Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du) Ngữ văn 11 ,Cánh Diều gồm 9 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du)
Đề bài: Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm "Truyện Kiều" (Nguyễn Du)
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 1
Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Đoạn trích "Khi tỉnh rượu lúc tàn canh....Ai tri âm đó mặn mà với ai?" đã kể lại những nỗi đau khổ tái tê nhất của Thúy Kiều nói riêng và của người phụ nữ dưới thời phong kiến nói chung. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá, điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận khôn nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.
Đoạn trích cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 2
Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 3
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.
Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.
Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.
Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả. Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.
Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào. Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”. Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn. Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.
Mỗi vần thơ là một giọt tâm hồn nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa, bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng nghệ thuật: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 4
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng.
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó là khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc. Mà người phụ nữ ở chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui, ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn là những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến là ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp, nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ là thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình là ai nữa. Mà trong đoạn trích để khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có thật trong lịch sử, một là Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan lạc. Hai là Trường Khanh tên tự của Tư Mã Tương Như, người gảy một khúc Phượng cầu Hoàng để quyến rũ Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần, cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn và hoang đường của những con người nơi đây. Mà ở đó người phụ nữ trở thành thú vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng có được cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng là nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan, lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở nên thấm thía và rõ ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm có lúc giở rượu, tỉnh giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này. Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen trắng trong đầm nước “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu đêm suốt sáng là “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt, cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần gũi xác thịt mà lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết, nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 5
Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện kiều là kiệt tác của nguyễn Du và của nền thi ca cổ điển dân tộc, sáng ngời tinh thần nhân đạo. Cả trên phương diện nghệ thuật, áng thơ nảy là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sư,v..v.. .đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn tuyệt bút của thi hào Nguyễn Du. Mượn vật tả người, lấy ý họa hình quả thực là sức mạnh phi thường trong ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong “Truyện Kiều”. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.
Hai chị em Thúy Kiều mang vẻ đẹp thanh cao, trinh trắng như “mai”, như “tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp nào cũng toàn thiện, toàn bích:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.
Tiếp sau vẻ đẹp của hai chị em, Nguyễn Du vẽ ra trước mắt người đọc bức chân dung tuyệt mĩ của Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng khác vời”; rất quý phái. Nàng sở hữu khuôn mặt “đầy đặn”, tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng, mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như tiếng ngọc,… Lại còn thêm mái tóc suôn mượt hơn mây, làn da trắng sáng hơn tuyết. Quả là mĩ miều xưa nay hiếm có.
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp ước, lệ tượng trưng, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Bức chân dung của Thúy Vân hiện lên cao khiết, trinh sạch và gần gũi trong ánh nhìn và tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy hòa hợp với trần thế, khiến cho vạn vật tôn vinh, ngưỡng mộ. Với cách miêu tả ấy, Nguyễn Du ngầm dự báo Thúy vân sẽ có một cuộc đời êm đẹp, hạnh phúc.
Không hề dài dòng, tiếp ngay sau đó, tác giả miêu tả tiếp vẻ đẹp của Thúy Kiều. Ánh sáng bừng lên, vũ trụ hân hoan khi từng đường nét Thúy Kiều hiện lên trên ngòi bút của bậc thiên tài:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Trên cái nền vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều tỏa hiện với vẻ đẹp lộng lẫy có thể khiến cho thành nghiêng nước đổ. Khác với bức chân dung của Thúy Vân, ở bức chân dung của Thúy Kiều, Nguyễn Du chỉ miêu tả hai đặc điểm. Mắt nàng trong như sắc nước mùa thu, Hàng chân mày thanh tú, diễm lệ như dáng núi mùa xuân. Chỉ hai thôi mà đã lộ rõ sắc đẹp phi thường của nàng rồi, thực là kì bút.
Đó là một vẻ đẹp vừa đằm thắm vừa sắc sảo, mặn mà, ẩn đầy nội lực tồn sinh. Phía sau vẻ đẹp hình thức là một nguồn sức mạnh huyền bí, có sức lôi cuốn và quyến rũ đến mê dại. Bởi thế, vẻ đẹp của Thúy Kiều đã khiến cho đất trời phải “ghen”, phải “hờn”.
Ở đây, ngòi bút tả người của thi hào có sự biến hóa đa dạng. Kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ nhân hóa, vận dụng tinh tế và hiệu quả thi liệu cổ điển tạo nên sức mạnh biểu đạt kì lạ. Cao hơn thé, thi hào còn mạnh mẽ khẳng định: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Nghĩa là, nếu sắc đẹp của Thúy Kiều là hiếm có thì tài năng và tuyệt kĩ của nàng là chưa từng có, chưa từng xuất hiện trên cõi đời này. Phải chăng, điều đó như dự báo rằng cuộc đời Thúy Kiều sẽ gặp nhiều trắc trở, tai ương bởi những phẩm chất và năng lực ngoại hạng của mình.
Sau bức chân dung tuyệt sắc của hai đại mĩ nhân, Nguyễn Du dành nhiều hơn để miêu tả tài năng của Thúy Kiều:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Trước hết, nàng là người rất thông minh. Vừa sở hữu vẻ đẹp trác việt, vừa thông minh tuyệt đỉnh, quả thực người như thế xưa nay hiếm lắm. Nguyễn Du có lẽ đã quá ưu ái cho nhân vật của mình chăng? Mọi thú tiêu dao của người xưa, nàng đều thông thuộc, thậm chí là đạt đến tuyệt kĩ tài hoa. Cầm, kì, thi, họa, âm luật, thi luật, kể cả tác thuật nàng đều sành sỏi. Người như thế, ai mà chẳng say mê. Bức chân dung của Thúy Kiều đã đạt đến mức toàn thiện, vượt qua tất cả ngưỡng hình dung của con người. Nàng chính là thần tiên trên mặt đất. Bởi là thần tiên nên nàng không thể nào hòa hợp với luật lệ của chốn trần gian vốn khắc nghiệt và giả dối nên cuộc đời mới trầm luân, dâu bể đến thế chăng?
Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong “Đoạn trường tân thanh”. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đao và tài nghệ thơ ca trác việt đã miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp đến nhuần nhị, thấu cảm lòng người. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ, tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhất là phép ẩn dụ, so sánh, lớp ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng gợi cảm, tài năng miêu tả người xuất chúng vẽ nên bức chân dung của bậc tuyệt thế giai nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cô nước nhà. Xưa nay, chưa từng có người đẹp như thế.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 6
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân. Những câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình (đoạn Chị em Thuý Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích).
Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thúy Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững.
Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu. Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi, biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vần còn rỉ máu làm cho nàng không những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần. Cuộc đối đáp giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư. Hành động trừng phạt cái ác của Thúy Kiều theo đúng quan điểm công lí của nhân dân nên nó phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai hoạ. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như dằn ra từng tiếng, trong những từ ngừ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người cùng chung chút phận đàn bà.
Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư muôn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ: Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lí lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan tào thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa sẽ chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 7
Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu trân trọng là một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của tên buôn người và cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn trường mười lăm năm đời Kiều.
