Đề bài: Trình bày ý kiến của em về biểu hiện của tính trung thực trong học tập và đời sống.
Top 10 bài Ý kiến về biểu hiện của tính trung thực trong học tập và đời sống 2024 SIÊU HAY
Ý kiến về biểu hiện của tính trung thực trong học tập và đời sống - Mẫu 1
Không có gì đáng quý bằng lòng trung thực. Chính nhờ trung thực, con người mới xây dựng được những mối quan hệ xã hội tốt đẹp và thành công trong cuộc sống. Hiểu đơn giản, trung thực là tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải; sống ngay thẳng, thật thà và dám dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Người có lòng trung thực luôn sống công bằng, tốt đẹp, không bao giờ giả dối hay thiên vị, không bao giờ vụ lợi cá nhân, hãm hại người khác. Ai cũng cần phải có lòng trung thực bởi chỉ khi biết trung thực, con người mới được tôn trọng, hợp tác hay giúp đỡ từ người khác để thành công. Người không có lòng trung thực sẽ bị khinh bỉ, ghét bỏ, nhất định sẽ thất bại. Trung thực là một năng lực do rèn luyện chứ không tự có. Muốn có lòng trung thực, nhất định phải biết tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải ở đời, sống hòa hợp, thân thiện, không tham lam, vụ lợi, không giả dối, lừa gạt người khác. Cuộc sống có thể sẽ khó khăn hơn khi chúng ta bảo vệ sự thật và lẽ phải nhưng chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Ý kiến về biểu hiện của tính trung thực trong học tập và đời sống - Mẫu 2
Vì sao chúng ta phải học thật, thi thật? Vì học thật là con đường duy nhất dể tiếp thu kiến thức, là giàu vốn tri thức cho bản thân. Học thật là cách duy nhất để có kiến thức thật – những kiến thức có thể vận dụng một cách có ích trong mọi hoạt động sống cũng như lao động, nghiên cứu.Học thật cũng là cơ sở tạo nên ý nghĩa chân chính của các hoạt động học tập và thi cử. Để đánh giá chính xác kết quả học tập, năng lực của bản thân người học thì cần phải thi thật . Trên cơ sở đó, ngưòi học mới có thể xác định chính xác mục tiêu, hướng đi cho tương lai. Thi thật để tạo sự công bằng giữa các cá nhân tham gia các hoạt động học tập và thi cử. Là động lực thúc đẩy hoạt động học để học là học thật chứ không phải là học giả.
Ý kiến về biểu hiện của tính trung thực trong học tập và đời sống - Mẫu 3
Tính trung thực còn giúp chúng ta có cái nhìn, đánh giá đúng năng lực của mỗi người. Học sinh có tính trung thực trong học tập, thi cử thì thầy cô giáo mới đánh giá đúng năng lực của mỗi học sinh để có kế hoạch bồi dưỡng và nâng cao kiến thức. Vì thế, khi học sinh có biểu hiện không trung thực trong học tập, thi cử cần nhận thấy lỗi của mình và sửa sai. Có như vậy, học sinh mới trở thành người tốt, góp phần làm cho xã hội trong sạch, văn minh và ngày càng phát triển.
Ý kiến về biểu hiện của tính trung thực trong học tập và đời sống - Mẫu 4
Dân tộc Việt Nam ta có rất nhiều phẩm chất tốt đẹp được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, và một trong số đó là đức tính trung thực. “Trung thực” nghĩa là ngay thẳng, thật thà, nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật. Đức tính trung thực được thể hiện qua cách sống ngay thẳng, thật thà, dám nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Trong cuộc sống, người có đức tính trung thực luôn tôn trọng sự thật, chân lý và lẽ phải. Trong học tập, những biểu hiện của đức tính trung thực là học sinh không quay học, không mang tài liệu trong giờ thi, giờ kiểm tra. Trung thực là đức tính cần thiết và quý báu của mỗi người. Nó mang đến một xã hội công bằng và có sự tin tưởng giữa con người với nhau. Người trung thực luôn nhận được sự tin yêu và kính trọng của mọi người. Ngày nay, tính trung thực lại càng cần thiết hơn vì đức tính này sẽ giúp chúng ta trở thành những con người tốt, được người khác tin tưởng, như lời Bác Hồ đã từng dạy: “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.
