TOP 7 bài Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta 2024 SIÊU HAY

Tải xuống 13 1.2 K 0

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 7 bài văn mẫu Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta hay nhất, gồm 13 trang trong đó có dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và 7 bài văn mẫu phân tích hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH TINH THẦN YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA

Bài giảng: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta

Phân tích tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 1

Bằng những dẫn chứng cụ thể, phong phú, giàu sức thuyết phục trong lịch sử dân tộc và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bài văn “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.

Mở đầu bài viết, Hồ Chí Minh đã nêu ra nhận định chung về tinh thần yêu nước: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ”. Cùng với đó, Bác đã sử dụng hình ảnh giàu tính biểu tượng: “Tinh thần yêu nước ấy kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nõ lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Các động từ mạnh như “lướt qua, nhấn chìm” và biện pháp tu từ so sánh “tinh thần yêu nước” với “một làn sóng” cho thấy sức mạnh và khí thế của lòng yêu nước.

Tiếp đến, Bác đã chứng minh truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam qua những biểu hiện cụ thể. Những dẫn chứng được Bác đưa ra từ quá khứ đến hiện tại, vừa sinh động lại vừa bao quát. Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... Bác liệt kê các vị anh hùng tiêu biểu trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, để từ đó nhắc nhở con cháu phải ghi nhớ công lao, ơn nghĩa đó. Cách chuyển đoạn sau đó “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” đã thể hiện sự tinh tế, khéo léo của người viết. Bác tiếp tục đưa ra các dẫn chứng: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Ở đây, Bác đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê kết hợp với mô hình liên kết “từ… đến” nhằm làm tăng hiệu quả cho sự diễn đạt. Tinh thần yêu nước giống như làn sóng nối tiếp nhau, lớp sau mạnh mẽ hơn lớp trước.

Cuối cùng, Bác khẳng định nhiệm vụ của nhân dân ngày hôm nay đó là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến. Cách so sánh “ Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm” giàu giá trị biểu cảm. Tinh thần yêu nước là “một món đồ quý giá”, cần được bảo vệ, giữ gìn và phát huy.

Bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” giàu tính thuyết phục. Như vậy, tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, rất cần được giữ gìn và phát huy.

Sơ đồ tư duy

Phân tích tác phẩm Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Ôn Thi HSG

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh, tác phẩm Tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

II. Thân bài

1. Nhận định chung về lòng yêu nước

- Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, nồng nàn, chân thành và luôn sục sôi.

- Tinh thần yêu nước ấy kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nõ lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước.

=> Gợi sức mạnh và khí thế mạnh mẽ của lòng yêu nước.

2. Những biểu hiện của lòng yêu nước

- Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,…

- Lòng yêu nước ngày nay của nhân dân ta:

  • Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng, trẻ thơ…ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc.
  • Những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc.
  • Những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội.
  • Những phụ nữ khuyên chồng tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải.
  • Nam nữ nông dân và công nhân hăng hái tăng gia sản xuất.
  • Những đồng bào điền chủ quyên ruộng cho Chính phủ….

=> Tất cả những việc làm đó đều xuất phát từ lòng yêu nước.

3. Nhiệm vụ của nhân dân

- Phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.

=> Cần phải thể hiện lòng yêu nước bằng những việc làm cụ thể.

III. Kết bài

Đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Các bài mẫu khác:

Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 2

Bằng những dẫn chứng cụ thể, phong phú, giàu sức thuyết phục trong lịch sử dân tộc và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”, Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.

Mở đầu bài viết, Bác Hồ đã đưa ra một lời nhận định, cũng là luận điểm của toàn văn bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ”. Đó chính là lời khẳng định về truyền thống yêu nước tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Bác đã sử dụng hàng loạt các động từ mạnh như “lướt qua, nhấn chìm” cùng với hình ảnh so sánh “tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ” nhằm g ợi sức mạnh và khí thế mạnh mẽ của lòng yêu nước.

Những câu văn tiếp theo, Bác đã chứng minh cho luận điểm của mình bằng những dẫn chứng cụ thể. Bề dày của truyền thống yêu nước được thể hiện từ trong quá khứ đến hiện tại. Nếu trong quá khứ, ở bất cứ triều đại nào cũng có những bậc anh hùng như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung… đứng lên lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập. Thì ở hiện đại, Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cách chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” thật khéo léo. Và dẫn chứng thì hoàn toàn thuyết phục: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê kết hợp với mô hình liên kết “từ… đến” nhằm làm tăng hiệu quả cho sự diễn đạt. Tinh thần yêu nước tồn tại trong mỗi người dân Việt Nam - không phân biệt tôn giáo, đẳng cấp, giới tính.