Sau lần thề nguyền, hạnh phúc vừa chớm nở, gia đình Kiều gặp tai biến. Bọn “đầu trâu mặt ngựa” kéo đến đập phá tan tành, Vương Ông, Vương Quan bị trói đánh hành hạ:
Giường cao rút ngược dây oan.
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.
Không đành lòng để gia đình tan nát, Kiều đã bán mình để cứu cha và em. “Tin sương đồn đại”, xa gần xôn xao, nghe tin đó anh chàng họ Mã đã “ngửi” thấy món lợi lớn vội nhờ người mai mối để đến “vấn danh”, nói dối là cưới Kiều về làm vợ. Mã Giám Sinh xuất hiện, ta hãy nghe hắn giới thiệu về tên họ, quê quán:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Hắn không nói tên chỉ xưng họ ngụ ý khoe khoang mình cũng là một kẻ danh giá, có học hành, một giám sinh của trường Quốc tử giám. Lời nói lại cộc lốc, nhát gừng đúng giọng điệu của những kẻ thiếu văn hoá, nghe rất chói tai. Tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu diện mạo của hắn:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Một người đã đứng tuổi “ngoại tứ tuần” nhưng lại chải chuốt, đỏm dáng râu mày tỉa tót nhẵn nhụi, áo quần chưng diện bảnh bao làm cho người gặp lần đầu đã nghi ngờ về tư cách của hắn. Rồi thì “trước thầy sau tớ xôn xao”, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng lộ rõ bản chất huênh hoang, thô lỗ của hắn. Chỉ bằng một cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du bóc trần sự bịp bợm của tên lưu manh giả dạng một giám sinh.
Một đoạn thơ ngắn chỉ 8 câu, ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã dựng lên một chân dung sinh động của anh chàng họ Mã từ diện mạo, cử chỉ, lời nói đến bản chất bỉ ổi, bịp bợm. Bức chân dung của Mã Giám Sinh được hoàn chỉnh như nhà thơ tả cảnh hắn mặc cả cò kè mua Kiều. Kiều ra mắt trong tâm trạng nhục nhã ê chề:
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc, hất tay” nàng tủi nhục biết nhường nào. Nhưng Mã Giám Sinh coi nàng là một món hàng không hơn không kém, hắn cân nhắc xem xét kĩ càng:
Đắn đo cân sức, cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Và khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa” hắn liền hỏi giá, cho đến lúc này hắn vẫn đóng kịch làm bộ một kẻ có học, ăn nói văn hoa kiểu cách tỏ vẻ khiêm nhường lễ phép:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho vừa”.
Nhưng bộ mặt thật của hắn chẳng đánh lừa được ai, hắn đã lộ nguyên hình một tên bán thịt buôn người đê tiện. Hắn rõ hoàn cảnh của Kiều nên tìm cách dìm giá, ép giá, mặc cả “cò kè bớt một thêm hai” để rồi mua với giá rất hời:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Kết thúc màn “bi hài kịch” mua người này, Nguyễn Du đã thốt lên chua xót: “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Nhà thơ tố cáo thế lực tàn bạo của đồng tiền, đồng tiền đã tác oai tác quái chà đạp đạo lí và lương tâm con người. Một xã hội mà “Trong tay sẵn có đồng tiền - Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” thì giá trị của con người chỉ là món hàng.
Bức tranh mua bán người thật xót xa não lòng làm ta liên tưởng đến những chợ bán nô lệ một thời dã man của lịch sử. Ngòi bút Nguyễn Du cố giữ thái độ bình tĩnh khách quan khi miêu tả nhưng rồi lòng căm phẫn và xót thương không kìm nén được. Nguyễn Du lên án gay gắt cái xã hội tàn ác đã giày xéo lên quyền sống con người mà nạn nhân bi thảm nhất là những người phụ nữ.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 8
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc Việt Nam là danh nhân văn hóa thế giới . Tác phẩm Truyện Kiều là một trong những tác phẩm đỉnh cao của nền văn học Việt Nam, là kết tinh của những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật và ngòi bút miêu tả nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình đại tài của Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy tâm trạng cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn.
Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn đầu xanh Kiều đã rất tủi nhục và định tự vẫn. Nhưng Tú Bà sợ Kiều chết đi thì bị mất một mớ tiền oan nên giả vờ chờ Kiều bình phục sẽ gả Kiều đi ở một nơi tử tế rồi đưa Kiều giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu mới đê tiện của mình. Đoạn trích mở đầu bằng khung cảnh hoang vắng ở lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khóa Xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Khóa xuân là cách nói mỉa mai của tác giả đó là khoảng thời gian Kiều bị Tú Bà giam lỏng. Khi Kiều vừa trải qua những đau khổ nay lại bị nhốt ở nơi vắng vẻ, tiêu điều nàng cảm thấy cô đơn và chán trường
Cảnh non xa tấm Trăng gần ở chung
Hình ảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ giữa sông nước từ trên lầu cao nhìn ra xung quanh là cả một không gian bát ngát mênh mông tất cả đều xa vời.
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Hai câu thơ tiếp theo gợi lên thời gian không gian mênh mông, hoang vắng. Từ lầu Ngưng Bích đưa ánh mắt nhìn ra xa chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát mù mịt. Kiều rơi vào hoàn cảnh cô đơn, nàng không có ai bầu bạn, tâm trạng Kiều bị dồn vào đến tận cùng của nỗi tuyệt vọng
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Khi sống một mình giữa một cái lầu trơ trọi trong không gian thời gian hoang vắng, không có sự giao lưu giữa người với người. Bẽ bàng chính là tâm trạng chán trường và xấu hổ của Thúy Kiều. Cụm từ mây sớm đèn khuya diễn tả thời gian tuần hoàn khép kín lặp đi lặp lại. Thời gian, không gian ở đây giống như đang kìm hãm con người. Ở đó Kiều chỉ biết làm bạn với mây, đêm đến làm bạn với ngọn đèn. Dù ban ngày hay ban đêm Kiều vẫn luôn phải đối mặt với những nỗi cô đơn buồn tủi. Trong hoàn cảnh cô đơn như thế con người ta thường nghĩ về những người thân yêu nhất của mình và Thúy Kiều cũng vậy, Kiều nhớ tới người thân, nhớ tới người yêu đang ngày đêm mong mỏi mình trở về. Tám câu thơ tiếp theo của đoạn trích đã miêu tả nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều. Người nàng nhớ đầu tiên đó chính là Kim Trọng - mối tình đầu của nàng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tiên sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Chắc hẳn sẽ có nhiều người thắc mắc tại sao Thúy Kiều không nhớ cha mẹ mình đầu tiên mà lại nhớ Kim Trọng . Có lẽ việc bán mình chuộc cha đã coi như nàng làm tròn bổn phận con cái với cha mẹ. Bao nhiêu chuyện xảy đến với nàng để giờ đây khi ở lầu Ngưng Bích nàng nhớ về người yêu, nàng tự trách bản thân là người đã phụ tình Kim Trọng, nàng nhớ đến lời thề nguyền đôi lứa năm xưa khi nàng và Kim Trọng đã cùng nhau nâng chén rượu hẹn ước dưới ánh trăng. Nàng ở lầu Ngưng Bích và nghĩ về Kim Trọng đang ngóng trông tin tức của mình, nỗi nhớ Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa . Câu thơ tấm thân gột rửa bao giờ cho phai, chúng ta có thể cảm nhận được sự đau đớn về tình yêu son sắc mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng nhưng tình yêu đó đã bị bọn buôn người làm vùi dập hoen ố. Một câu hỏi được đặt ra đó là làm sao và đến bao giờ có thể gột rửa nỗi dơ bẩn này. Điều đó thể hiện tình yêu của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng luôn son sắc và không bao giờ phai nhạt. Kiều không chỉ đau đớn mà còn thấy rất hổ thẹn vì đã phụ chàng Kim, phụ sự mong ngóng chờ đợi của chàng. Các từ ngữ tưởng "trông chờ", "bơ vơ" đã thể hiện được sự độc thoại nội tâm của Thúy Kiều, nàng nhớ người yêu tha thiết, xót xa cho mối tình trong sáng của mình.
