Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị Ngữ văn 11 ,Cánh Diều gồm 1 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị
Đề bài: Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị.
Dàn ý Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị
1. Mở bài:
- Giới thiệu về bức tượng mẹ Thứ.
- Nằm trong khu tưởng niệm của tỉnh Quảng Nam.
2. Thân bài:
- Giới thiệu về mẹ Thứ:
Người mẹ Việt Nam anh hùng có 9 người con hi sinh trong hai cuộc kháng chiến.
Trong những năm đó, mẹ cũng đã nuôi giấu cán bộ, tích cực bám làng.
=> Mẹ Thứ là người mẹ đáng ngưỡng mộ, đáng vinh danh.
- Giới thiệu về bức tượng mẹ Thứ:
Gồm tượng có khuôn mặt mẹ ở chính giữa và những khuôn mặt khác ở hai bên.
Tượng chính cao 18,5m, được làm bằng đá sa thạch.
Những bức tượng xung quanh được làm bằng đá hoa cương, chạy dài khoảng 120m hình cánh cung.
Bức tượng mẹ được tạc vô cùng tỉ mỉ, thể hiện một bà mẹ vừa hiền dịu, vừa bất khuất kiên cường.
3. Kết bài:
- Khái quát lại về ý nghĩa của bức tượng đài
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 1
Tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, nằm một tượng đài vô cùng đặc biệt và ý nghĩa, đó là tượng đài Mẹ Thứ - một biểu tượng to lớn của lòng hy sinh và tình yêu quê hương.
Mẹ Thứ, hay còn gọi là Nguyễn Thị Thứ, là một người phụ nữ kiên cường và hết lòng với đất nước. Bà có 12 người con, trong đó có 11 người con trai và 1 người con gái. Trong hai cuộc kháng chiến quyết liệt của dân tộc, bà đã từng tiễn con cái mình ra chiến trường, hi sinh để bảo vệ tổ quốc. Trong số đó, có tới 9 người con trai của bà không bao giờ quay về. Không những hy sinh con cái cho quê hương, trong những năm chiến tranh khốc liệt, Mẹ Thứ luôn ở bên cạnh làng xóm, sản xuất và giúp đỡ các chiến sĩ, thậm chí còn che chở họ trong những ngày đen tối. Vườn nhà Mẹ Thứ còn có tới 5 căn hầm bí mật, nơi hàng trăm người chiến sĩ được bà chăm sóc và bảo vệ.
Vì những đóng góp vĩ đại của mình, Mẹ Thứ được tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng" từ Nhà nước. Sau khi Mẹ Thứ qua đời vào năm 2010, chính quyền quyết định xây dựng khu tượng đài Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng để tri ân không chỉ riêng Mẹ Thứ mà còn là tất cả những người mẹ dũng cảm khác của đất nước.
Khu tượng đài này nằm trên một khu đất rộng khoảng 15ha, với tượng đài chính cao tới 18,5m, được chạm từ đá sa thạch. Hai bên của tượng chính là những tượng khác tượng trưng cho những người con của Mẹ Thứ và những người mẹ Việt Nam khác. Tổng tượng đài này có chiều dài khoảng 120m, thể hiện sự kính trọng và tri ân đối với những đóng góp của những người mẹ anh hùng.
Chân dung Mẹ Thứ được tạo hình tỉ mỉ, với những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt và khuôn miệng, thể hiện sự kiên cường và tình cảm của người mẹ. Xung quanh bà là những tượng mặt người không rõ danh tính, có thể hiểu như là đại diện cho tất cả những người mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã hy sinh và đóng góp cho quê hương.
Tượng đài Mẹ Thứ không chỉ là một điểm du lịch nổi tiếng mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn và tôn vinh những người mẹ dũng cảm của Việt Nam. Nó là một lời nhắc nhở cho thế hệ hiện tại và tương lai không bao giờ quên những đóng góp to lớn và hy sinh của những người mẹ Việt Nam anh hùng.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 2
Van Gogh đã vẽ bức Đêm Đầy Sao (Starry Night) vào năm 1889, khi ông đang điều trị trong một trại tâm thần ở Saint Rémy. Điều thú vị là ông đã vẽ bức tranh này từ trí nhớ của mình, và khung cảnh trong tranh được cho là dựa theo bầu trời đêm của Provence. Starry Night có lẽ là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và có chiều sâu nhất của danh họa.