Cuối văn bản, Bác khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. và nhiệm vụ của mỗi người là cần phải giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Cách lập luận của Hồ Chí Minh hoàn toàn thuyết phục.

Bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” giàu giá trị, đồng thời góp phần thể hiện được phong cách văn chính luận của Hồ Chí Minh.

Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 3

Nhân dân Việt Nam vốn giàu truyền thống yêu nước. Điều đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh chứng minh qua tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”.

Bài viết trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam.

Đầu tiên về nội dung, bài viết đã nêu ra luận điểm cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ”. Tiếp đến, Hồ Chủ tịch đã sử dụng động từ mạnh: “lướt qua, nhấn chìm” kết hợp với hình ảnh so sánh “tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ”, để cho thấy sức mạnh của tinh thần yêu nước.

Tiếp đến, Bác đã chứng minh cho luận điểm trên bằng các dẫn chứng cụ thể từ quá khứ đến hiện tại. Bề dày của truyền thống yêu nước thể hiện qua các triều đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Đó đều là những dẫn chứng mà mọi người dân Việt Nam đều biết đến, bởi vậy mà sức thuyết phục cao. Tiếp tục đến hiện tại, Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Câu chuyện đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” cho thấy sự khéo léo của người viết. Các dẫn chứng được bác đưa ra vô cùng thuyết phục: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Với biện pháp tu từ liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết “từ… đến”, Bác đã khẳng định lòng yêu nước tồn tại trong người dân Việt Nam ở mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp…

Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lòng yêu nước vốn là một thứ vô hình, nay lại được Bác so sánh trở nên cụ thể hơn. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động cụ thể.

Bài viết của Hồ Chí Minh có lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Cùng với đó là dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động. Tác phẩm xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực.

Như vậy, “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” là một tác phẩm ngắn gọn nhưng cô đọng. Hồ Chí Minh đã chứng minh cho người đọc thấy được tinh thần yêu nước của nhân dân ta dù ở quá khứ hay hiện tại.

Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 4

Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng, mà còn là một nhà văn, nhà thơ. Các tác phẩm của Bác đã để lại những giá trị to lớn cả về nội dung và nghệ thuật. Trong đó có bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”.

“Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” được trích trong “Báo cáo Chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Qua đoạn trích này, tác giả đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”

Phần mở đầu của bài viết, Bác đã đưa ra nhận định chung về tinh thần yêu nước. Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, nồng nàn, chân thành và luôn sục sôi. Việc sử dụng động từ mạnh “lướt qua, nhấn chìm” kết hợp với so sánh “tinh thần yêu nước” với “một làn sóng” cho thấy sức mạnh và khí thế mạnh mẽ của lòng yêu nước.

Tiếp đến, Bác tập trung chứng minh về truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại. Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Mỗi nhân vật lịch sử đều gắn với những chiến công hiển hách trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Điều đó càng làm tăng sự thuyết phục cho bài viết.

Nhưng không chỉ dừng lại ở quá khứ, Bác tiếp tục nêu ra những dẫn chứng ở hiện tại. Câu chuyển tiếp “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” đầy khéo léo, đã cho thấy sự chuyển tiếp của tinh thần yêu nước giữa thế hệ trước với thế hệ sau. Và lòng yêu nước của nhân dân ta ngày hôm nay được thể hiện qua từng thế hệ. Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng, trẻ thơ…ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc. Cả những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội. Những phụ nữ khuyên chồng tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải. Nam nữ nông dân và công nhân hăng hái tăng gia sản xuất. Những đồng bào điền chủ quyên ruộng cho Chính phủ… Tinh thần yêu nước dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không phân biệt tuổi tác, giới tính, giai cấp, nghề nghiệp. Chỉ cần là người dân Việt Nam thì đều mang trong mình một tấm lòng yêu nước. Sau khi đưa ra dẫn chứng, Bác đã đánh giá lại: “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”.

Ở đoạn cuối cùng, Bác đã đặt ra nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam. Qua hình ảnh so sánh: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Bác đã khiến tinh thần yêu nước vốn trừu tượng, nay trở nên hữu hình. Và từ đó Người yêu cầu mỗi người dân Việt Nam phải “làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”. Hiểu đơn giản, nhiệm vụ của mỗi người là phải giữ gìn và phát huy tinh thần yêu nước đó bằng hành động cụ thể.