Một trong những đức tính quan trọng trong học tập và đời sống là tính trung thực. Trung thực có nghĩa là không nói dối và giữ lời hứa, luôn nói sự thật và làm đúng những gì đã cam kết. Trong học tập, tính trung thực là yếu tố quan trọng để xây dựng niềm tin và sự tôn trọng giữa thầy cô và học sinh. Nếu học sinh không trung thực, họ sẽ không được đánh giá cao về kết quả học tập và sẽ mất đi niềm tin của giáo viên. Trong đời sống, tính trung thực là một trong những yếu tố cơ bản để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Người trung thực sẽ được đánh giá cao và tin tưởng hơn, và họ sẽ tạo được sự tôn trọng và uy tín trong xã hội. Vì vậy, tính trung thực là một yếu tố quan trọng để đạt được thành công trong học tập và đời sống.
Kiểu nhân hoá nào được sử dụng trong các câu thơ, câu văn sau?
a) Buổi sớm, khi cậu gà ri tê tái chạy ở trong chuồng ra, dẫn đầu ba chị gà, một bác ngan với một lũ con líp nhíp và mấy thím vịt thì ở nóc chuồng, chọi ta cũng nhảy xuống, hai cái chân gieo bịch trên nền đất.
Theo TÔ HOÀI
b) Bắt đền trăng đấy
Trốn vào sau mây
Để buồn cỏ cây
Khóc mưa thút thít.Trái bòng chẳng thiết
Nằm ườn trên mâm
Quả na lặng câm
Mắt nhìn xa vắng.
NGUYỄN ĐÌNH XUÂN
c) Khi cô sách giáo khoa nói đến những cuốn sách như thế, cả hộp chữ chúng tôi xôn xao hẳn lên, tất cả reo nhảy mừng rỡ. Chúng nó tranh nhau hỏi hết câu này đến câu khác làm cho cô không còn biết trả lời thế nào.
Theo TRẦN HOÀI DƯƠNG
Đề bài: Viết 1-2 câu tả đồ vật hoặc con vật, cây cối có hình ảnh nhân hóa.
Đọc lại và tóm tắt bài văn Cây si theo bảng sau:
Bố cục |
Ý chính của đoạn |
Nội dung |
Mở bài |
Giới thiệu về cây si |
|
Thân bài |
Miêu tả các bộ phận của cây si |
Rễ si: |
Lá si: |
||
Kết bài |
Nêu cảm nghĩ về cây si |
|
Viết một đoạn văn ngắn (4 – 5 câu) tả cây cối, trong đó có hình ảnh nhân hóa.
Tìm biện pháp nhân hoá trong hai khổ thơ sau:
Đứng đâu là cao đấy
Mà chẳng che lấp ai
Dáng khiêm nhường, mảnh khảnh
Da bạc thếch tháng ngày.
Mà tấm lòng thơm thảo
Đỏ môi ngoại nhai trầu
Thương yêu đàn em lắm
Cho cưỡi ngựa tàu cau.
ĐẶNG HẤN
Đọc bài văn sau và trả lời câu hỏi:
Cây si
Cây si bao giờ cũng già hơn những cây khác, từ cây si cổ thụ bên giếng đầu làng đến cây si bé tí trong hòn non bộ của ông.
Rễ si làm thành bộ “râu” độc đáo của si. Bộ râu si rất rậm và dài. Những ngày sắp mua hoặc sau mưa, cây si lại càng già thêm vì râu cứ trắng ra. Cây si khác cây đa là những chòm râu ấy không thành những thân phụ, mà bao giờ cũng vẫn chỉ là bộ râu loà xoà. Còn cây đa, đến một ngày nào đó, có những râu sẽ ăn xuống đất, lồn lên, thành thân cây: một cây đa có khi có đến năm, sáu gốc.