Khi nhớ về chàng Kim Kiều lại nhớ về cha mẹ
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Lại một lần nữa Kiều lại nghĩ về những người ruột thịt của mình. Khi nghĩ tới cha mẹ nàng vô cùng thương xót, nàng thương cha mẹ khi sáng chiều tựa cửa ngóng tin con, nàng xót xa khi cha mẹ đã đến tuổi nghỉ ngơi mà không có ai chăm nom, nàng lo lắng không biết ai sẽ là người chăm lo cha mẹ khi về già. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc tử đã nói nên tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng đã tưởng tượng ra nơi quê nhà của mình tất cả đã đổi thay, cha mẹ ngày một già yếu. Cụm từ cách mấy nắng mưa, thể hiện được thời gian qua bao mùa mưa nắng đồng thời nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Khi nhớ về cha mẹ Kiều luôn ân hận vì cho rằng mình đã phụ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Với 8 câu thơ Nguyễn Du đã miêu tả trọn vẹn nỗi nhớ của Thúy Kiều với Kim Trọng, về cha mẹ người đã sinh thành và nuôi dưỡng Thúy Kiều khôn lớn với một nỗi nhớ dai dẳng và da diết.
Tám câu thơ cuối bài thơ với tâm trạng cô đơn buồn tủi Thúy Kiều lại càng thể hiện rõ nét qua bức tranh tâm trạng. Điệp ngữ Buồn trông được xuất hiện ở đầu mỗi câu thơ khiến cho nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Mỗi câu thơ lại là một cảnh, một tâm trạng của Kiều nhưng tất cả là nỗi đau sự tuyệt vọng. Kiều thương thay cho số kiếp của mình, thương những người thân yêu của mình. Đây có thể coi là đoạn thơ hay nhất trong tác phẩm Truyện Kiều, ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống ngôn ngữ mang tính ước lệ
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Cửa bể mênh mông trong một buổi chiều hoàng hôn càng làm tăng nỗi buồn, sự cô đơn của những người con xa xứ. Thuyền ai lúc ẩn lúc hiện, thấp thoáng cánh buồm xa xa đầy ám ảnh. Thúy Kiều muốn tìm một người để đồng cảm với mình. Hình ảnh con thuyền xuất hiện là hình ảnh sự sống của con người, nhưng con thuyền ấy lại thấp thoáng xa xa, lúc mờ lúc hiện, qua đó ta thấy được hình ảnh bơ vơ không nơi nương tựa của Thúy Kiều;
Buồn trông gió cuốn mới sa
Hoa cho man mác biết là về đâu
Khi nhìn những cánh buồm ngoài khơi xa mà chẳng thể nào với được, Kiều lại đưa ánh mắt về gần để tìm sự đồng cảm bởi cảnh vật. Thế nhưng hình ảnh Hoa trôi man mác biết là về đâu điều đó như dự báo trước cho kiếp đời lưu lạc, lênh đênh của Kiều. Kiều không biết cuộc đời nàng sẽ đi về đâu giữa dòng đời vô định ấy. Hình hoa bị những con sóng biển vùi dập cũng như cuộc đời Kiều bị những thế lực cường hào áp bức phong kiến đã đẩy nàng vào cuộc đời bi kịch. Đáng ra với tài năng và vẻ đẹp của mình Kiều đã phải có một cuộc sống hạnh phúc thế nhưng tài hoa bạc mệnh sinh ra trong một xã hội mà quyền con người không có kiểu đã phải chịu biết bao tủi nhục.
Khi nhìn ra xa Kiều chỉ thấy trên cái nền xanh mờ mịt là màu sắc tàn úa vàng héo của cỏ
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Hình ảnh cỏ ở đây không còn là một hình ảnh cỏ tươi như Tiết Thanh minh mà đã trở nên héo úa. Từ rầu rầu thể hiện nỗi buồn man mác được nhân lên gấp bội khi nhìn xa rồi lại nhìn gần, vừa buồn vừa lắng nghe. Nàng đã tập trung lắng nghe tiếng gió, tiếng ầm ầm của sóng. Tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút lo âu hãi hùng
Buồn trông gió cuốn mặt dềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Từ ầm ầm thể hiện âm thanh lớn, bất ngờ. Điều đó phải chăng là dự báo cho những tai hoạ đang bủa vây mà Kiều sắp phải đối mặt trong tương lai.
Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều cảnh được quan sát từ xa đến gần, màu sắc chuyển từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Nỗi buồn của Kiều được miêu tả từ buồn man mác đến lo âu khiếp sợ. Tất cả đều được miêu tả theo chiều tăng tiến làm nhấn mạnh hơn nỗi buồn, cô quạnh và thân phận đáng thương của Kiều. Chỉ với 8 câu thơ những điệp ngữ Buồn trông được đặt ở đầu câu và xuất hiện bốn lần điều đó càng thể hiện nỗi buồn da diết của Kiều ảnh hưởng đến cảnh vật. Bởi xưa nay người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, đó chính là nỗi buồn, nỗi đau của kiếp người lưu lạc.
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều giúp ta hiểu thêm về Thúy Kiều. Nàng là một người tình chung thủy, một người con hiếu thảo, luôn hi sinh hết mình vì mọi người và bỏ qua những nhu cầu của bản thân. Đồng thời qua đoạn trích ta có thể thấy sự đồng cảm sẻ chia và tinh thần nhân đạo của nhà văn Nguyễn Du dành cho nhân vật, cũng như dành cho bao kiếp người trong xã hội cũ. Chính những cảm xúc chân thành của nhà thơ đã gieo và lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.
