giá trị tinh túy và những câu chuyện đậm đà riêng biệt.