Lá si tuy nhỏ nhưng nhiều nên bao giờ cũng cho bóng mát. Bước vào dưới bóng một cây si, sờ vào tùng chòm râu, ta cảm thấy mát rượi và quên ngay cái nắng gay gắt ngoài đường. Cây si không bao giờ rụng lá hàng loạt như cây bằng, cây sấu, cây xà cừ, cây xoan. Cây si già hơn những cây khác vì chòm râu nhưng cũng luôn trẻ hơn những cây khác vì xanh lá quanh năm.
Lá si tặng con người bóng mát, còn chòm râu thì để trẻ ngắm nghĩa mà nhớ đến ông nội, ông ngoại của mình, những người giả luôn yêu quý các em.
Theo BẰNG SƠN
a) Bài văn có mấy đoạn? Nêu nội dung của từng đoạn.
b) Cây si được miêu tả theo trình tự nào?
Đề bài: Quan sát và ghi lại kết quả quan sát một cây hoa mà em yêu thích.
Cấu tạo của bài văn tả cây cối
Trình tự miêu tả trong bài văn sau có gì khác bài văn Cây si?
Cây bàng
Đối với Thuỷ, cây bàng này thật thân thiết. Mùa hè, hết tầng lá nọ đến tầng lá kia che kín không cho một tia nắng nhỏ rồi được xuống đất. Những cái lá to của nó toàn một màu xanh ngắt, màu xanh mát mẻ biết bao nhiêu!
Sang cuối thu, lá của nó ngả màu vàng tía, cái màu fía kì diệu ấy không thể thấy ở bất cứ một cây nào khác, càng nhìn càng thấy đẹp. Đỗ anh hoạ sĩ nào pha được đúng cái màu fía ấy của lá bàng cuối thu!
Qua mùa đông, cây bằng trụi không còn một lá, cành như khô lại, in trên nền trời đục. Trong những ngày rét nhất, đám cảnh trơ trụi đó như cố co mình lại để chịu cho được cái rét buốt của mùa đông. Thuỳ và các bạn thấy thương xót trong lòng, những cảnh trụi hết lá kia trơ trơ ngoài trời chắc là rét lắm!
Cho tới mùa xuân, chỉ một đêm thôi, chồi xanh li ti đã điểm kín cành to, cảnh nhỏ. Rồi từng ngày, từng ngày, những chồi xanh ấy lớn nhanh như thổi, mỗi ngày một khác, mỗi lúc một khác nữa kia. Mùa xuân của cây bàng cũng như tuổi thơ của nó vậy.
Theo ĐẢO VŨ
Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
Ông Mặt Trời óng ánh
Ông Mặt Trời óng ánh
Toả nắng hai mẹ con
Bóng con và bóng mẹ
Dắt nhau đi trên đường.
Ông nhíu mắt nhìn em
Em nhíu mắt nhìn ông
“Ông ở trên trời nhé!
Cháu ở dưới này thôi!”.
Hai ông cháu cùng cuối
Mẹ cười, đi bên cạnh.
Ông Mặt Trời óng ánh...
NGÔ THỊ BÍCH HIỀN
a) Sự vật nào được nhân hoá trong bài thơ?
b) Sự vật đó được nhân hoá bằng cách nào?
Cau
Đúng đâu là cao đấy
Mà chẳng che lấp ai
Dáng khiêm nhường, mảnh khảnh
Da bạc thếch tháng ngày.
Muốn cao thì phải thẳng
(Bài học ở cây cau)
Thân bền khinh bảo tổ
Nhờ mưa nắng dãi dầu.
Mà tấm lòng thơm thảo
Đỏ môi ngoại nhai trầu
Thương yêu đàn em lắm
Cho cưỡi ngựa tàu cau.
Nơi cho mây dũng nghỉ
Để đi bốn phương trời
Nơi chim về ấp trứng
Nở những bài ca vui.
Tai lắng tiếng ríu ran
Thoảng thơm trong hơi thở
Chắc chim mới ra ràng
Ồ! Hoa cau đang nở
(ĐẶNG HẤN)
Tìm các khổ thơ ứng với mỗi ý sau:
a) Tả hình dáng cây cau.
b) Nêu ích lợi của cây cau.
c) Thể hiện tình cảm của tác giả với cây cau.