(Đêm Đầy Sao (Starry Night), 1889, tranh sơn dầu, Vincent van Gogh, MoMA, New York)
Điều đầu tiên tôi nhận thấy khi ngắm nhìn bức tranh này là bầu trời đêm choáng ngợp, chiếm gần hết hậu cảnh. Các đường xoáy tựa dòng chảy đang chuyển động nhẹ nhàng, dập dìu, dường như đang hợp nhất ở trung tâm tạo thành hình xoắn ốc. Mười một ngôi sao màu vàng rực rỡ trông giống như những quả cầu lửa khổng lồ, chiếu sáng toàn bộ khung cảnh. Chúng hoàn toàn tương phản với bầu trời đêm trong mát với nhiều sắc thái xanh lam và xám. Ngoài ra, ở góc trên cùng bên phải còn có vầng trăng lưỡi liềm đang tỏa ra ánh sáng màu cam đậm và còn sáng hơn so với các vì sao. Tầm nhìn ra bầu trời đêm và ngôi làng bị chặn một phần bởi cụm cây hoàng đàn khổng lồ phía trước. Bóng cây to lớn, màu xanh đen nổi bật hẳn so với tông màu nhẹ nhàng chủ đạo của tác phẩm. Những ngôi nhà nhỏ xíu được vẽ kín đáo ở góc dưới bên phải của bức tranh, như hòa với cảnh núi rừng. Kiến trúc của ngôi làng cổ kính, đơn sơ và không có ánh sáng chiếu vào ngôi làng, tạo cảm giác rằng tất cả mọi người ở đó có lẽ đang chìm trong giấc ngủ. Nhìn chung, nét vẽ của ông nặng, dày và có nhịp điệu dồn dập đầy dứt khoát. Vậy nên, tác phẩm tạo cho người thưởng tranh có ảo giác các nét cọ như đang liên tục chuyển động.
(Nét cọ trong bức họa Đêm Đầy Sao (Starry Night))
Việc Van Gogh vẽ bức tranh này dựa theo trí nhớ của mình đã giúp cho ta thấy phần nào về sự lệch lạc tinh thần và cường độ cảm xúc lớn của ông tại thời điểm đó. Người ta cảm thấy như thể danh họa đã khó có thể kiềm chế cảm xúc của mình, rằng tất cả nỗi tức giận và niềm đam mê của ông đã bao trùm toàn bộ tác phẩm. Mặt trăng và các ngôi sao lớn đến nỗi dường như cả bầu trời đêm sắp sụp xuống. Cây hoàng đàn, một loại cây có hình tượng kín đáo, trang trọng và tang tóc, có vẻ như nham hiểm khi chắn tầm nhìn của chúng ta ngay trước bức tranh. Cứ như thể Van Gogh đang tự tạo ra một thực tại của riêng mình. Ông chọn cách nhấn mạnh những vật thể mà mình cảm thấy là quan trọng, mặc kệ điều đó sẽ dẫn đến việc các góc nhìn bị bóp méo.
Bức tranh như sục sôi sự sống nhờ những nét vẽ tạo ấn tượng về sự chuyển động. Đặc biệt, bầu trời đêm dường như chính là nguồn sống của tác phẩm, nhờ sự năng động bùng nổ. Có vẻ như các thiên hà đang chuyển động và các vì sao sẽ lao vào thị trấn bình yên này bất cứ lúc nào. Các ngôi sao và bầu trời tạo nên một cảm xúc mãnh liệt với nhiều nét vẽ và màu sắc khác nhau, tất cả hòa vào nhau tạo thành một màn sương tựa như hình xoắn ốc ở trung tâm tác phẩm.
Mặt khác, cây hoàng đàn phần nào làm giảm bớt hiệu ứng chói lóa của bầu trời đêm với những chiếc lá sẫm màu, quằn quại vươn lên ở phía bên trái của bức tranh. Thân cây trông rắn rỏi và dường như nhàm chán so với phần còn lại. Nó làm xáo trộn toàn bộ trạng thái cân bằng của một đêm đầy sao, cảnh tượng mà đáng lẽ ra sẽ được khắc họa một cách đầy huyền diệu và trọn vẹn. Dondis từng nói rằng mắt người thường ưu tiên khu vực phía dưới bên trái của bất kỳ trường thị giác nào và có vẻ như Van Gogh đã cố ý vẽ bụi cây hoàng đàn ở vị trí nổi bật ấy. Có thể giải thích rằng bụi cây là đại diện cho nỗi thống khổ bên trong mà danh họa đang phải trải qua vào thời điểm đó. Sự hỗn loạn mà ông ấy đang trải qua có thể đã làm hao kiệt thứ khát vọng sống trong ông.
Bên cạnh đó, những ngôi nhà nhỏ có vẻ khá yên tĩnh. Tất cả các đèn đều đã tắt và mọi người hẳn đang say ngủ. Không ai để ý đến bầu trời đêm đang bừng lên sức sống và bụi cây hoàng đàn đang quằn quại. Điều đó lột tả sự xa lánh và hiểu lầm mà danh họa phải chịu đựng. Tôi cảm thấy rằng ngôi làng đang say giấc đại diện cho phần còn lại của thế giới, những con người không biết về những đam mê cuồng nhiệt và nỗi thống khổ mà Van Gogh đang phải trải qua. Có lẽ ấy là lý do tại sao những ngôi nhà trông như ở rất xa mặc dù chúng thực sự khá gần.