Đây là một đoạn trích rất hay và đặc sắc. Qua tác phẩm ta như hiểu được và đồng cảm hơn đối với những con người trong xã hội cũ, họ có tài năng có vẻ đẹp nhưng lại bị xã hội vùi dập và bị đẩy đến bước đường cùng sống cuộc đời lênh đênh không bến đỗ.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 9
Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một kiệt tác lớn được bạn bè quốc tế yêu thích đó chính là tác phẩm Truyện Kiều. Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo truyện Kiều của Nguyễn Du thành công về mặt nghệ thuật với bút pháp tả cảnh ngụ tình và miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc. Nguyễn Du đã đạt đến tình cao trong lịch sử với đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, miêu tả thành công nỗi cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần Gia biến và lưu lạc. Đoạn thơ dài 22 câu không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự việc tả cảnh ngụ tình với những ngôn từ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Thúy Kiều
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Với nét bút tả cảnh ngụ tình Nguyễn Du đã miêu tả thành công tâm trạng của Thúy Kiều với những các từ khóa xuân đã cho thấy tình cảnh của Kiều lâm vào cảnh chim lồng cá chậu bị giam lỏng và khóa kín tuổi xuân của mình. Từ khóa xuân không phải nói tới những cô gái bị cấm cung mà chính là sự mỉa mai chua xót cho thân phận nàng Kiều. Kiều trơ trọi giữa thời gian mênh mông với không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương đôi đất khách quê người, cô đơn bị đày vào chốn lầu xanh.
Lầu Ngưng Bích vốn là một nơi có phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữu tình thơ mộng được thể hiện qua các từ ngữ non xa, trăng gần, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng, dặm kia. Tuy nhiên từ xưa đến nay Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Trong tình cảnh bị giam cầm và tha hương cô đơn như thế, Kiều nhìn khung cảnh với con mắt buồn thảm vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn đất thì chỉ thấy cồn cát nhấp nhô phía bên là bụi hồng.
Ta có thể thấy lầu Ngưng Bích chỉ là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh mây sớm Đèn Khuya chính là một vòng tuần hoàn khép kín của thời gian tất cả như kìm hãm Tuổi Thanh Xuân của Kiều sự sống của Kiều đã bị những thế lực tàn ác của xã hội phong kiến bóc chết từ đó khắc sâu thêm nỗi buồn nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy bẽ bàng buồn tủi bởi không ai chia sẻ và nàng chỉ biết làm bạn với mây với đèn với cảnh vật hoang vu. Trong nỗi cô đơn tuyệt vọng ấy kiều cảm thấy xa cách hoang vắng, bị giam cầm cách biệt với nơi đất khách quê người.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Khi ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng. Đây là một nét bút đặc sắc độc đáo và phù hợp với tâm lý thể hiện lòng chung thủy của Thúy Kiều. Các từ ngữ tưởng, trông chờ trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm nổi bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng Kiều. Càng nhớ về lời thề đôi lứa lời hẹn ước năm nào lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề còn ở đây mà nay mỗi người một ngả khiến Thúy Kiều ân hận, xót xa giống như mình là một kẻ phụ tình chàng.
Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, lo âu cho dù mỗi người một phương nhưng tình cảm của nàng dành cho kim trọng là mãi mãi và không thể phai mờ. Càng nghĩ kều càng thấy lo lắng phải bật lên câu hỏi tu từ. Phải biết đến bao giờ nàng mới có thể rửa sạch được những ô uế của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng. Không chỉ nhớ người yêu, ở nơi lầu cao ấy nàng cũng nhớ về cha mẹ của mình:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Ngôn ngữ độc thoại kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng buồn của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ hôm mai, cách mấy nắng mưa diễn tả nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng. Kiều thương cho cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, ngày trông ngóng, nàng lo cho cha mẹ già yếu ở nhà không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh cùng với điển tích Sơn Lai, gốc tử đã nói lên tâm trạng nhớ thương và thể hiện Kiều là một người con hiếu thảo.
Nàng lo sợ ở nơi quê hương mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại càng ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của một người con. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích. Phải lưu lạc tới nơi đất khách quê người chính bản thân Kiều mới là người đáng thương nhất, thế nhưng với tâm hồn và với những nét tính cách đẹp cao thượng của mình nàng luôn hy sinh bản thân mình, quên đi cảnh ngộ hiện tại của bản thân để lo lắng nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ, những người thân của Kiều. Nỗi nhớ đó của Kiều rất chân thực và có chiều sâu để từ đó ta có thể thấy đây là một người con hiếu thảo, một người tình chung thủy và một con người giàu lòng vị tha.
Tâm trạng buồn tủi của Kiều không chỉ còn ở trong lòng nữa mà đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng và diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Khung cảnh mở ra cho chúng ta thấy được đây là một cảnh hoàng hôn cửa bể chiều hôm gợi cho chúng ta hình ảnh những tia nắng cuối ngày, phản chiếu trên mặt biển xanh khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm. Có cái gì đó tha thiết và nỗi nhớ mong, Kiều dường như tiếc nuối những ngày tháng trước kia. Các từ ngữ thấp thoáng, xa xa diễn tả sự lẻ loi, đơn độc giống như tình cảnh của Kiều bây giờ.
Một mình nơi xứ người bơ vơ nơi lầu ngưng Bích, Kiều chỉ biết nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, mong chờ một con thuyền để có thể cứu nàng. Nhưng chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở phía xa xa, lúc mờ lúc hiện Thuyền ai lênh đênh mất hút phía chân trời xa giống như cuộc đời Kiều lênh đênh chẳng biết chơi về đâu. Chẳng biết bao giờ mới có thể trở về nhà báo hiếu cho cha mẹ
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Cánh hoa mỏng manh dập dìu trong dòng nước bé nhỏ không chống chọi được với sức của mọi nước giống như chính thân phận Kiều trong xã hội cũ. Tuy là một người có đức có tài, có nét đẹp nhưng chính cường quyền áp bức đã vùi dập nàng, vùi dập tài năng của nàng. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi trôi theo dòng đời vô định, chẳng biết đi về đâu. Nhìn cánh hoa vùi dập nàng Kiều lại nhớ tới Kim Trọng, càng buồn tủi và xót xa cho thân phận của mình:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Trái ngược với cái tên của lầu màu xanh qua con mắt của Kiều trở nên thật sầu thảm với từ láy rầu rầu gợi lên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa xơ xác. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều với một tài sắc vẹn toàn đáng lẽ nàng phải có một cuộc sống đầy đủ, phải có một cuộc đời hạnh phúc thế nhưng Tuổi Thanh Xuân ấy sẽ phai tàn và vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hy vọng nhưng nay đã tàn úa giống như niềm tin của Thúy Kiều đang dần cạn với nỗi xót xa ngày càng dâng cao trong Thúy Kiều.
Buồn trông gió cuốn mặt dềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm, trong cảnh gió cuốn mặt dềnh giống như bão tố phong ba đang chờ đợi Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến, giống như tiếng sóng ở ngoài xa, tiếng sóng ầm ầm chính là báo hiệu một tương lai đầy sóng gió khiến Kiều sợ hãi.
Với điệp ngữ Buồn trông đặt ở bốn câu đầu trong bài thơ giống như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ trầm trầm và những thanh bằng đã nhấn mạnh một nỗi buồn đang ngày càng dâng lên trong tâm trạng của Thúy Kiều, cùng với cảnh vật đang càng lúc càng mênh mang những từ láy xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm như những con sóng đang trào dâng trong tâm hồn của Kiều.