Giải ô chữ:
Dựa vào gợi ý, tìm chữ cái phù hợp với mỗi ô trống để hoàn thành các từ theo từng dòng.
Dòng 1: Nói * không sợ mất lòng.
Dòng 2: Đói cho sạch, * cho thơm.
Dòng 3: Thẳng như * ngựa.
Dòng 4: Tre già. * mọc.
Dòng 5: Giấy rách phải * lấy lề.
Dòng 6: Ăn ngay nói *, mọi tật mọi lành.
Dòng 7: Ngang bằng sổ *.
Dòng 8: Danh * là điều quý nhất.
Dòng 9: * ngay không sợ chết đứng.
Đề bài: Viết 3 câu tả đồ vật hoặc con vật, cây cối có hình ảnh nhân hóa.
* Nội dung chính Những chú bé giàu tưởng tượng
Bằng những câu chuyện tưởng tượng, tán dóc mà vừa có thể mua vui, gây tiếng cười cho nhau; vừa có thể giúp xoa dịu, an ủi những người xung quanh nhờ câu chuyện vui của mình; Mi-sa và Xa-sa đã biến trí tưởng tượng của mình trở nên thiết thực, hữu ích hơn bao giờ hết.
Những chú bé giàu trí tưởng tượng
Mi-sa và Xa-sa ngồi chơi ngoài sân chung cư. Hai cậu thi tán dóc. Mi-sa bảo:
– Có lần, tớ giẫm phải một chiếc xe buýt. Vừa nghe đánh “roạt” một cái, xe đã bẹp rúm.
– Xạo quá! Làm sao cậu giẫm bẹp được chiếc xe buýt?
– Thì nó là đồ chơi, nhỏ xíu ấy mà.
Đến lượt Xa-sa:
– Một đêm, tớ bay lên Mặt Trăng.
Mi-sa cười phá lên:
– Thế cậu trông thấy gì nào?
– Tớ bay ban đêm nên không thấy gì. Bay mãi... bay mãi... rồi rơi huych xuống đất. Thế là tỉnh dậy.
– Sao cậu không nói ngay từ đầu là cậu ngủ mê?
Nghe hai bạn tán dóc, l-go xen vào:
– Các cậu khoác lác quá thể!
– Nhưng chúng tỏ có lừa dối ai đâu! Chỉ tưởng tượng thôi, như kể chuyện cổ tích ấy mà.
I-go xì một cái, tỏ vẻ coi thường. Chúng cãi nhau. Rồi Mi-sa và Xa-sa bỏ về. Qua quầy kem, hai cậu bé lục hết các túi, vừa đủ tiền mua chung một gói kem. Mi-sa bảo:
– Chúng mình về nhà lấy dao cắt cho đều.
Đến cầu thang, hai cậu bé gặp I-ra. Mắt cô bé đỏ hoe. Mi-sa hỏi:
- Vì sao em khóc?
– Em bị mẹ mắng. Anh I-go ăn vụng mút, lại bảo là em ăn.
Xa-sa bảo:
– Thôi, đừng khóc nữa! Về nhà đi, anh sẽ cho em phần kem của anh.
- Thế các anh không thích kem à?
– Hôm nay, bọn anh ăn phải đến mười que kem rồi ấy chứ!
I-ra đề nghị:
– Tốt nhất là chia kem ra làm ba phần.
Về đến nhà Mi-sa, ba anh em chia kem làm ba phần. Mi-sa gật gù:
– Có lần tớ ăn hết nhẵn cả một thùng kem.
I-ra cười to:
– Úi dà, anh lại bịa chuyện rồi! Ai mà tin được!
– Thì thùng kem nhỏ bằng cái cốc ấy mà!
Theo NÔ-XỐP (Hoàng Anh dịch)
Những câu chuyện của Mi-sa và Xa-sa có gì thú vị?
Đề bài: Trình bày ý kiến của em về tính cách của các nhân vật trong câu chuyện đã học ở Bài 3.