Giải thích của tôi chỉ là một trong số rất nhiều cảm nhận của những người thường thức nghệ thuật khác về Đêm Đầy Sao. Đây vẫn sẽ luôn là một tác phẩm khó nắm bắt đối với các nhà phê bình nghệ thuật cũng như các sinh viên. Bởi vì chẳng một ai thực sự biết ý định của Van Gogh về bức tranh đây. Mọi người dường như đang sử dụng các mật mã khác nhau để giải mã những gì Van Gogh đang cố gắng thể hiện .Có nhà phê bình cho rằng đây là một tác phẩm tôn giáo, mô tả một câu chuyện trong Kinh thánh. Trong sách Sáng thế ký, Joseph có một giấc mơ về mười một ngôi sao, mặt trời và mặt trăng (mặt trăng và mặt trời dường như được kết hợp với nhau ở đây), tượng trưng cho anh em và cha mẹ của mình, đang cúi đầu trước ngài. Một học giả khác cho rằng bức tranh này thể hiện sự hội tụ thiên văn, vì thực tế là vào thời ấy, có một hiện tượng thiên văn rất nổi tiếng. Khi đó, những người yêu thích thiên văn học và chiêm tinh học như Jules Verne đã sáng tác nhiều tác phẩm về du hành lên mặt trăng. Đối với tôi, tôi luôn có một ý nghĩ đa cảm này về Van Gogh, rằng tôi thấy ông như một nghệ sĩ bi kịch, đầy nỗi đau khổ, là người thực sự muốn làm rất nhiều điều cho nhân loại (ông đã từng là một nhà truyền giáo) nhưng liên tục bị xã hội khước từ. Bức tranh này đã truyền đạt đến tôi thứ tình yêu mà ông dành cho những tạo phẩm tuyệt đẹp của Chúa. Ấy thế mà, tôi cũng cảm nhận được một cảm giác cô đơn rõ rệt, như thể không ai có cái nhìn về thế giới như cách mà ông đã thấy.
Tất nhiên, để hiểu rõ hơn phong cách vẽ của danh họa trong Đêm Đầy Sao, chúng ta phải nhìn vào toàn cảnh. Vincent Van Gogh là một trong những nghệ sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng vĩ đại, cùng với những cá nhân như Cézanne và Gauguin. Trường phái Hậu ấn tượng về cơ bản là một phản ứng chống lại chủ nghĩa ấn tượng, vốn thể hiện niềm tin rằng nghệ thuật nên phản ánh chính xác hiện thực bằng màu sắc và ánh sáng tự nhiên. Những người theo trường phái Hậu ấn tượng tin rằng nghệ thuật không phải để bắt chước hình thức, mà là để tạo ra hình thức. Có nghĩa là, các nghệ sĩ thời kỳ này đã có một cái nhìn chủ quan về thế giới thị giác và vẽ về thế giới của họ, theo nhận thức nghệ thuật của riêng mình. Như chính Van Gogh đã nói, “Chúng ta có thể thành công hơn trong việc tạo ra một bản chất thú vị và thoải mái so với những gì chúng ta có thể nhận ra chỉ bằng một cái nhìn thoáng qua về thực tại”. Đó là lý do tại sao các nghệ sĩ theo trường phái Hậu ấn tượng không có phong cách cố định – các tác phẩm của họ phản ánh cá tính và nhận thức độc đáo của mỗi cá nhân.
Trong trường hợp của Van Gogh, các tác phẩm của ông dường như phản ánh một cường độ cảm xúc lớn, giống như trong Starry Night. Ông ấy từng nói với anh trai Theo rằng, thay vì sử dụng màu sắc một cách chuẩn xác, ông muốn sử dụng chúng “tùy tiện hơn để thể hiện bản thân một cách gượng ép hơn”. Đặc biệt, ông thích vẽ phong cảnh phản ánh cảm xúc và tâm hồn của chính mình. Theo một cách nào đó, ông có cảm giác được giải phóng khi vượt ra ngoài ranh giới của nghệ thuật truyền thống. Đêm Đầy Sao là hiện thân của phong cách và lối thể hiện độc đáo của Van Gogh. Và thế đấy, những tác phẩm như thế đã gây sức ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật hiện đại ngày nay.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 3
Có vô vàn những bức tượng nổi tiếng và kì vĩ trên thế giới. Ở Việt Nam cũng có một bức tượng đồ sộ, mang đầy ý nghĩa nhân văn. Đó chính là tượng đài mẹ Thứ nằm ở Thành phố Tam Kì, tỉnh Quảng Nam.
Mẹ Thứ tên thật là Nguyễn Thị Thứ. Mẹ có 12 người con, 11 trai và 1 gái. Trong hai cuộc kháng chiến khốc liệt của nhân dân ta, mẹ đã lần lượt tiễn những người con của mình đi chiến đấu bảo vệ đất nước. Trong số đó, có 9 người con trai đã không bao giờ trở về nữa. Không chỉ hi sinh những đứa con cho Tổ quốc mà trong chiến tranh, mẹ luôn bám trụ cùng xóm làng, vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ. Vườn nhà mẹ có đến 5 căn hầm bí mật. Hàng trăm người chiến sĩ đã được gia đình mẹ chăm sóc, che chở trong những năm đó. Vì những đóng góp quá đỗi lớn lao của mình, mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Mẹ Việt Nam anh hùng".
Năm 2010, mẹ Thứ mất, Nhà nước quyết định cho xây dựng quần thể tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tri ân mẹ Thứ nói riêng và những người mẹ khác nói chung. Công trình này được xây dựng trên một vùng đất có quy mô lên khoảng 15ha, khối tượng tạc chân dung mẹ Thứ cao lên đến 18,5m, được làm bằng đá sa thạch. Hai bên tượng chính của mẹ là những khối tượng khác tạc hình mặt người bằng đá hoa cương. Tổng bức tượng hình cánh cung này chạy dài khoảng 120m Đây thực sự là một bức tượng đài to lớn, kì vĩ như chính những công ơn to lớn của mẹ dành cho Đất nước.
Chân dung mẹ Thứ được khắc họa với đôi mắt hiền từ, đôi môi móm mém do tuổi già. Những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt, khuôn miệng cũng được tạc vô cùng tỉ mỉ. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật hiền dịu nhưng cũng rất kiên cường mạnh mẽ. Xung quanh mẹ là những gương mặt khác không rõ tên tuổi giới tính. Đó có thể là đại diện cho những người con của mẹ, cũng có thể đại diện cho những gương mặt mẹ Việt Nam khác.
Không chỉ là một địa điểm du lịch nổi tiếng, bức tượng đài mẹ Thứ còn là một công trình tri ân đầy ý nghĩa. Bức tượng vừa dành tặng cho thế hệ đi trước, vừa để nhắc nhở con cháu sau này không được quên những công lao, đóng góp to lớn mà thầm lặng của những người mẹ Việt Nam anh hùng.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 4
Trong danh sách những bức tranh nổi tiếng nhất thế giới, ta bắt gặp rất nhiều những cái tên nổi tiếng như Leonardo da Vinci, Vincent van Gogh hay Pablo Picasso. Trong số đó có Johannes Vermeer - một họa sĩ bí ẩn nổi tiếng với bức tranh "Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai" (The Girl with The Pearl Earring).
Có rất ít thông tin về Johannes Vermeer. Mọi người chỉ biết ông là một họa sĩ sống ở thế kỉ 17 tại thị trấn Delft, Hà Lan. Trong suốt cuộc đời mình, ông không vẽ nhiều. Đến nay, chỉ có khoảng 35 bức tranh được xác nhận là của Vermeer. Tranh ông thường vẽ về chân dung con người trong không gian bé nhỏ, thường là một căn phòng. Từng món đồ trong phòng hay đường nét trên cơ thể con người được ông thể hiện rất rõ ràng, tỉ mỉ. Con người hiện lên trong tranh Vermeer đều mang một nét bí ẩn, trầm mặc nhờ thủ pháp mô tả ánh sáng bậc thầy. Những mảng sáng, tối được chuyển giao rất nhịp nhàng, bên cạnh lớp ánh sáng dịu nhẹ là góc tối trầm lặng, tạo chiều sâu cho bức tranh. Ngoài ra, Vermeer luôn sử dụng những thứ màu đắt đỏ để tạo nên sự phản chiếu ánh sáng trong bức tranh, tạo ra cảm giác chân thật, sống động cho người thưởng thức tác phẩm.