Thế hệ trẻ hôm nay đã phát huy tinh thần yêu nước đó bằng hành động cụ thể. Nhiều thanh niên tài năng với những phát minh khoa học được thế giới công nhận lại nguyện trở về Việt Nam xây dựng sự nghiệp. Nhiều sinh viên vừa mới tốt nghiệp, tình nguyện trở về quê hương - những vùng miền núi xa xôi… Nhưng bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận quên đi nguồn cội của mình. Họ rời bỏ quê hương hoặc thậm chí là tìm cách chống phá đất nước (để lộ bí mật quốc gia, hiện tượng chảy máu chất xám…). Đó là những hành vi đáng lên án, cần phải tránh xa.

Như vậy, bài viết “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” đã cho người đọc thấy được tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam. Đó là một truyền thống tốt đẹp đã được chứng minh trong quá khứ cũng như ở hiện tại.

Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 5

“Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” được trích trong “Báo cáo Chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Qua đoạn trích này, tác giả đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”

Đầu tiên Hồ Chủ tịch đã đưa ra vấn đề nghị luận: “Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta…”. Qua đó Người muốn khẳng định truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam cũng như niềm tự hào về truyền thống đó. Tiếp tục, Hồ Chí Minh đã sử dụng một so sánh độc đáo - so sánh cái trừu tượng với cái cụ thể đó là “tinh thần yêu nước” với “một làn sóng vô cùng mạnh mẽ” có thể nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Từ đó, người đọc thấy được sức mạnh to lớn của tinh thần yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tác giả Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh lòng yêu nước ở các cuộc chống ngoại xâm bởi nó được bộc lộ mạnh mẽ nhất, cụ thể nhất. Bác đã xuất phát từ đặc điểm lịch sử của dân tộc là luôn phải đối mặt với các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm nên rất cần đến lòng yêu nước và tinh thần xả thân vì nước. Trên thực tế, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải phát huy cao độ tinh thần thi đua yêu nước của toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt biểu dương những gương sáng về lòng yêu nước. Đó là những tấm gương yêu nước sáng soi muôn đời của các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng: “Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”. Nhưng không chỉ trong quá khứ mà còn là trong hiện tại: “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ…” Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.

Cuối cùng, Bác đã khẳng định lại nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam thông qua hình ảnh so sánh độc đáo để cho thấy tầm quan trọng của tinh thần yêu nước: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Bác đã thông qua hình ảnh so sánh đó để đặt ra trách nhiệm, bổn phận của nhân dân Việt Nam: “Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.

Như vậy, với bài văn này, Hồ Chủ tịch đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong lòng mỗi người dân. Truyền thống anh dũng, bất khuất là cơ sở vững chắc bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi cuối cùng. Ngày nay, bài văn trên vẫn còn nóng bỏng tính thời sự, có tác dụng động viên nhân dân Việt Nam vững bước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thân yêu.

Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 6

Bài văn “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” trích trong văn kiện “Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh” trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng lao động Việt Nam họp tại Việt Bắc tháng 2 năm 1951. Với tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ được tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Mở đầu đoạn trích, Người đã đưa ra vấn đề cần nghệ thuật: “Dân ta có lòng nồng nàn yêu nước”. Hai câu tiếp theo làm nổi bật luận đề lòng yêu nước của dân ta rất nồng nàn, là “một truyền thống quý báu” và có sức mạnh “vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hồ Chủ tịch đã so sánh lòng yêu nước của nhân dân ta bằng hình ảnh “làn sóng”. Các từ ngữ: “sôi nổi”, “kết thành”, “vô cùng mạnh mẽ, to lớn”, “lướt qua”, “nhấn chìm tất cả” - từ đó ca ngợi và khẳng định sức mạnh lòng nồng nàn yêu nước của dân ta trong trường kì lịch sử: “từ xưa đến nay” trong tình thế hiểm nghèo: “khi Tổ quốc bị xâm lăng”.