Đoạn thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều cũng như trong văn học trung đại Việt Nam. Qua đoạn thơ chúng ta có thể hiểu biết thêm về tính cách của Kiều. Đó là một người chung thủy, một người con hiếu thảo và là một con người của tấm lòng vị tha. Đồng thời ta cảm nhận được sự khắc nghiệt của xã hội phong kiến, đã đẩy những con người đáng thương như thế kia và hoàn cảnh éo le.
Kiều ở lầu Ngưng Bích chính là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Thúy Kiều và chứng tỏ được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du. Chính sự bao dung, đồng cảm sẻ chia của Nguyễn Du đã đi vào tâm tưởng bằng thế hệ.
Video bài giảng Văn 11 Nguyễn Du, cuộc đời và sự nghiệp - Cánh diều
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 10
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. Ông có đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà với những tác phẩm đồ sộ. Tiêu biểu trong số đó là "Truyện Kiều". Đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nằm ở phần đầu tập thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của hai chị em Kiều và Vân.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu khái quát về vẻ đẹp của hai chị em:
"Đầu lòng hai ả tố nga
................
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Cụm từ "tố nga" là chỉ hai người con gái đẹp. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật ước lệ và phép đối qua câu thơ "Mai cốt cách tuyết tinh thần". Ý thơ đã gợi ngoại hình mảnh mai, cốt cách thanh tao và tâm hồn trong sáng, tinh khôi của hai cô gái. Tác giả nhấn mạnh vẻ đẹp hoàn mĩ của họ qua câu thơ "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười". Lời giới thiệu của Nguyễn Du tuy ngắn gọn nhưng vẫn tạo được những ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp của hai người con gái nhà họ Vương.
Trong những câu thơ tiếp theo, tác giả miêu tả chi tiết hơn về vẻ đẹp của Vân:
"Vân xem trang trọng khác vời,
..................
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da"
Vẻ đẹp của Vân được khái quát qua hai từ "trang trọng". Đó là vẻ đẹp đoan trang, cao sang, quý phái. Khuôn mặt của Vân đầy đặn, phúc hậu như ánh trăng rằm. "Nét ngài nở nang" gợi đôi lông mày cong, sắc nét. "Hoa cười ngọc thốt đoan trang" gợi khuôn miệng tươi tắn như hoa, tiếng nói trong trẻo. Ý thơ "Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da" giúp người đọc hình dung mái tóc bồng bềnh như mây, nước da trắng như tuyết của Vân. Động từ "thua", "nhường" nhấn mạnh vẻ đẹp đoan trang, hài hòa của Vân. Vẻ đẹp đó mang khuôn khổ của thiên nhiên sẵn sàng thua - nhường. Bằng việc sử dụng phép liệt kê, bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã gợi lên vẻ đẹp hoàn hảo, phúc hậu của nàng Vân. Bức chân dung của Vân cũng dự báo nàng sẽ sống một cuộc đời suôn sẻ, bình lặng, êm đềm, không gặp nhiều sóng gió trắc trở.
Tiếp theo đó là những vần thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
..................
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân"
Cụm từ "sắc sảo mặn mà" gợi vẻ đẹp trí tuệ và tâm hồn của nàng Kiều. "Làn thu thủy" đó là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, huyền ảo như làn nước mùa thu. "Nét xuân sơn" hình dung về đôi lông mày thanh tú, xinh đẹp như nét núi mùa xuân. Tác giả sử dụng điển cố "nghiêng nước nghiêng thành" để cực tả vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân của Kiều. Vẻ đẹp đầy rực rỡ, đầy sức sống, tâm hồn trong sáng, dự báo một số phận sóng gió, gian truân của nàng. Không chỉ xinh đẹp mà Kiều còn là một người đa tài. Nguyễn Du đã đặc tả tài đánh đàn của Kiều "lầu bậc ngũ âm", "ăn đứt hồ cầm". Cung "bạc mệnh, não nhân" nàng viết lên như dự báo trước cuộc đời hồng nhan bạc mệnh. Qua đây, ta có thể thấy cả về tài và sắc Kiều đều hơn người. Nhưng dường như cuộc đời của nàng sẽ chẳng được bình yên, suôn sẻ.
Những vần thơ cuối trong đoạn trích, tác giả đã khái quát về cuộc đời của hai chị em Kiều:
"Phong lưu rất mực hồng quần
.................
Tường đông ong bướm đi về mặc ai"
"Phong lưu" đó là gia cảnh gia đình khuôn phép, nề nếp. Câu thơ "Êm đềm trướng rủ màn che" gợi cuộc sống êm đềm, bình lặng, kín đáo. Kiều và Vân sống trong gia đình gia giáo và cũng đang đến "tuần cập kê". Hai chị em là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như hai bông hoa.
Bằng việc sử dụng thủ pháp ước lệ, tượng trưng, ngôn ngữ biểu cảm, Nguyễn Du đã giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp của Kiều và Vân. Đoạn trích chính là minh chứng vô cùng rõ nét cho tài năng nghệ thuật Nguyễn Du.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 11
Từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn là hình tượng lý tưởng trong những áng văn chương của thời đại. Họ là sự hội tụ của sắc đẹp và tài trí hơn người. Nhưng trong xã hội phong kiến đầy áp bức, bất công, họ lại là đại điện cho số phận bất công, tủi nhục đến cùng cực. Và cuộc đời Thúy Kiều chính là một cuộc đời như thế. Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một bước ngoặt của đời Kiều, khởi đầu cho bi kịch khốn khổ kéo dài suốt mười lăm năm lưu lạc.
Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều gặp tai biến nặng nề. Cha và em trai Kiều bị lũ sai nha bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man, của cải gia đình cũng theo đó mà mất hết. Cái giá mà chúng đưa ra là: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Khi ấy, Kim Trọng đã trở về Liêu Dương hộ tang chú. Kiều đành gạt nước mắt và gác lại mối tình đầu mới chớm nở với chàng Kim để bán mình chuộc cha và em.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã thể hiện thái độ khinh bỉ, căm ghét của mình với một kẻ xấu xa, vô học - Mã Giám Sinh:
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Có lẽ nhiều người sẽ hiểu nhầm rằng “Mã Giám Sinh” là một cái tên cụ thể của một người. Nhưng thực chất, đó chỉ là một tên gọi mang tính chung chung, không rõ ràng về một thân phận nào cả. “Giám sinh” là một chức danh để chỉ một người học trò nho Giáo thời xưa. Mà chức danh ấy bấy giờ lại là một thứ gì đó thật đáng khinh bỉ, chúng có thể được những kẻ vô danh, hám lợi mua bằng tiền để lấy cái mã mà đè đầu cưỡi cổ những lớp người thấp hơn.
Các từ ngữ “viễn khách”, “vấn danh” đã góp phần miêu tả cái lai lịch mập mờ, không rõ ràng của hắn. Giọng điệu thơ của Nguyễn Du như vạch trần về danh tính của kẻ xấu xa này. “Viễn khách” dùng để chỉ những khách làng chơi đã về già, nhưng nó có thể chỉ một kẻ buôn thịt bán người. Hắn đã tự xưng rằng quê mình ở huyện Lâm Thanh, tự nhận mình là sinh viên trường Quốc Tử Giám. Sự khoe khoang, bịa đặt của Mã Giám Sinh thật khiến người ta càng thêm tò mò về thân phận ấy. Hắn đã cố tình chọn “huyện Lâm Thanh” làm quê vì nơi ấy rộng lắm, xa lắm, sẽ chẳng một ai có thể tìm được lai lịch, thông tin của hắn cả! Không những thế, cách nói chuyện của Mã Giám Sinh cũng thể hiện sự xấc xược, vô văn hóa ngấm sâu vào bản chất. Cách trả lời của hắn trống không, không thưa gửi, không có một chút gì gọi là tôn trọng người bề trên. Hắn nhìn đời bằng một con mắt kiêu kỳ, coi thường thiên hạ. Thật đối lập với cái danh xưng hắn đã nêu ở trên.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Lại một lần nữa, con người của Mã Giám Sinh hiện lên với sự đối lập giả tạo. Hắn đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, như một gã trai tơ vẫn còn xuân xanh. “Ngoại tứ tuần” là độ tuổi trạc ngoài bốn mươi. Thế nhưng, vẻ ngoài của hắn lại không hề phù hợp với độ tuổi ấy. Người xưa thường nhìn vào phần mày và râu của người đàn ông đầu tiên để đánh giá nhận xét về con người ấy. Hai từ “nhẵn nhụi” đã được Nguyễn Du sử dụng để khắc họa sự trơ trẽn, phẳng lỳ của kẻ này. Ấy vậy mà tác giả lại còn thêm vào từ “bảnh bao” như một sự mỉa mai vẻ bề ngoài thiếu tự nhiên ấy. Hình tượng của Mã Giám Sinh hiện lên đầy lố lăng và phô trương, giả tạo.
Tên tuổi và vẻ ngoài đã dần dần bộc lộ rõ bản chất của con người hắn. Xong, hành động của tên Mã này lại càng tô đậm thêm con người vô phép của hắn:
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra…
Một không gian đầy nhốn nháo, mất trật tự và vô kỷ luật hiện ra trước mắt người đọc. Đó chính là sự ồn ào, vô ý thức do Mã Giám Sinh cùng đồng bọn của hắn gây ra. Có một buổi vấn danh nào mà lại thiếu nghiêm túc như này không? Thật không giống cung cách đi hỏi vợ của một người đàn ông bình thường.
Mã Giám Sinh hành động đầy suồng sã và thô lỗ: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Hắn không kiêng nể và tôn trọng một ai, thậm chí là với cả người bề trên trong gia đình. Các từ “tót”, “sỗ sàng” càng thể hiện rõ hơn sự vô phép vô tắc của một kẻ cậy tiền mà khinh người.
Là một tiểu thư của một gia đình phong lưu, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ, màn che/ Tường đông ong bướm đi về mặc ai”, cuộc gặp gỡ với tên Mã ấy như một ngã rẽ cuộc đời, đẩy Thúy Kiều vào nỗi tủi nhục và tuyệt vọng, đau đớn khôn nguôi:
Nỗi mình nên tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Ngòi bút của Nguyễn Du như thấm đẫm máu chảy mà viết nên những hình ảnh ước lệ cho thân phận trôi nổi của nàng Kiều. Kiều vừa xót xa cho thân phận của mình, vừa xót xa cho mái ấm gia đình. Nước mắt của nàng không ngừng tuôn rơi trước nỗi đau đớn tủi nhục ấy. Các hình ảnh “ngại ngùng dợn gió e sương”, “nét buồn như cúc điệu gầy như mai” đã thể hiện sự đồng cảm của tác giả dành cho nàng. Nàng tự cảm thấy mình không xứng với hoa, cảm thấy bản thân như một món hàng cho khách “vén tóc bắt tay”:
Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu
Món hàng mang tên “Thúy Kiều” ấy đã phải đánh đàn, làm thơ “ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”. Từ “ép” chỉ sự không tự nguyện, không bằng lòng. Mã Giám Sinh thì lại cảm thấy hài lòng trước cô gái ấy, còn mụ mối thì bắt đầu cuộc ngã giá: “Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”.
Giọng điệu của Mã Giám Sinh là giọng điệu của một con buôn chính hiệu, hắn dùng những lời lẽ hoa mỹ mà văn vẻ để hỏi giá:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Mối rằng: “Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Cách hắn nói không phải là của một người đi “vấn danh” mà đó là sự trả giá cho một món hàng mà hắn muốn mua. Từ “bao nhiêu” đã góp phần bộc lộ bản chất độc địa của một tên buôn người. Hắn được đà nói và tiếp tục “cò kè”:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Từ láy “cò kè” đã thể hiện bản tính bần tiện, ham muốn chuộc lợi. Đây là đặc trưng của một kẻ buôn người. Mã Giám Sinh đã coi Kiều như một món hàng và trả giá, như một cách gián tiếp xúc phạm đến nhân phẩm của nàng. Hắn chính là đại diện cho kẻ tác ác và đê tiện trong xã hội xưa.
Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã vạch trần đến tận cùng của cái xã hội “ăn thịt người”, nơi mà con người bị mang ra mua bán như một thứ hàng hóa ở chợ, bị đày đọa đến cùng cực, tủi nhục. Ông đã khắc họa một tên buôn người với bản chất xấu xa, giả dối, đó chính là Mã Giám Sinh. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ sự thương xót và đồng cảm với tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của nàng Kiều trước bước ngoặt của cuộc đời mình.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 12
Xuân, hạ, thu đông bốn mùa luân chuyển. Mỗi mùa đi qua đều để lại ấn tượng sâu sắc cho mỗi người. Mùa xuân là một đề tài quen thuộc trong thơ ca được các nhà thơ khai thác. Và với tác giả Nguyễn Du cũng không phải là ngoại lệ. Với đoạn trích "Cảnh ngày xuân", nhà thơ đã tả lại không gian tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ ra khung cảnh bức tranh xuân thật đẹp:
"Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
"Con én đưa thoi" như nhấn mạnh sự chảy trôi của thời gian. Ý thơ "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" gợi ánh sáng của mùa xuân đã đến ngày thứ 60. Trong khoảnh khắc đó con người có cảm giác tiếc nuối thời gian tươi đẹp của mùa xuân. Phải chăng đó cũng chính là chút buồn vì tuổi trẻ cũng đang trôi qua nhanh. Hình ảnh "Cỏ non xanh tận chân trời" như mở ra khoảng không mùa xuân khoáng đạt, tinh khôi, giàu sức sống. Trên nền xanh non ấy điểm xuyết vài bông hoa lê trắng, nhẹ nhàng. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" và phép đảo ngữ đã nhấn mạnh sự xuất hiện của bông hoa trắng trên nền cỏ xanh bất tận. Vậy chỉ bằng bốn câu thơ, tác giả đã mang đến cho người đọc bức tranh mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và đặc biệt có hồn.
Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả về khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh:
"Thanh minh trong tiết tháng ba,
........................
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay".
Lễ tảo mộ đó là viếng thăm, sửa sang phần mộ người thân, tổ tiên. Việc làm đó thể hiện truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc. Hội đạp thanh đó là giẫm lên cỏ xanh khi đi chơi xuân ở đồng quê. Nguyễn Du đã liệt kê một loạt các danh từ "yến anh", "tài tử", "giai nhân" để người đọc hình dung cảnh những người đi chơi xuân đông đúc. Không chỉ vậy, động từ "sắm sửa, dập dìu" gợi không khí rộn ràng. Còn tính từ "gần xa", "nô nức" gợi tâm trạng phấn chấn của con người. Nguyễn Du đã mở ra trước mắt người đọc khung cảnh lễ hội thật rộn ràng, náo nức, vui tươi và những nghi thức mang tính truyền thống của người Việt.
Du xuân dù vui đến mấy cũng phải trở về. Những câu thơ cuối, tác giả đã miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về:
"Tà tà bóng ngả về tây,
....................
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang".
"Tà tà" đó là lúc chiều tà bóng ngả về Tây. Lúc đó, không gian hội đã hết, ngày đã tàn, cảnh chuyển động nhẹ nhàng, nên thơ không còn nhộn nhịp mà tất cả như đang nhạt dần. Từ láy "nao nao" thoáng gợi một nét buồn rầu khó hiểu. Cụm từ "thơ thẩn" gợi cảnh chị em Thúy Kiều ra về trong sự bần thần, tiếc nuối, buồn. Hành động "đan tay ra về" tưởng là vui mừng nhưng thực ra là chia sẻ nỗi buồn khó hiểu không thể nói hết. Vậy qua đây người đọc có thể cảm nhận được tâm hồn thiếu nữ nhạy cảm trong khung cảnh nhuốm màu tâm trạng.
Bằng việc sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, diễn tả tinh tế tâm trạng nhân vật, Nguyễn Du đã giúp cho người đọc cảm nhận được khung cảnh du xuân và lễ hội tháng ba thật đẹp. Qua đây làm nổi bật tài năng của tác giả trong việc miêu tả cảnh thiên nhiên và tâm trạng của con người.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 13
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới. Truyện Kiều là một kiệt tác của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Đây là tác phẩm có giá trị rất lớn về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” được trích ở phần 1: Gặp gỡ và đính ước, trong Truyện Kiều. Bằng những nét vẽ điêu luyện, tài tình, Nguyễn Du đã khắc họa chân thực và sống động vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Tuy mỗi người một vẻ nhưng ai cũng mang vẻ đẹp xưa nay hiếm có.
Mở đầu đoạn thơ, tác giả gợi tả vẻ đẹp chung của chị em Thúy Kiều. Nét phác thảo đơn sơ nhưng cũng đủ để làm hiện hình vẻ đẹp của hai tuyệt thế giai nhân:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Sau khi giới thiệu vai chị vai em, Nguyễn Du đi vào miêu tả. Bút pháp tả người của Nguyễn Du trước hết là bút pháp ước lệ tượng trưng thường gặp trong thơ cổ điển. Hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng “mai cốt cách tuyết tinh thần” được sử dụng tài tình để miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều. Cả hai chị em mang vóc dáng thanh cao, mảnh dẻ, yểu điệu, mềm mại như dáng mai. Suy nghĩ, tình cảm, tâm hồn trắng trong như tuyết. Hai người với hai vẻ đẹp khác nhau nhưng đều đẹp “mười phân vẹn mười”.
Tiếp sau đó, tác giả gợi tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh chọn lọc, từ ngữ tiêu biểu:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Câu thơ mở đầu giới thiệu khái quát được nhân vật bằng 4 chữ “trang trọng khác vời”, nói lên vẻ đẹp cao sang quí phái của Thuý Vân. Vẫn bằng bút pháp ước lệ tượng trưng với những hình ảnh quen thuộc nhưng khi tả Thúy Vân, tác giả có nhiều hướng tả cụ thể trong thủ pháp liệt kê cụ thể, trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật riêng, đối tượng miêu tả “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang”. Nguyễn Du còn sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá: khuôn trăng nét ngài hoa cười ngọc thốt mây thua tuyết nhường góp phần thể hiện vẻ đẹp phúc hậu cao quý của Thuý Vân. Khuôn mặt tròn trịa toả sáng đầy đặn như mặt trăng, lông mày sắc nét đậm như con ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong trẻo toát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái tóc đen óng nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết, tính cách nghiêm trang đứng đắn. Qua đó, Thuý Vân hiện lên là cô gái đoan trang phúc hậu. Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Thuý Vân tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh mây thua tuyết nhường , nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng suôn sẻ hạnh phúc.
Sau khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. Nếu Thuý Vân được giới thiệu qua 4 câu với vẻ đẹp cộng phẩm chất thì Thuý Kiều được miêu tả qua 12 câu. Đây là nghệ thuật đòn bẩy nhằm làm nổi bật nhân vật chính của tác giả:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một mai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.
Cũng như lúc tả Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật. Kiều sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình ảnh ước lệ ẩn dụ làn thu thuỷ nét xuân sơn (nước mùa thu, núi mùa xuân). Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi tả về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Điều đáng chú ý là khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt thể hiện phần hình ảnh của tâm hồn và trí tuệ. “Làn thu thuỷ” gợi lên vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. “Nét xuân sơn” gợi lên đôi lông mày thanh tú, mềm mại, tươi non trên gương mặt trẻ trung. Bằng hình ảnh nhân hoá “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, tác giả làm nổi bật dung nhan của Kiều đằm thắm khiến hoa phải ghen, dáng trẻ trung đầy sức sống khiến liễu phải hờn. Nàng có vẻ đẹp làm say đắm, chinh phục lòng người qua điển tích điển cố nghiêng nước nghiêng thành. Nàng quả là một trang tuyệt thế giai nhân nhưng nàng không chỉ đẹp mà còn rất đa tài:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên trương
Một thiên bạc mệnh lại càng lão nhân.
Nàng thông minh bẩm sinh, có tài làm thơ vẽ pha nghề ca hát đủ mùi, tài đàn ăn đứt, âm luật giỏi đến mức làu bậc, còn sáng tác nhạc “một thiên bạc mệnh” – chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sắc đa cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc tài và tình. Chân dung Thuý Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận vẻ đẹp của nàng làm cho tạo hoá phải ghen ghét vẻ đẹp của nàng hoa ghen liễu hờn nên số phận của nàng sẽ éo le đau khổ.
Bốn câu thơ cuối Nguyễn Du giới thiệu về cuộc sống của chị em Thuý Kiều tuy là khách hồng quần đẹp thế lại phong lưu rất mực, đã tới tuần cập kê nhưng cả hai vẫn sống một cuộc đời êm đềm trong khuôn phép gia giáo:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Đoạn thơ có âm điệu nhẹ nhàng tạo nên một cuộc sống yên vui êm ấm của những thiếu nữ phòng khuê.
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất đẹp nhất trong Thuý Kiều. Ngôn ngữ thơ điêu luyện, giàu cảm xúc, nét vẽ hàm súc gợi cảm, sử dụng biện pháp ẩn dụ nhân hoá để dựng lên bức chân dung sống động của hai chị em Thuý Kiều. Đáng quý là bức chân dung tuyệt vời ấy lại được dựng lên bằng tình yêu thương trân trọng đối với con người của tác giả.
Phân tích một đoạn trích tự chọn trong tác phẩm Truyện Kiều - Mẫu 14
Nguyễn Du (1765 - 1820), nhà thơ lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới, đã để lại cho đời kiệt tác "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi là "Truyện Kiều". Trong tác phẩm đồ sộ này, đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" nổi bật với nghệ thuật miêu tả tinh tế, tài hoa, góp phần làm sáng tỏ vẻ đẹp tài sắc của hai nhân vật Thúy Kiều và Thúy Vân.
Mở đầu đoạn trích "Chị em Thúy Kiều", bốn câu thơ như bản dạo nhạc nhẹ nhàng, dẫn dắt người đọc vào thế giới của hai thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa - Thúy Kiều và Thúy Vân. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã giới thiệu hai nhân vật một cách ấn tượng, đầy đủ và tinh tế.
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười
"Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân" - câu thơ đầu tiên giới thiệu hai nhân vật chính là hai người con gái đầu lòng của gia đình họ Vương. "Tố nga" là cách gọi những người phụ nữ xinh đẹp, thanh tao, như tiên nữ giáng trần. Ngay từ đầu, tác giả đã khẳng định vẻ đẹp ngoại hình xuất chúng của hai chị em.
Câu thơ tiếp theo xác định vị thứ của hai người: "Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân". Cách giới thiệu này tưởng chừng đơn giản nhưng lại tạo sự tò mò, thu hút người đọc, muốn khám phá thêm về hai nhân vật này. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ "mai" và "tuyết", Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung tinh tế về vẻ đẹp của hai chị em: "Mai cốt cách, tuyết tinh thần". "Mai" tượng trưng cho sự thanh tao, mảnh mai, "tuyết" tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết. Vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân không chỉ hoàn hảo về ngoại hình mà còn toát lên phẩm chất cao quý, thanh tao từ bên trong.
Câu thơ chốt lại khẳng định vẻ đẹp hoàn hảo của hai chị em: "Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười". Mỗi người sở hữu một nét đẹp riêng biệt, không ai giống ai, đều đạt đến mức độ "mười phân vẹn mười"
Tiếp nối bốn câu thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du dành bốn câu thơ tiếp theo để miêu tả riêng về vẻ đẹp của Thúy Vân. Bức chân dung Thúy Vân hiện lên trong thơ với những nét đẹp "trang trọng khác vời", đầy đặn, quý phái.
Vẻ đẹp của Thúy Vân được khái quát qua câu thơ đầu tiên: "Vân xem trang trọng khác vời". Hai từ "trang trọng" đã gợi lên vẻ đẹp cao sang, quý phái, đoan trang, khác biệt so với vẻ đẹp của Thúy Kiều. Vẻ đẹp của Vân không chỉ rực rỡ, kiều diễm mà còn toát lên sự thanh tao, nền nã.
Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh "trăng", "hoa", "tuyết", "ngọc", "mây" để miêu tả cụ thể từng bộ phận trên cơ thể Thúy Vân. Khuôn mặt Thúy Vân tròn trịa, phúc hậu như vầng trăng rằm, đôi mày thanh tú, đậm nét như con ngài. Nụ cười của Thúy Vân tươi tắn, rạng rỡ như hoa, giọng nói trong trẻo, thanh tao như tiếng ngọc. Mái tóc đen mượt của Thúy Vân óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Tác giả sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa một cách tinh tế để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Vân. So sánh: "Khuôn trăng đầy đặn", "nét ngài nở nang", "hoa cười", "ngọc thốt", "mây thua nước tóc", "tuyết nhường màu da". Nhân hóa: "mây thua", "tuyết nhường". Vẻ đẹp "trang trọng khác vời" của Thúy Vân không chỉ thể hiện ngoại hình mà còn ẩn dụ cho số phận của nhân vật. Hai chữ "thua" và "nhường" trong câu thơ "Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" cho thấy Thúy Vân sẽ có một cuộc sống bình yên, suôn sẻ, không gặp nhiều sóng gió. Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân là một bức tranh sinh động, đầy ấn tượng.
Nếu như Thúy Vân được miêu tả với bốn câu thơ đầy đặn, trọn vẹn về nhan sắc, thì Thúy Kiều lại được Nguyễn Du dành đến mười hai câu thơ để khắc họa. Bằng nghệ thuật đối lập tài tình, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" và tài năng "đủ mùi ca ngâm" của người con gái tài hoa bạc mệnh này.
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn"
Ngay từ câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã khẳng định vẻ đẹp vượt trội của Thúy Kiều so với Thúy Vân. "Sắc sảo mặn mà" thể hiện sự sắc sảo, tinh tế trong nhan sắc, cùng với đó là sự đằm thắm, mặn mà trong tâm hồn. Vẻ đẹp ấy khiến cho người ta say mê, ngưỡng mộ, thậm chí là ghen tị.
"Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
Bằng bút pháp ước lệ, tác giả so sánh đôi mắt Kiều với "làn thu thuỷ", "nét xuân sơn". Đôi mắt ấy long lanh, trong trẻo như nước mùa thu, lại thanh tú, sắc sảo như ngọn núi mùa xuân. Vẻ đẹp ấy khiến cho hoa phải ghen tức, liễu phải hờn kém.
"Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
Nguyễn Du khẳng định rằng, tài năng của Thúy Kiều là vô song, không ai có thể sánh bằng. Nàng thông minh bẩm sinh, am hiểu thi ca, hội họa, âm nhạc.
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương"
Nàng có thể sáng tác thơ ca, vẽ tranh, chơi đàn, ca hát. Tiếng đàn của Kiều "ăn đứt Hồ cầm một trương", thể hiện tài năng âm nhạc phi thường. Thậm chí, nàng còn có thể sáng tác nhạc phẩm "Bạc mệnh", thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm của mình. Vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" và tài năng "đủ mùi ca ngâm" của Thúy Kiều khiến cho thiên nhiên phải ghen tị, đố kỵ. Chính điều này đã báo hiệu cho số phận bi kịch, đầy sóng gió của nàng trong tương lai.
Từ việc khắc họa bức chân dung Thúy Kiều tác giả dự báo về số phận éo le, đau khổ, một tương lai chìm nổi sẽ đến với nàng. Mặc dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân khác nhau dự báo về tương lai cuộc sống khác nhau, nhưng đức hạnh của hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện qua bốn câu thơ cuối:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Mặc dù đã đến tuổi cập kê nhưng “hai ả tố nga’ đã và đang sống cuộc đời nề nếp, gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ phong khuê không hề có tình yêu thiếu đúng đắn.
Bằng tài năng nghệ thuật của mình, tác giả Nguyễn Du đã giúp chị em hình dung về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều với mỗi người một vẻ đẹp khác nhau. Thúy Vân thì toát lên vẻ đoan trang phúc hậu trong khi Thúy Kiều lại tài sắc vẹn toàn. Đồng thời qua việc miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ cũng dự báo trước số phận mà hai người con gái này sắp phải trải qua đặc biệt là số phận bấp bênh mà Kiều sắp phải trải qua.