Bức tranh "Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai" là tác phẩm nổi tiếng nhất của Johannes Vermeer. Ông vẽ một thiếu nữ đang ngoái nhìn về phía mình. Dưới phông nền đen, làn da trắng sứ của cô gái cùng khăn turban xanh đội đầu như phát sáng. Có thể nhận thấy, đây là cô gái cực kì xinh đẹp với đôi mắt to, tròn, xám nhạt, chiếc mũi cao thanh thoát và khuôn miệng nhỏ nhắn đang hé mở. Những đường nét hài hòa trên khuôn mặt cô gái khiến ta cảm giác như đang xem một tấm hình chứ không phải một bức tranh. Đặc biệt, đôi mắt của cô gái mang theo nhiều suy tư ám ảnh người xem. Đôi mắt xám đen sáng trong đại diện cho sự thông minh, trí tuệ mà không kém phần mơ màng, chất chứa đầy những khao khát không tên. Chính vì điều này, tác phẩm "Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai" đã được so sánh với bức tranh "Mona Lisa" của Leonardo da Vinci và được mệnh danh là "Nàng Mona Lisa phương Bắc"
Điểm nhấn của tác phẩm này vẫn là cách đánh sáng tối hài hòa khiến người xem cảm giác như cô gái ấy có thực, đang quay sang ngắm nhìn mình chứ không chỉ là một bức tranh. Ngoài ra, đôi bông tai bằng viên ngọc trai to tròn cũng được nhấn sáng lấp lánh. Bức tranh có sự tương phản nhẹ nhàng giữ màu xanh của khăn turban với màu vàng của vải quấn tóc và vai áo. Và màu xanh của chiếc khăn đã thực sự tô điểm cho bức tranh thêm phần rực rỡ hơn.
Bức tranh "Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai" có một sức sống riêng cực kì mãnh liệt. Không những nổi tiếng, nó còn là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm nghệ thuật khác. Một tiểu thuyết cùng tên đã ra đời dựa trên bức tranh này. Trong cuốn tiểu thuyết đó, cô gái trong bức tranh tên là Griet, là một người hầu được Johannes Vermeer thuê về để làm mẫu vẽ tranh. Sau đó, người họa sĩ và cô gái này đã có tình cảm với nhau. Năm 2003, một bộ phim điện ảnh về tiểu thuyết này ra đời.
Ngày nay, bức vẽ này đang được trưng bày và bảo quản tại Bảo tàng Hoàng Gia Moritz, Hà Lan. Sau hàng thế kỉ, "Thiếu nữ đeo hoa ngọc trai" vẫn được mình chọn là một trong số những bức tranh đẹp và nổi tiếng nhất thế giới.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 5
Khi nói về những tác phẩm hội họa nổi tiếng nhất Việt Nam thế kỉ XX, không thể không nhắc đến “Thiếu nữ bên hoa huệ” của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Đã 80 năm kể từ khi tác phẩm ra đời nhưng đây vẫn được coi là kiệt tác nghệ thuật, mang đến hơi thở mới cho nền mỹ thuật nước nhà.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân sinh ra và lớn lên tại thành phố Hà Nội. Xuất thân từ một gia đình nghèo khó, Tô Ngọc Vân phải nỗ lực rất nhiều để phát triển niềm đam mê hội họa. Tô Ngọc Vân khao khát mang vẻ đẹp đa dạng của đất nước, con người Việt Nam vào trong những bức tranh, Họa sĩ mơ ước “xây dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự lan tràn của hội họa Pháp sang ta và để giành một địa vị mỹ thuật trọng yếu cho dân tộc trên thế giới”.
“Thiếu nữ bên hoa huệ” được Tô Ngọc Vân vẽ vào năm 1943 khi ông đang làm công tác giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nguyên mẫu của cô gái trong bức tranh là cô Sáu – một người mẫu từng xuất hiện trong tranh của nhiều họa sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị,…
Bức tranh miêu tả hình ảnh một thiếu nữ mặc tà áo dài trắng, nghiêng đầu về phía lọ hoa huệ. Theo quan niệm của Cơ đốc giáo, hoa huệ là biểu tượng cho sự trong trắng, đức hạnh, thanh cao. Sự nở nộ của những bông hoa, vẻ duyên dáng của người thiếu nữ kết hợp một cách hài hòa, tạo nên hơi thở vừa truyền thống lại vừa tân thời. Gò má người con gái phảng phất sắc hồng, đôi mắt sâu thăm thẳm như chứa đựng nỗi suy tư, trầm buồn. Tác phẩm có bố cục chặt chẽ. Hình ảnh cô gái kề sát đầu bên hoa, một tay nâng bông hoa, một tay khẽ chạm vào mái tóc tạo nên sự liên kết giữa các đối tượng trong tranh. Ngoài sắc trắng chủ đạo, Tô Ngọc Vân còn sử dụng những màu sắc trang nhã như xanh dương, vàng, xanh lá. Có thể thấy từ chất liệu, đường nét, màu sắc đến bố cục của tranh đều vô cùng hoàn hảo. Không chỉ hấp dẫn về hình thức biểu hiện, “Thiếu nữ bên hoa huệ” còn chứa đựng giá trị tinh thần quý báu. Tác phẩm đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp đài các, nền nã của người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài truyền thống để từ đó, ngợi ca con người và đất nước Việt Nam.
Sức hấp dẫn của bức tranh là điều không phải bàn cãi. Từ khi ra mắt, “Thiếu nữ bên hoa huệ” đã được khán giả trong và ngoài nước yêu thích. Có nhiều người ngỏ lời mua tranh nhưng tác giả không bán. Về sau, số phận của bức tranh cũng trở nên vô cùng lận đận. Ban đầu, bức tranh được treo tại nhà riêng của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Do chiến tranh, cả gia đình tác giả phải đi tản cư. Đến khi hòa bình lập lại, bức tranh đã trở thành vật sở hữu của một người khác. Sau đó, tác phẩm lại nhiều lần đổi chủ. Hiện nay, đa số những “Thiếu nữ bên hoa huệ” mà công chúng có dịp chiêm ngưỡng đều chỉ là tranh chép. Đây quả thực là một điều đáng phẩm cho một tác phẩm nghệ thuật có một không hai của nước nhà.
“Thiếu nữ bên hoa huệ” là sự kết hợp tinh tế giữa cốt cách Á Đông với sự tân kì của mỹ thuật phương Tây. Sức sống của tác phẩm quả thực đã vượt ra khỏi chiếc khung kính trang nghiêm để đến với lớp lớp thế hệ con người yêu hội họa.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 6
Leonardo Da Vinci đã thực hiện một tác phẩm có tính chất hoàn toàn khác biệt so với các tác phẩm khác của ông, đó chính là bức tranh “Mona Lisa” nổi tiếng.
“Mona Lisa”, viết tắt của Madonna Lis, là một bức chân dung với nguyên mẫu là người vợ của một thương gia người Pháp – Francesco di Bartolomeo del Giocondo, vì vậy nó còn được gọi là “Phu nhân Giocondo” (La Gioconda). Người phụ nữ trong bức tranh mặc trang phục thời trang của Florence, ngồi khoanh tay thanh lịch và tao nhã trong khung cảnh do Da Vinci tưởng tượng. Cô nhìn thẳng vào khán giả với một nụ cười nhẹ cùng với đôi mắt sâu thẳm. Nhà phê bình nghệ thuật Vasari đã mô tả đây là nụ cười bí ẩn “phi nhân thế”. Trên thực tế, nụ cười này đã gây nhầm lẫn cho nhiều nhà phê bình nghệ thuật và sử gia trong nhiều thế kỷ. Những ai yêu thích thể loại tranh chân dung đều biết có vô vàn cách biểu hiện mặt mũi trong tranh nhưng cái cách mà nàng Lisa dịu dàng, đằm thắm, đầy nữ tính với cái nhìn tinh tế như thấu tận tâm can của mỗi người xem thì cực hiếm trong thể loại này. Đó chính là cái thần ít khi có được. Ngay cả với họa sĩ lớn cũng chỉ khi nào họ thăng hoa mới có thể xuất thần mà vẽ có thần.
Đa số các họa sĩ khi vẽ chân dung sẽ chọn nền là bức tường hay phông vải cho đơn giản để tập trung giải quyết mặt (là trọng tâm và khó hơn nhiều). Cái khó là nếu cảnh xấu thì tranh thêm dở mà cảnh đẹp thì sẽ làm mất tập trung vào chân dung. Quả thật, trong suốt chiều dài của Lịch sử Mỹ thuật, rất hiếm họa sĩ cả gan vẽ thêm phong cảnh làm nền cho chân dung mà tranh vẫn thành kiệt tác. Số người thành công kiểu này chỉ đếm trên đầu ngón tay và lại đều xếp sau bậc kỳ tài Leonardo.
Soi vào tranh, ta thấy ông dám liều chơi rất khó: chọn bối cảnh rộng bát ngát với trời mây, núi non, đường mòn, sông suối, cầu cống, cây cỏ… bao la, phức tạp và tinh tế. Tất cả đều đậm hoặc sáng vừa phải, lại có sắc màu ngả lạnh để đẩy ra thật xa và nhường ưu tiên cho nhân vật ở phía trước. Tác giả đã phát minh ra kỹ thuật sfumato, nghĩa là làm mờ- dịu- trong trẻo các ranh giới. Chính kỹ thuật này đã khiến ông vẽ được cả những thứ mà phần lớn các họa sĩ không vẽ được: độ dày của bầu không khí mờ ảo man mác mà người xem cảm giác được từ sau lưng nhân vật đến tận núi non đằng xa. Về điểm này thì một số họa sĩ ta có vẽ cảnh làm nền cho chân dung nhưng hoặc là họ nhằm hiệu quả khác, hoặc họ chỉ đạt hiệu quả như phông nền vẽ giả trong tiệm ảnh để chụp kiểu đánh lừa mắt: cảnh phẳng lừ, bẹp dí, không có thứ tự lớp lang, không có độ dày không khí giữa nhân vật và phong cảnh.
Sau 5 thế kỷ, chỉ với bức tranh nhỏ này, vinh quang của tác giả đã lên tới tột đỉnh. Đây là bức tranh đắt giá nhất, được bảo vệ kỹ lưỡng nhất và đông người xem nhất thế giới. Thị phi càng nhiều thì lại càng như thêu dệt thêm cho Mona Lisa trở thành huyền thoại.
Tranh góp phần tạo ra nguồn du lịch lớn lao cho nước Pháp và gián tiếp làm ra lợi nhuận không kém gì một nhà máy loại lớn nhất. Về mặt chuyên môn, danh họa Leonardo da Vinci để lại cho hậu thế một số bài học kỹ thuật kỳ diệu như hiệu quả và độ bền 5 thế kỷ của chất sơn tự chế, sự đột phá khi dám tả cảnh thiên nhiên làm nền cho chân dung, quái chiêu tạo ra các ảo giác… và trên hết, các khán giả đến xem tranh mà không biết rằng: ngược lại, chính họ luôn bị nhân vật nhìn như thấu vào tâm can bằng một cái nhìn lúc nào cũng dịu dàng, đằm thắm.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 7
Pho tượng là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, có khả năng gợi lên những suy tư và cảm xúc sâu sắc trong lòng người nhìn. Với em, có một pho tượng mà em luôn cho rằng có giá trị đặc biệt, và đó chính là tượng Đức Phật Thích Ca.
Tượng Đức Phật Thích Ca là biểu tượng của lòng nhân ái và sự giác ngộ. Vẻ đẹp của tượng này không chỉ nằm ở hình dáng nghệ thuật hoàn hảo mà còn nằm ở thông điệp mà nó mang lại. Bức tượng thường miêu tả Đức Phật đang ngồi thiền định, với đôi mắt đầy tỏa sáng và nụ cười nhẹ trên môi. Đôi tay của Ngài thường được đặt trong tư thế gắn liền với sự bình an và sự tỏa sáng của tâm hồn.
Sự tĩnh lặng và thanh thản của tượng Đức Phật Thích Ca luôn khiến em cảm thấy yên bình và an tâm mỗi khi nhìn thấy nó. Tượng này luôn nhắc nhở em về tinh thần khoan dung, lòng nhân ái và tình thương thường mà Đức Phật đã dạy. Nó giúp em nhớ rằng trong cuộc sống hối hả, chúng ta nên luôn giữ tâm hồn bình yên và tươi sáng, và chia sẻ tình thương và lòng khoan dung với mọi người.
Vẻ đẹp của tượng Đức Phật Thích Ca nằm trong sự tinh tế và sâu sắc của nó, không chỉ trong việc tạo hình mà còn trong cảm xúc mà nó gợi lên trong tâm hồn của người nhìn. Nó là một biểu tượng của tình thương và lòng hiếu kỳ, và luôn đánh thức trong em sự tôn trọng và kính trọng về đạo Phật.
Với những giá trị về tâm hồn và triết lý mà nó mang lại, tượng Đức Phật Thích Ca không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là một nguồn cảm hứng và sự truyền cảm động vô cùng quý báu đối với em. Nó đã và đang góp phần làm cho cuộc sống của em trở nên ý nghĩa hơn, và em tin rằng giá trị của nó sẽ còn tiếp tục tồn tại và lan tỏa trong thời gian dài.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 8
Trong danh sách những tác phẩm hội họa nổi tiếng nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20, không thể không nhắc đến "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Đã 80 năm trôi qua kể từ khi tác phẩm này ra đời, nhưng nó vẫn được xem là một kiệt tác nghệ thuật, mang sự tươi mới cho mỹ thuật của đất nước.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân sinh ra và lớn lên tại thành phố Hà Nội. Hắn từ một gia đình nghèo, nhưng đã cống hiến rất nhiều để theo đuổi đam mê hội họa của mình. Tô Ngọc Vân luôn khao khát lưu giữ vẻ đẹp đa dạng của Việt Nam, nét đẹp của con người và đất nước trong các bức tranh của mình. Họa sĩ ấy mong muốn "xây dựng một nền hội họa Việt Nam có đặc điểm dân tộc, phản ứng lại sự ảnh hưởng của mỹ thuật Pháp và giành một vị trí quan trọng trong cộng đồng mỹ thuật toàn cầu".
Tác phẩm "Thiếu nữ bên hoa huệ" được Tô Ngọc Vân vẽ vào năm 1943, khi ông đang giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Cô gái trong bức tranh, cô Sáu, là nguồn cảm hứng, và cô này đã xuất hiện trong các tác phẩm của nhiều họa sĩ nổi tiếng như Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn và Lương Xuân Nhị.
Bức tranh miêu tả một thiếu nữ mặc tà áo dài trắng nghiêng đầu về phía hoa huệ. Sử dụng hoa huệ như biểu tượng cho sự trong trắng, đức hạnh, và thanh cao. Hình ảnh sự nở nộ của hoa kết hợp hoàn hảo với vẻ đẹp duyên dáng của người con gái, tạo nên sự hòa quyện giữa truyền thống và hiện đại. Bức tranh đã vẽ lên nét đẹp của phụ nữ Việt Nam trong chiếc áo dài truyền thống, tỏa sáng qua các biểu hiện tinh tế. Tác phẩm này còn thể hiện sự đoàn kết giữa các đối tượng trong bức tranh qua bố cục chặt chẽ. Mọi thứ - chất liệu, đường nét, và màu sắc - được thiết kế một cách hoàn hảo. "Thiếu nữ bên hoa huệ" không chỉ hấp dẫn về mặt thẩm mỹ, mà còn mang giá trị tinh thần quý báu. Tác phẩm này đã tôn vinh vẻ đẹp và tinh thần của phụ nữ Việt Nam trong áo dài truyền thống và từ đó kính trọng con người và đất nước Việt Nam.
Tác phẩm này ngay từ khi ra mắt đã được yêu thích bởi khán giả trong và ngoài nước. Nhiều người đã mong muốn mua nó, nhưng họa sĩ không bán. Bức tranh này đã trải qua nhiều biến cố trong số phận của nó. Ban đầu, nó được treo tại nhà riêng của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Tuy nhiên, do chiến tranh, cả gia đình ông phải sơ tán, và bức tranh đã chuyển chủ nhân. Sau này, nó lại được đổi chủ nhiều lần. Hiện tại, hầu hết các phiên bản của "Thiếu nữ bên hoa huệ" mà công chúng thấy đều là bản sao. Điều này thể hiện sự độc nhất vô nhị của tác phẩm nghệ thuật của Việt Nam.
"Thiếu nữ bên hoa huệ" là một sự kết hợp tuyệt vời giữa yếu tố Á Đông và sự sáng tạo hiện đại của mỹ thuật phương Tây. Tác phẩm này đã vượt qua giới hạn của một bức tranh để trở thành một biểu tượng, vượt ra ngoài khung tranh để đến với thế hệ người hâm mộ nghệ thuật.
Trình bày suy nghĩ về vẻ đẹp của một bức tranh hoặc pho tượng mà em cho là có giá trị - Mẫu 9
Vẻ đẹp của một pho tượng có thể mang đến một trải nghiệm tinh thần đầy ấn tượng và sâu sắc. Tượng là một dạng nghệ thuật truyền thống, và nó có thể gợi lên những suy tư và cảm xúc mạnh mẽ trong trái tim của mỗi người ngắm nhìn.
Một pho tượng có giá trị thường không chỉ đơn giản là một khối đá hay kim loại được tạo hình thành hình dạng nghệ thuật, mà nó còn mang theo những thông điệp tinh tế và ý nghĩa sâu xa. Ví dụ, tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong nghệ thuật Phật giáo thường thể hiện sự thanh thản, tĩnh lặng và lòng từ bi. Những tượng này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng của sự giác ngộ và lòng nhân ái.
Vẻ đẹp của một tượng còn phản ánh sự sáng tạo và khả năng của con người trong việc thể hiện ý tưởng và cảm xúc thông qua nghệ thuật. Những tượng nghệ thuật xuất sắc thường đòi hỏi sự khéo léo và tài năng của người nghệ sĩ để có thể tạo ra những tác phẩm độc đáo và đầy sức hút.
Tượng cũng có thể là một biểu tượng văn hóa, lịch sử hoặc tôn giáo quan trọng. Chúng có thể kể lên câu chuyện của một thời kỳ hoặc sự kiện quan trọng trong lịch sử, hoặc thể hiện các giá trị tôn giáo và tâm linh của một cộng đồng.
Ngoài ra, vẻ đẹp của một pho tượng còn nằm ở khả năng nó kích thích trí tưởng tượng và thúc đẩy suy nghĩ. Người ta có thể dừng lại trước một tượng và suy tư về ý nghĩa của nó, hoặc cảm nhận được sự sâu lắng trong từng đường nét và chi tiết của tác phẩm.
Tóm lại, vẻ đẹp của một pho tượng không chỉ nằm ở hình dáng bên ngoài mà còn ở sâu bên trong, trong thông điệp và ý nghĩa mà nó mang lại. Nó là một hình thức nghệ thuật đầy giá trị và sức mạnh để gợi lên những cảm xúc và suy tư sâu sắc, và là một phần quan trọng của di sản văn hóa và nghệ thuật của nhân loại.