Tiếp đến, Bác đã nêu lên hàng loạt dẫn chứng lịch sử và xã hội để chứng minh, làm sáng tỏ lòng nồng nàn yêu nước của dân ta, về quá khứ những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Với việc sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, các dẫn chứng vừa khái quát, vừa điển hình mở ra trường liên tưởng về bao trang sử hào hùng chống xâm lăng của dân tộc trong tâm hồn người đọc. Các từ ngữ: “Chúng ta có quyền tự hào...”, “chúng ta phải ghi nhớ” đã làm rõ cảm xúc khi nêu dẫn chứng. Cảm xúc dào dạt, lý luận hùng hồn, lập luận đanh thép, đó là văn phong của Bác Hồ: “Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.

Và từ quá khứ lịch sử hào hùng đó, Hồ Chủ tịch nêu nhiều dẫn chứng để chứng minh lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta trong hiện tại, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Có câu chuyển ý, chuyển đoạn rất khéo: “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước”. Các dẫn chứng được sắp xếp và trình bày qua ba câu văn dài, có kết cấu liệt kê, trùng điệp: “Từ.. đến...”. Cách viết ấy đã làm sáng lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc và nhiệt tình tham gia kháng chiến của nhân dân ta là vô tận. Tinh thần yêu nước luôn tồn tại trong mỗi người không phân biệt tuổi tác: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ”. Hay giai cấp: “Từ những nam nữ công nhân… đến những đồng bào điền chủ…”. Thậm chí là cả khoảng cách địa lý: “Từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi...”. Bác đã khẳng định rằng: “Ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Và lòng yêu nước đó được biểu hiện một cách phong phú, đa dạng muôn màu muôn vẻ hoặc “chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc”, hoặc “nhịn ăn để ủng hộ bộ đội”, hoặc “khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải”, hoặc “săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình”.Các giới đồng bào, các tầng lớp xã hội: “từ những nam nữ công nhân và nông dân... cho đến những đồng bào điền chủ...”, hoặc là “thi đua tăng gia sản xuất...”, hoặc là “quyên ruộng đất cho Chính phủ”. Câu văn cuối cùng, Bác đã khẳng định một cách hùng hồn mạnh mẽ: “Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”. Có thể thấy, các dẫn chứng mà Người đưa ra vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa điển hình, vừa toàn diện, đầy sức thuyết phục.

Phần cuối văn bản, Hồ Chủ tịch ví lòng yêu nước “ như các thứ của quý” và nêu lên những biểu hiện của lòng yêu nước, hoặc “trưng bày trong tủ kính, trong “bình pha lê, rõ ràng dễ thấy”, hoặc “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Từ đó mà Bác nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân là phải “ ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.

Như vậy, đoạn trích “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” đã khẳng định được truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam: truyền thống yêu nước.

Phân tích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta - Mẫu 7

Đoạn trích “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ một chân lý: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”.

Bài văn trích trong Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi từ năm 1951 đến năm 1976 của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay).

Mở đầu đoạn trích, Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận định chung về tinh thần yêu nước: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta”. Đó là một lời khẳng định về truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tiếp theo với hình ảnh so sánh: “Tinh thần yêu nước ấy kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nõ lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Hồ Chí Minh đã cho thấy sức mạnh và khí thế của lòng yêu nước.

Và để tiếp tục minh chứng cho tinh thần yêu nước, Bác đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể, từ quá khứ đến hiện tại. Trong lịch sử, có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Họ đều là những tấm gương để thế hệ sau noi theo. Để rồi đến hiện tại, tinh thần yêu nước đó lại tiếp tục được phát huy. Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng, trẻ thơ…ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc. Hay những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội. Cả những người phụ nữ khuyên chồng tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải. Rồi nam nữ nông dân và công nhân hăng hái tăng gia sản xuất. Ngay cả những đồng bào điền chủ quyên ruộng cho Chính phủ…. thế mới thấy tinh thần yêu nước không luôn tiềm ẩn trong mỗi con người, không phân biệt giới tính, tuổi tác hay nghề nghiệp, giai cấp.

Cuối cùng, Bác đã đưa ra nhiệm vụ dành cho nhân dân Việt Nam. Người đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý” để từ đó cho thấy tầm quan trọng của lòng yêu nước. Với vai trò như vậy, Bác yêu cầu mọi người cần “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”. Có nghĩa là tinh thần yêu nước phải được thể hiện qua các hành động cụ thể, thiết thực.

Bài văn “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận. Hồ Chủ tịch đã làm sáng tỏ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam như một truyền thống quý báu đáng gìn giữ muôn đời.

Tài liệu có 13 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống